Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

Truyện nàng sau hãy còn lâu, truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra. Kể từ quan lộ đường xa, này duyên thầy mẹ, này duyên bạn đường.

Phiên bản Dịch · 3213 chữ

Truyện nàng sau hãy còn lâu, Truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra.(50)

Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga, Giữa đường lại gặp người ra kinh kì.

Xa xem mặt mũi đen xì, Mình cao sồ sộ dị kì rất hung.

Nhớ câu bình thuỷ tương phùng,(51) Anh hùng lại gặp anh hùng một khi:

"Chẳng hay danh tánh là chi, Một mình mang gói ra đi việc gì".

Đáp rằng: "Ta cũng xuống thi, Hớn Minh tánh tự, Ô Mi quê nhà.

Vân Tiên biết lẽ chính tà, Hễ người dị tướng ắt là tài cao.

Chữ rằng: "Bằng hữu chi giao,(52) Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây.

Nên rừng há dễ một cây, Muốn cho có đó cùng đây luôn vần.

Kìa nơi võ miếu hầu gần, Hai ta vào đó nghỉ chưng một hồi".

Cùng nhau bày họ tên rồi, Hai chàng từ tạ đều lui ra đường.

Hớn Minh đi trước tựu trường, Vân Tiên còn hãy hồi hương viếng nhà.

Mừng rằng: "Nay thấy con ta, Cha già hằng tưởng mẹ già luống trông.

Bấy lâu đèn sách gia công, Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?"

Vân Tiên quỳ lạy thưa rằng: "Chẳng hơn người cổ cũng bằng người kim.

Dám xin cha mẹ an tâm, Cho con trả nợ thanh khâm cho rồi"(53)

Mẹ cha thấy nói thêm vui, Lại lo non nước xa xôi nghàn trùng.

Cho theo một đứa tiểu đồng, Thư phong một bức dặn cùng Vân Tiên:

"Xưa đà định chữ lương duyên, Cùng quan hưu trí ở miền Hàn Giang,

Con người là Võ Thể Loan.

Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà.(54)

Chữ rằng Hồ Việt nhứt gia, (55) Con đi qua đó trao qua thơ này.

Con dầu bước đặng thang mây, Dưới chưng đã sẵn một dây tơ hồng".

Song thân dạy bảo vừa xong, Vân Tiên cùng gã tiểu đồng dời chân.

Ra đi tách dặm băng chừng, Gió nam rày đã đưa xuân sang hè.

Lại xem dặm liễu đường hoè, Tin ong ngơ ngáo tiếng ve vang dầy.

Vui xem nước nọ non nầy, Nước xao sóng dợn non vầy đá cao.

Màn trời gấm trải biết bao, Trên nhành chim hót dưới ao cá cười.

Quận thành nhắm cảnh coi người, Cảnh xinh như vẽ người tươi như dồi.(56)

Hàn Giang phút đã tới nơi, Vân Tiên ra mắt một hồi trình thơ.

Võ công lấy đọc bấy giờ, Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền.(57)

Liếc coi tướng mạo Vân Tiên, Khá khen họ Lục phước hiền sinh con.

Mày tằm mắt phụng môi son, Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân.

Những e kẻ Tấn người Tần,(58) Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai.(59)

Xem đà đẹp đẽ hoà hai, Này dâu nam giản nọ trai đông sàng(60)

Công rằng: "Ngãi tế mới sang,(61) Muốn lo việc nước phải toan việc nhà".

Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia, Đại khoa dầu đặng tiểu khoa lo gì".(62)

Công rằng: "Con dốc xuống thi, Sao không kết bạn mà đi tựu trường?

Gần đây có một họ Vương, Tên là Trử Trực văn chương tót đời.(63)

Cha đà sai trẻ qua mời, Rằng con cùng gã thử chơi một bài.

Thấp cao cao thấp biết tài, Vầy sau trước bạn cùng mai mới mầu".(64)

Xảy đâu Trử Trực tới hầu, Võ công sẵn đặt một bầu rượu ngon.

Công rằng: "Nầy bớ hai con, Thơ hay làm đặng rượu ngon thưởng liền.

Muốn cho Trực sánh cùng Tiên, Lấy câu bình thuỷ hữu duyên làm đề".(65)

Song song hai gã giao kề,(66) Lục Vương hai họ đua nghề một khi

Cho hay kì lại gặp kì,(67) Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành.(68)

Công rằng : "Đơn quế đôi nhành, Bảng vàng thẻ bạc đã đành danh nêu.

