Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

Đối chất ở huyện nha

Phiên bản Dịch · 6140 chữ

Hai bên đường là từng mảng ruộng lớn đã được thu hoạch, thân lúa chất đống trong ruộng, xa xa là từng mảng bóng đen, từ hình dáng có thể đoán là rừng rậm hoặc thôn trang, tuy nhiên không nhìn thấy ánh đèn, có thể là rừng rậm.

Mọi người lại đi thêm vài dặm, sắc trời đã hoàn toàn tối đen. Dương Nguyên Khánh nhìn khắp bốn phía, phát hiện cách đó hơn hai dặm có nhiều ánh đèn, hẳn là ở đó phải có một thôn xóm. Dương Nguyên Khánh dùng roi ngựa chỉ:

- Đi! Vào trong thôn làng qua đêm!

Mọi người đều giục ngựa chạy nhanh, dọc theo bờ ruộng, hướng thôn xóm cách đó hai dặm chạy tới. Không bao lâu sau, mọi người đã đứng trước cửa thôn. Đây là một cái thôn không lớn, không đến trăm hộ gia đình. Từ lượng đèn mà đoán, người trong thôn đều ở kín rồi.

Không đợt mọi người tới gần đã có hơn chục con chó từ trong thôn chạy ra, hướng về phía kỵ binh mà sủa, từ trong thôn, tiếng chó sủa vang lên thành từng hồi. Lúc này, có mấy người từ trong thôn đi ra, mang theo đèn lồng. Bọn họ nhìn thấy nhiều kỵ binh như vậy có chút do dự, nhưng cuối cùng vẫn nơm nớp lo sợ tiến đến.

Người cầm đầu là một lão già, từ ánh đèn mờ mờ của đèn lồng có thể thấy được râu tóc của người này đã bạc trắng, lưng đã còng. Đi sau lão là ba người trẻ tuổi, trong tay cầm cây côn xiên cỏ. Có thể thấy bước chân của họ rất do dự, dường như tràn đầy ý sợ hãi.

- Các vị quân gia là từ đâu đến?

Trình Giảo Kim đi theo Dương Nguyên Khánh, y vừa muốn há miệng hét lớn thì bị Dương Nguyên Khánh kéo y ngăn lại, sau đó tiến lên chắp tay cười nói:

- Chúng ta từ Thái Nguyên ra ngoài làm việc, hiện tại trở về Thái Nguyên. Sắc trời đã tối, muốn tá túc trong thôn một đêm, uống chén canh nóng. Chúng ta sẽ trả tiền trà nước.

Lão già cầm đèn lồng tiến đến trước mặt Dương Nguyên Khánh nhìn một lúc lâu, thấy bọn họ đúng là quan quân, không phải loạn phỉ liền gật đầu:

- Thôn rất nhỏ, cũng không có phòng ốc để không. Tuy nhiên trong thôn có một cái miếu thổ địa rất lớn, các vị có thể ở trong miếu nghỉ lại một đêm, lão đi tìm người nấu chén canh nóng cho các vị.

Dương Nguyên Khánh quay đầu lại nói với mọi người:

- Không cho phép vào nhà dân, tới miếu thổ địa nghỉ ngơi!

Bọn lính đều có vẻ mệt mỏi, tất cả xuống ngựa, dắt ngựa đi vào trong thôn. Quả thật thôn này không lớn, một con đường chạy dọc thôn dài chừng hai dặm, ở giữa con đường là một cái miếu thổ địa rộng khoảng mười mẫu. Bọn lính dẫn ngựa vào miếu thổ địa, sau đó tìm nơi nghỉ ngơi ăn uống.

Hơn chục thân binh đến Tây Sương phòng trong miếu thổ địa quét dọn một chút, đốt một đống lửa, có mấy tên lính chạy đi tìm giếng múc nước nấu trà. Dương Nguyên Khánh ngồi xuống, hắn thấy Trình Giảo Kim có chút không yên lòng, liền cười nói:

- Có phải chứng nghiện rượu lại tái phát hay không?

Trình Giảo Kim gãi đầu, có chút ngượng ngùng nói:

- Vừa mới nhìn thấy trong thôn trang có một quán rượu, khiến cho chứng nghiện rượu của ty chức nổi lên, hiện tại khó chịu muốn chết.