Như chuông chẳng đánh chẳng kêu, Ngọn đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình.

Thiệt trang lương đống đã đành,(69) Khá khen hai họ tài lành hoà hai".

Trực rằng: "Tiên vốn cao tài, Có đâu én hộc sánh vai một bầy?(70)

Tình cờ mà gặp nhau đây, Trực này xin nhượng Tiên này làm anh.

Nay đà nên nghĩa đệ huynh, Xin về mai sẽ thượng trình cùng nhau".(71)

Phút xem trăng đã đứng đầu, Vân Tiên vào chốn thư lầu nghỉ an.

Võ công trở lại hậu đàng, Đêm khuya dạy dỗ Thể Loan mọi lời: "Ngày mai vừa rạng chân trời, Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình.(72)

Gọi là chút nghĩa tống tình.(73) Phòng sao cho khỏi bất bình cùng nhau".

Bóng trăng vừa lộ nhành dâu, Vân Tiên vào tạ giây lâu xuất hành.

Ra đi vừa thuở bình minh, Thể Loan đứng trước lê đình liễm dung.(74)

Thưa rằng: "Quân tử phó công,(75) Xin thương bồ liễu chữ tùng ngây thơ.

Tấm lòng thương gió nhớ mưa,(76) Đường xa ngàn dặm xin đưa một lời.

Ngày nay thánh chúa trị đời, Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng.(77)

Quản bao chút phận má hồng.

Phòng khuya vò võ đợi trông khôn lường.

Chàng dầu cung quế xuyên dương,(78) Thiếp xin hai chữ tào khương cho bằng.(79)

Xin đừng tham đó bỏ đăng,(80) Chơi lê quên lựu chơi trăng quên đèn".

Tiên rằng : "Như lửa mới nhen, Dễ trong một bếp mà chen mấy lò.

May duyên rủi nợ dễ phô,(81) Chớ nghi Ngô Khởi hãy lo Mãi Thần"(82)

Thể Loan vội vã lui chân, Vân Tiên từ biệt trông chừng Tràng An.

Xa xa vừa mấy dặm đàng, Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn cùng đi.(83)

Trải qua thuỷ tú sơn kì,(84) Phỉ lòng cá nhảy gặp thì rồng bay.(85)

Người hay lại gặp cảnh hay, Khác nào tiên tử chơi rày Bồng Lai.

Cùng nhau tả chút tình hoài, (86) Năm ba chén rượu một vài câu thơ.

Công danh ai chẳng ước mơ, Ba tầng cửa Võ một giờ nhảy qua. (87)

Cùng nhau bàn bạc gần xa Chữ tài chữ mệnh xưa hoà ghét nhau.

Trực rằng: "Rồng xuống vực sâu, Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây". (88)

Tiên rằng: "Hồng hộc đều bay, E khi mỏi cánh lạc bầy về sau" (89)

Mảng còn trò chuyện với nhau, Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi. (90)

Chênh vênh vừa xế mặt trời, Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kì.

Đều bày tên họ một khi mới tường.

Một người ở quận Phan Dương, Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn.

Một người ở phủ Dương Xuân, Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi. (91)

Hai người lại gặp hai người, Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.

Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên, Nay đã thấy mặt phỉ nguyền ước ao".

Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao, Làm thơ mới biết bậc nào tài năng:".

Bèn kêu ông quán nói rằng: "Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề". (92)

Quán rằng: "Thịt cá ê hề, Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.

Kìa là thuốc lá ướp ngâu, (93) Trà ve điểm tuyết, rượu bầu cúc hương. (94)

Để khi đãi khách giàu sang, Đãi người văn vật đãi trang anh hùng".

Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ.

Kiệm Hâm còn hãy ngẩn ngơ, Phút thơ Tiên Trực một giờ đều xong.

Kiệm Hâm xem thấy lạ lùng, Gẫm nghi Tiên Trực viết tùng cổ thi. (96)

Chẳng hay ông quán cười chi, Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.

Tiên rằng: "Ông quán cười ai?" Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ, (97)

Cười người Tôn Tẫn không lừa, Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên". (98)

Trực rằng : "Lời nói hữu duyên, Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?" (99)

Quán rằng: "Kinh sử đã từng, Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.

Hỏi thời ta phải nói ra, Vì chưng hay ghét cũng là hay thương" (100)

Tiên rằng: "Trong đục chưa tường, Chẳng hay thương ghét ghét thương lẽ nào?"

Quán rằng: "Ghét việc tầm phào, (101) Ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm.

Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm, (102) Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.

Ghét đời U Lệ đa đoan, (103) Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

Ghét đời ngũ bá phân vân, (104) Chuộng bể dối trá làm dân nhọc nhằn.

Ghét đời thúc quí phân băng, (105) Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.

Thương là thương đức thánh nhân, Khi nơi Tống Vệ lúc Trần lúc Khuông. (106)

Thương thầy Nhan Tử dở dang. (107) Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.

Thương ông Gia Cát tài lành, Gặp cơn Hớn mạt đã đành phui pha. (108)

Thương thầy Đồng tử cao xa, (109) Chí thời có chí ngôi mà không ngôi.

Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi, (110) Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.

Thương ông Hàn Dũ chẳng may, (111) Sớm dưng lời biểu ối đày đi xa.

Thương thầy Liêm Lạc đã ra, (112) Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.

Xem qua kinh sử mấy lần, Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương".

Trực rằng: "Chùa rách Phật vàng, (113) Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân. (114)

Thương dân sao chẳng lập thân, Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?"

Quán rằng: "Nghiêu Thuấn thuở xưa, (115) Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do. (116)

Di Tề chẳng khứng giúp châu, (117) Một mình một núi ai hầu chi ai.

Ông Y ông Phó ôm tài, (118) Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu.

Thái Công xưa một cần câu, (119) Hôm mai sông Vị mặc dầu vui chơi.

Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi, (120) Cày mây câu nguyệt tả tơi áo cầu. (121)

Trần Đoàn chẳng chút lo âu, (122)

Gió trăng một túi công hầu chiêm bao,(123)

Người nay có khác xưa nào, Muốn ra ai cấm muốn vào ai ngăn".

Hâm rằng: "Lão quán nói nhăng, Dẫu cho trải việc cũng thằng bán cơm.

Gối rơm theo phận gối rơm, Có đâu ở thấp mà chồm lên cao".

Quán rằng: "Sấm chớp mưa rào, Ếch ngồi đáy giếng thấy bao lăm trời.

Sông trong cá lội thảnh thơi, Xem hai con mắt sáng ngời như châu.

Uổng thay đàn gảy tai trâu, Nước xao đầu vịt ngẫm âu nực cười".

Tiên rằng: "Ông quán chớ cười, Đây đà nhớ lại bảy người Trước Lâm.(124)

Cùng nhau kết bạn đồng tâm, Khi cờ khi rượu khi cầm khi thi.

Công danh phú quí màng chi, Sao bằng thong thả mặc khi vui lòng.

Rừng nhu biển thánh minh mông,(125) Dù ai lặn lội cho cùng vậy vay".

Quán rằng: "Đó biết ý đây, Lời kia đã cạn rượu này thưởng cho".

Kiệm Hâm là đứa so đo, Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.

Khoa này Tiên ắt đầu công, Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.

Mảng còn nghĩ việc tới lui, Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.

Kẻ thùng người tráp đầy đường, Lao xao đoàn bảy chàng ràng lũ la.

Chú giải:

(50) Thứ đầu: lớp đầu, phần đầu.

(51) Bình thuỷ tương phùng: bèo nước gặp nhau, tình cờ mà gặp.

(52) Bằng hữu chi giao : tình bạn bè.

(53) Thanh khâm: áo cổ xanh là áo của học trò thời xưa thường bận. Nợ thanh khâm, cũng như nói nợ bút nghiên.

(54) Hai bảy: mười bốn

(55) Hồ Việt nhứt gia: người Hồ (phía Bắc) kẻ Việt (phía Nam) chung một nhà.

(56) Dồi: trau dồi son phấn.

(57) Duyên cầm sắt: duyên vợ chồng hoà thuận êm ấm (như tiếng đàn sắt, đàn cầm hoà nhau).

(58) Kẻ ở nước Tấn (phía Đông) người ở nước Tần (phía Tây), chỉ sự xa cách mỗi người một ngả.

(59) Tức giai ngẫu (một đôi tốt đẹp), chỉ vợ chồng tốt đôi.