Dương Nguyên Khánh biết y xem rượu như mạng, từ lúc xuất chinh đến giờ vẫn chưa được uống một giọt rượu nào, quả thật cũng làm khó y rồi. Dương Nguyên Khánh biết nhưng lại vờ như không biết Trình Giảo Kim tìm được một lọ rượu gạo tốt nhất từ trong Vương cung Cao Ly, y đã vụng trộm cho qua cơn nghiện. Dương Nguyên Khánh thấy y vì đại cục mà vẫn khắc chế chính mình, liền nghĩ không làm khó y nữa, cười nói:

- Ngươi đi đi! Uống ít một chút, đừng gây chuyện cho ta!

Trình Giảo Kim mừng rỡ, tựa như mông bị mũi tên bắn trúng, nhảy dựng lên, như một cơn gió chạy ra khỏi miếu thổ địa (với cái thân hình của TGK thì phải là bão chứ gió gì ). Lúc này, ông già dẫn theo hơn chục người trẻ tuổi mang đến mấy thùng lớn canh nóng tiến vào, cười nói với bọn lính:

- Các vị quân gia mời đến dùng canh đi! Đây là canh thịt, trong canh còn có thịt thỏ.

Sau khi một gã quân y thử độc, bọn lính đều cầm bát tiến đến múc canh. Ông già lại đến trước mặt Dương Nguyên Khánh, khom người thi lễ:

- Vị quân gia này, có thể phiền quân gia đến nhà ta một chút hay không?

- Có chuyện gì không?

Dương Nguyên Khánh cười hỏi.

Ông già thở dài:

- Có chút việc muốn phiền đến quân gia.

Dương Nguyên Khánh thấy vẻ mặt của lão có chút ảm đảm, đoán chừng là gặp phải một vấn đề phiền não gì đó liền gật đầu:

- Được rồi! Ta đi với ông một chuyến.

Hắn đứng lên, mang theo năm sáu thân binh đi theo lão già ra khỏi miếu thổ địa. Không bao lâu sau liền tiến vào một cái sân trước:

- Đây là nhà của lão, mời quân gia ngồi.

Dương Nguyên Khánh cùng ông già bước vào một căn phòng, trên thực tế là phòng bếp và phòng ở liền với nhau, đã thắp một ngọn đèn nhỏ, ánh đèn mờ ảo, xuyên thấu không gian mờ mịt, có thể nhìn thấy ở góc phòng chất một đống lúa mì chưa tuốt và một vài bó củi.

Trong phòng có hai cái giường cũ nát. Lão già mời Dương Nguyên Khánh ngồi xuống, lại rót cho hắn một chén nước ấm:

- Làm phiền quân gia, thật ngại quá.

- Không việc gì, lão trượng có chuyện gì cứ việc nói!

Lão già về phòng mang tới một phong thư, có vẻ rất lo lắng. Lão đem thư đưa cho Dương Nguyên Khánh, thở dài nói:

- Sau khi quân gia về Thái Nguyên, có thể thay chúng ta chuyển một phong thư không?

Dương Nguyên Khánh nhận lấy bức thư, chỉ thấy trên bao thư viết “Gửi Đại Tùy Sở Vương Điện hạ” thì ngẩn ra, hóa ra phong thư này lại gửi cho mình…

Dương Nguyên Khánh trầm ngâm một chút rồi hỏi:

- Lão trượng cho là ta có thể gặp mặt Sở Vương sao?

Trên mặt ông già lộ ra vẻ bất đắc dĩ:

- Chúng ta cũng không có cách nào, dùng rất nhiều mối quan hệ đều không được. Nghe nói quân gia từ Thái Nguyên đến, thế nên mới thử một lần.

Nói tới đây, ông già lại lấy từ trong nhà ra một cái hộp nặng trịch, đặt trước mặt Dương Nguyên Khánh:

- Chúng ta cũng không để quân gia làm việc không công. Ở đây có mười xâu tiền, đều là tân tiền của triều Tùy, biếu quân gia uống rượu.

Nói xong ông lão bèn đưa chiếc hộp cho Dương Nguyên Khánh. Dương Nguyên Khánh chợt phát hiện ngoài cửa cũng có mấy ông lão, đều đang nhìn hắn, ánh mắt tràn đầy hi vọng.