(60) Dâu nam giản: Người con dâu trung hậu, đảm đang, lấy ý từ kinh Thi: "Hái rau tần từ bờ suối phía Nam", là thơ khen người vợ trẻ đảm đang lo việc nội trợ. Trai đồng sàng: chỉ chàng rể tốt.

(61) Ngãi tế: con rể.

(62) Đại khoa: là thi đỗ. Tiểu khoa: là cưới vợ.

(63) Tót đời: hơn đời, hơn hết mọi người.

(64) Trước: là trúc. Đây ý nói hai người kết bạn thân với nhau là rất tốt, như trúc, mai.

(65) Bình thuỷ hữu duyên: bèo nước có duyên.

(66) Giao kề: sánh ngồi gần kề bên nhau.

(67) Kì: chỉ người tài giỏi khác thường.

(68) Bạch Hàm Như Hoành: hai nhân vật nổi tiếng thơ vǎn, tài hoa trong truyện Bình Sơn Lãnh Yến.

(69) Lương đống: rường cột, chỉ người có tài đức lớn giúp nổi việc nước.

(70) én hộc: ý nói chim én không sánh được với chim hộc (Trực nói nhún)

(71) Thượng trình: lên đường.

(72) Tiểu nhi: con trẻ, tiếng cha mẹ gọi con. Lên đình: Sân có trồng lê.

(73) Tống tình: tiễn nhau trong tình cảm.

(74) Liễm dung: Nghiêm chỉnh dáng điệu để tỏ ý tôn trọng.

(75) Phó công: đi thi lập công danh.

(76) Nôn nao không yên, như mưa, như gió luôn xao động.

(77) Chim phượng thiêng đậu đúng cây ngô đồng, ví người hiền tài được ở vị trí xứng đáng.

(78) Cung quế xuyên dương: ví việc thi đỗ, công thành danh đạt.

(79) Tào Khương: Tấm Cám, vợ chồng lấy nhau từ lúc còn nghèo hèn.

(80) Nói lòng dạ đổi thay, tham mới bỏ cũ. Đó và đǎng là hai dụng cụ đan bằng tre để bắt cá.

(81) May thì gặp duyên, rủi thì gặp nợ, lẽ đó bày ra rành rành.

(82) Để được làm quan to, Ngô Khởi đã giết vợ. Chu Mãi Thần vì nghèo nên vợ bỏ đi lấy chồng khác. Sau Mãi Thần làm đến chức thái thú.

(83) Vầy đoàn: họp lại thành đoàn.

(84) Sông đẹp núi lạ, nói cảnh đẹp.

(85) Gặp thời, thoả lòng đua sức đua tài."

(86) Tình hoài: tâm tình cảm xúc ở trong lòng.

(87) Cửa Võ: Mỏm núi đá hình cái cửa có sóng dữ, tục truyền hàng nǎm vào tiết tháng ba, cá chép khắp nơi kéo về vượt Vũ môn, con nào nhảy qua được thì hoá rồng. Nhân đó, cửa Vũ chỉ trường thi, và thi đỗ gọi vượt qua Vũ môn.

(88) Trực nói phen này mặc sức vẫy vùng.

(89) Vân Tiên e ngại lần này không theo kịp chúng bạn.

(90) Kinh địa: đất kinh đô.

(91) Tác chừng: tuổi tác chừng vào khoảng.

(92) Cho bề: cho nhiều, như nói bề bộn, bề bề.

(93) Ướp ngâu: ướp hoa ngâu vàng rất thơm.

(94) Trà ve: chè đựng trong chai, lọ nhỏ. Điểm tuyết: Lấm tấm màu tuyết, nói trà ngon. Cúc hương: hương hoa cúc.

(95) Bĩ bàng: đầy đủ, tươm tất.

(96) Viết tùng cổ thi: viết dựa dẫm theo thơ cũ có sẵn.

(97) Bất tài đồ thơ: không có tài nǎng về sách vở, tức là nói người học tồi, sức học kém cỏi.

(98) Tôn Tẩn là bạn học binh pháp với Bàng Quyên, sau bị Quyên hại, chặt hai chân, để gìm tài. Thầy học Quỷ Cốc Tử đã bảo trước cho Tôn Tẩn nhưng ông không đề phòng (không lừa, không lựa chọn).

(99) Tuyền: trọn đủ cả. ý cả câu: ông có thông thuộc cả kinh sử hay không?

(100) Hay ghét hay thương: biết ghét và biết thương.

(101) Tầm phào: vu vơ, hão huyền.

(102) Kiệt Trụ: Vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương, cả hai đều bạo ngược, vô đạo, hoang dâm.

103 U Lệ: U vương và Lệ vương thời nhà Chu làm nhiều việc bạo ngược, vô đạo. Đa đoan: lắm chuyện rắc rối.

104 Ngũ bá: cuối đời nhà Chu, nǎm vua chư hầu kế tiếp nhau nổi lên làm chủ một thời, nhân dân phải lầm than điêu đứng. Phân vân: lộn xộn bối rối như cảnh loạn.

105 Đời thúc quý: đời suy loạn sắp bị diệt vong. Phân bǎng: chia lìa.

Sớm đầu tối đánh: sớm đầu hàng, tối lại đánh.

106 Thánh nhân: chỉ Khổng Tử, không được dùng, từng đi khắp các nước Tống, Vệ, Trần, Khuông tìm cách hành đạo của mình mà không được. Về sau ông trở về nước Lỗ mở trường dạy học.

107 Nhan Tử: tức Nhan Uyên, học trò giỏi của Khổng Tử.

108 Gia Cát: tức Gia Cát Lượng, tự Khổng Minh, giúp Lưu Bị đánh bại Tào Tháo, dựng nước ở đất Thục, hết sức lo việc trung hưng nhà Hán, nhưng không thành.

109 Đồng Tử: tức Đổng Trọng Thư, danh nho đời Hán.

110 Nguyên Lượng: tức Đào Tiềm đời Tấn, tính tình cao thượng, không cầu danh lợi, giỏi thơ văn.

111 Hàn Dũ: đời Đường, tinh thông lục kinh, bách gia chư tử, đỗ tiến sĩ làm quan ở triều. Vua mê tín đạo Phật, rước xương Phật vào cung, ông dâng sớ cực lực ngăn cản. Vì thế ông bị đổi ra làm quan ở đất Triều Châu.

112 Liêm, Lạc: chỉ Chu Đôn Di ở Liêm Khê và hai anh em họ Trình ở Lạc Dương. Cả ba đều là những nhà triết học đời Tống, có ra làm quan nhưng không được đắc dụng, lại trở về dạy học.

113 Nói nhân tài ở chỗ nghèo hèn.

114 Kinh luân: tài sắp đặt tổ chức việc nước.

115 Nghiêu Thuấn: hai vua truyền thuyết được nhà nho coi là mẫu mực, đã theo được đạo trời mà trị dân.

116 Sào Phủ Hứa Do: Hai ẩn sĩ nổi tiếng đời Nghiêu.

117 Bá Di và Thúc Tề, hai người lấy việc nước mất làm xấu hổ, bỏ lên núi thú dương hái rau vi mà ăn, không chịu ăn thóc nhà Chu. Chăng khứng: không chịu.

Ai hầu chi ai: không ai chịu hầu hạ, phục dịch cho ai cả.

118 Hai đại công thần nhà Thương.

119 Thái Công: Khương Tử Nha, già hơn 70 tuổi vẫn ngồi câu cá ở bờ sông Vị. Chu Văn Vương nhân đi săn gặp ông, bèn đón ông về kinh, tôn làm thầy. Ông giúp Văn Vương và con là Vũ vương dựng nghiệp nhà Chu.

120 Nghiêm Lăng: ẩn sĩ đời vua Quang Vũ.

121 Cày mây câu nguyệt: cày trong mây, câu dưới trăng là nói cảnh thanh cao ẩn dật. áo cầu: áo cừu, áo may bằng da thú. Nghiêm Lăng ngồi lâu năm áo cừu đã rách nát.

122 Trần Đoàn: học rộng, tinh thông kinh Dịch, ẩn ở núi Vũ Dương, tu luyện đạo tiên.

123 Túi thơ ngâm phong vịnh nguyệt, coi công danh phú quý như giấc chiêm bao.

124 Bảy người đời Tấn, tính tình phóng đạt, thường họp nhau vui chơi nơi rừng Trúc (Trúc Lâm thất hiền).

125 Rừng nhu biển thánh: đạo nho dày như rừng, rộng như biển.

Bạn đang đọc Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi PhươngHạoNhiên
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 27

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.