Hắn bỗng nhiên hiểu ra một chút, cười nói:

- Lão trượng là trưởng thôn phải không?

Ông lão gật đầu:

- Lão họ Kiều, thôn này cũng gọi là thôn Kiều gia, chín phần dân trong thôn đều họ Kiều. Mọi người tín nhiệm lão, để lão làm trưởng thôn.

Ông lão lo sợ Dương Nguyên Khánh không đồng ý bèn cầm hộp tiền đẩy đến trước mặt Dương Nguyên Khánh nói:

- Chỉ cần quân gia cố gắng hết sức, nếu không làm được cũng không sao, số tiền này là để bồi dưỡng cho quân gia.

Dương Nguyên Khánh thầm bội phục tài ăn nói của ông lão. Đã nói đến bước này, không đáp ứng cũng không được rồi.

- Được rồi! Ta tạm thời thử xem. Ta có một người bạn, thân thích của y chính là Sở Vương Trương Trắc Phi, có lẽ có thể truyền tin giúp các ngươi. Có điều ta muốn hỏi một câu, đã xảy ra chuyện gì, các ngươi muốn cáo trạng phải không?

- Cũng không phải là cáo trạng, chỉ là muốn phản đối một việc. Chúng tôi nghe nói thuế ruộng ở quận Hằng Sơn là một phần hai mươi lăm, vì sao chúng ta ở nơi này lại là một phần hai mươi? còn có lợi tức (tiền lãi) mạ non thì tính thế nào? Còn có vấn đề về kho lương, trước kia quy định là khi nào có thiên tai thì trả lại, năm trước và năm kia chúng ta đều nộp, nhưng năm nay hạn hán, chỉ có vụ hè là thu hoạch được một chút, không nói trước kia, chẳng lẽ năm ngoái và năm kia chúng ta đều là mất trắng sao?

Trong số các quận ở Hà Bắc, quận Hằng Sơn và quận Thượng Cốc là vì bị ảnh hưởng tai hại nặng nề của Ngụy Đao Nhi, cho nên ban cho một cái thuế suất khoan dung, một phần hai mươi lăm tổng lượng lương thực thu hoạch. Quận Thanh Hà và quận Bột Hải cũng giống như vậy. Các quận khác đều là một phần hai mươi, đây cũng không phải vấn đề gì quá đặc biệt cả.

Mà tiền mạ non là ở thời kì giáp hạt, quan phủ tạm thời cấp cho nông dân sinh hoạt phí trước khi cây trồng vụ hè và vụ thu sau được thu hoạch, không thu lợi tức. Cho nên khi nghe đến lợi tức mạ non, Dương Nguyên Khánh không tránh khỏi ngẩn ngơ.

Dương Nguyên Khánh liền hỏi:

- Thật là kỳ quái. Tiền mạ non ở chỗ này còn thu cả lợi tức sao?

- Chính là kỳ quái như vậy! Các huyện khác đều không có, vì sao huyện chúng ta lại có. Tuy rằng lợi tức không cao, cứ hai mươi tiền thì mất một xu lợi tức, nhưng vẫn khiến cho người ta cảm thấy bất mãn.

Trong lòng Dương Nguyên Khánh cảm thấy nghi hoặc, hắn vẫn giấu diếm vẻ mặt như cũ, lại nói:

- Thuế ruộng một phần hai mươi là đúng. Huyện Hằng Sơn bị Ngụy Đao Nhi tàn phá nặng nề, cho nên tiền thuế có chút đặc thù. Về phần lợi tức mạ non đúng là lần đầu nghe thấy. Năm nay hạn hán, các ngươi phải trả bao nhiêu?

Mấy ông lão đứng ở ngoài cửa cũng đã bước vào trong, mồm năm miệng mười nói:

- Đều là năm đấu gạo. Đó là lương thực giao cho kho lương mùa hè năm nay, nhưng năm trước và năm kia chúng ta đều nộp một thạch lương thực. Chúng ta đi tìm huyện nha, huyện nha lại bảo chúng ta đi tìm Đậu Kiến Đức mà đòi. Nhưng chúng ta biết, Đậu Kiến Đức không hề lấy đi lương thực trong kho lương. Chúng ta đều biết, tại sao Đại Tùy lại không biết?

Lông mày của Dương Nguyên Khánh nhăn lại thành một đường thẳng. Hắn nhớ rõ tháng tư năm nay, Tử Vi Các có thảo luận vế việc khôi phục chế độ kho lương, trong đó có nói về vấn đề kéo dài lương thực trong kho lương của tiền triều.

Lúc ấy nói là, để cho các huyện kiểm kê tài sản và lương thực trong kho lương, nếu còn tồn tại lương thực mà sổ sách rõ ràng, hoặc là sẽ tiến hành tính toán lại, lúc ấy còn phái ra Ngự sử giám sát, đưa đến ba mươi huyện tiến hành kiểm kê lại.

Đề phòng trường hợp bởi vì sổ sách kho lương của các huyện không được đầy đủ, hoặc đúng là đã bị quân đội của Đậu Kiến Đức mang đi, tất cả đều có khả năng xảy ra. Nhưng không ngờ huyện này lại vi phạm quy định, dám thu lợi tức mạ non, điều này khiến cho người ta hoài nghi kho lương thực có vấn đề.

Nghĩ vậy, Dương Nguyên Khánh nói:

- Như vậy đi! Ngày mai ta ra mặt thay các ngươi, đến huyện nha hỏi xem rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Các ngươi cũng phái vài tên trưởng giả đi cùng ta, đem sự việc này làm cho rõ ràng.

Kiều trưởng thôn cùng vài lão nhân nhìn nhau, cùng đứng lên khom người thi lễ:

- Đa tạ quân gia trượng nghĩa ra mặt thay chúng ta…

Sáng sớm hôm sau, Dương Nguyên Khánh thống lĩnh năm trăm thân vệ tiếp tục đi về hướng bắc. Nha môn huyện thành cách thôn Kiều gia hơn mười dặm về phía bắc, cùng đi còn có năm tên trưởng giả của thôn Kiều gia, có cả Kiều trưởng thôn. Bọn họ đều nghĩ Dương Nguyên Khánh là Thiên tướng từ kinh thành tới, tuy rằng quân – chính không liên quan đến nhau, nhưng người từ kinh thành tới luôn khiến người ta sinh ra một loại ảo tưởng về quyền lực.

Dương Nguyên Khánh lại có một đêm gần như thức trắng. Hắn đang suy nghĩ xem lỗ hổng của chế độ này ở chỗ nào? Từ xưa đến nay, các loại chế định, chế độ của triều đình luôn luôn không hoàn thiện, luôn có một khe hở nào đó ở bên trong, những sơ hở này dễ dàng bị kẻ dưới lợi dụng.

Cái này cố nhiên là bởi vì chế định đưa ra rất nghiêm mật sẽ làm tăng gánh nặng cho triều đình. Quan trọng hơn là muốn lưu lại một chút đường sống cho quan viên phía dưới, đây cũng là truyền thống từ xưa tới nay, phàm việc gì cũng phải lưu lại một con đường sống, làm người cũng lưu lại một con đường sống, chức vị cũng lưu lại một con đường sống, cho nên chế độ ban ra cũng sẽ lưu lại một con đường sống.

Cứ như vậy, quan viên phía dưới có cơ hội kiếm tiền. Cứ lấy vấn đề kho lương làm ví dụ, nếu như sổ sách không đầy đủ, cũng có thể hợp nhất cũ mới. Cái gì gọi là sổ sách không đầy đủ? Sổ sách vốn rất đầy đủ, cũng vì có quy định này mà một nhóm quan viên địa phương sẽ hủy sổ sách, khiến nó trở nên không đầy đủ, khiến cho lương thực trong kho lương trở thành lương thực không được ghi chép.

Dương Nguyên Khánh chắc sẽ không cho phép xảy ra chuyện như thế này. Nhưng hắn không có khả năng suy xét chu toàn mọi mặt, cho nên hắn mới thực thi chế độ hợp nghị ở Tử Vi Các. Loại chế độ này, khi xuất hiện đại sự đều do mọi người cùng bàn bạc, sau đó biểu quyết thông qua. Nhưng loại này vẫn giữ lại tư tưởng lưu lại đường sống truyền thống, khiến cho đám Tướng quốc ngầm hiểu với nhau, rất nhiều chế độ cứ như vậy mà xuất hiện một hoặc nhiều lỗ hổng nhưng vẫn được thông qua.

Điển hình nhất là chế độ ruộng đất thời Vĩnh Nghiệp triều Đường, chính là không chịu khóa chặt việc mua bán đất đai, để lại lỗ hổng có thể mua bán, khiến cho đất đai thời đó bị thổ địa thôn tính quy mô lớn, cuối cùng bùng nổ loạn An Sử (1).

1. Loạn An Sử là một cuộc phản loạn quy mô lớn xảy ra từ năm 755 đến năm 763, trong thời vua Huyền Tông, Túc Tông và Đại Tông nhà Đường. Cầm đầu cuộc phản loạn này là An Lộc Sơn (vốn là một Tiết độ sứ của triều đình) và thuộc hạ là Sử Tư Minh.

Loạn An Sử – Wikipedia tiếng Việt

Còn có các loại quy chế pháp luật ở đời sau, lỗ hổng nhiều không kể hết, đúng thật là do người thảo chế độ không biết sao? Cũng không phải, kỳ thật chính là do loại tư tưởng dung túng quấy phá, làm việc cũng không muốn làm đến tuyệt đối, để lại cho mình một con đường sống. Núi không vòng thì sông vòng, nói không chừng đến một ngày nào đó những quy chế này sẽ đổ lên đầu chính mình hoặc con cháu mình, cho nên có danh nhân đã viết: làm người phải để lại ba phần làm vốn.

Thật ra, nghĩ sâu hơn, cho dù định ra một chế độ hoàn thiện cũng vô dụng, bởi vì chế độ là vật chết, người là vật sống. Chế độ cần người tới chấp hành, người chấp hành bất lực, giơ cao đánh khẽ, thậm chí còn không để ý tới cái gọi là chế độ, vậy thì phải làm thế nào?

Trong lúc Dương Nguyên Khánh trầm tư, Trình Giảo Kim lại bừng bừng khí thế. Hôm qua y đánh một hơi hết ba bình rượu, mặc dù chỉ là rượu trái cây những cũng vô cùng thoải mái, khiến y quên hết tất cả nặng nhọc đã trải qua.

Trình Giảo Kim đã biết việc Dương Nguyên Khánh muốn đi đối chứng, ý tưởng của y rất nhiều, rất giỏi đối phó với loại sự tình này, tiến lên nói với Dương Nguyên Khánh:

- Tổng quản, những tên này làm quan đều là một đám gian xảo như quỷ, khẳng định là đã có cách đối phó rồi, nếu cứ đường hoàng đến hỏi bọn chúng, khẳng định là không có hiệu quả gì. Chi bằng để ty chức đi điều tra, đào ra chân tướng sự việc.

Dương Nguyên Khánh không thể không thừa nhận những gì Trình Giảo Kim nói. Có những lúc Trình Giảo Kim rất hữu dụng. Có những chuyện không phải cứ đi đường thẳng là có thể giải quyết được, nhiều khi cũng phải đi đường ngang ngõ tắt. Mà lúc này đây, năng lực của Trình Giảo Kim mới được biểu hiện.

Dương Nguyên Khánh gật gật đầu:

- Ngươi mang theo vài huynh đệ thôi! Nhớ kỹ, không được để bại lộ thân phận.

- Tổng quản yên tâm, giải quyết những việc thế này luôn là ưu thế của lão Trình.

Trình Giảo Kim dẫn theo vài huynh đệ giục ngựa nhanh chóng đi trước một bước… Nha môn huyện nha là một tòa nhà hơi nhỏ nằm trong huyện thành. Trong huyện thành chỉ có gần hai ngàn hộ dân, đại đa số người dân đều ở tại hương thôn, huyện thành cũng không lớn, chỉ cần thời gian một nén nhang là có thể đi ngang qua huyện thành.

Huyện lệnh nha môn họ Từ, tên là Từ Thủ Tín, năm nay đã hơn bốn mươi tuổi, nhậm chức huyện lệnh ở nơi này từ năm Đại Nghiệp thứ chín cho đến nay, các mối quan hệ trong huyện đã đến mức thâm căn cố đế.

Từ Thủ Tín cũng không biết việc Sở Vương đi qua, càng không biết mình đã bị thôn dân ở phía nam huyện tố cáo. Trong khoảng thời gian này, y luôn luôn suy xét, làm cách nào để đưa số lương thực dư thừa trong kho lương đến Trung Nguyên bán đi.

Giữa trưa, Từ Thủ Tín đang nghĩ cách trong thư phòng, bỗng có tên nha dịch chạy tới bẩm báo:

- Bên ngoài huyện có một đội kỵ binh, nói là từ kinh thành tới, muốn gặp mặt ngài.

Từ Thủ Tín không khỏi cúi đầu mắng một tiếng, không cần phải nói, những kỵ binh này chắc chắn là muốn ăn uống miễn phí. Bất đắc dĩ, y đành phải đi ra huyện nha, lại liếc mắt nhìn Dương Nguyên Khánh đang ngồi trên lưng ngựa.

Từ Thủ Tín cũng không nhận ra Dương Nguyên Khánh, cũng không hiểu lắm về biên chế quân đội, không nhận ra mấy trăm kỵ binh trang bị hoàn mỹ này đều là thân vệ của Sở Vương, có điều, dù sao y cũng là một huyện lệnh, ít nhiều cũng có chút kiến thức, nhìn thấy Dương Nguyên Khánh đầu đội kim khôi, trong lòng không tránh khỏi bồn chồn. Kim khôi chỉ có chủ soái một quân mới được đội.

Khái niệm chủ soái một quân chính là một mình thống lĩnh một quân, ví dụ như Từ Thế Tích và Tần Quỳnh bây giờ, bọn họ cũng có thể đội kim khôi, chỉ có điều là hai người không dám mạo phạm, đều không mang kim khôi mà chỉ đội ngân khôi thôi.

Trong lòng Từ Thủ Tín có chút bất an, vị quan lớn mang kim khôi này là ai? Lúc này, y bỗng nhìn thấy bên hông Dương Nguyên Khánh đeo bảo kiếm, không ngờ là chuôi kiếm bằng ngọc đen. Y từng là Tùy thần, đương nhiên biết bảo kiếm có chuôi kiếm bằng ngọc đen này đại biểu cho cái gì?

Đây là Bàn Dĩnh Kiếm, trước đây là kiếm của Thiên tử, sau đó ban cho Dương Nguyên Khánh, việc này thiên hạ đều biết. Hiện giờ thanh kiếm này lại xuất hiện bên hông một quan quân, đầu đội kim trụ, hông đeo Bàn Dĩnh Kiếm. Hai điều này hợp lại một chỗ, lập tức thân phận của vị quan quân này đã rõ như ban ngày.

Hai chân Từ Thủ Tín chợt run rẩy, y đã đoán được người quan quân trước mặt này là ai. “Cộp” một tiếng, Từ Thủ Tín quỳ rạp xuống đất, giọng run rẩy nói:

- Huyện lệnh huyện nha Từ Thủ Tín tham kiến Sở Vương Điện hạ. Điện hạ thiên tuế, thiên tuế, thiên thiên tuế!

Những lời này của y khiến cho mấy lão nhân thôn Kiều gia sợ đến ngây người, trở nên ngây ngốc đứng nguyên ở nơi đó. Bỗng nhiên, năm lão nhân cùng nhau quỳ xuống, dập đầu như băm hành, đầu đập xuống đất phát ra âm thanh bang bang rung động:

- Tiểu dân có mắt như mù, chậm trễ Sở Vương Điện hạ, khẩn cầu Sở Vương Điện hạ tha tội!

Lời bọn họ nó rất đúng, rất thật. Tối hôm qua Dương Nguyên Khánh dẫn binh lính đến thôn nghỉ qua đêm, bọn họ chỉ nấu một nồi canh nóng ứng đối qua loa. Nếu biết sớm, bọn họ nên bỏ ra lương thực và heo dê, chiêu đãi binh lính thật tốt.

Dương Nguyên Khánh khoát tay chặn bọn họ lại, hướng về hai phía nói:

- Tất cả mọi người đứng lên đi!

Rồi hắn hướng Từ Huyện lệnh cười nói:

- Mấy vị xã nông này có việc không hiểu, cho nên ta đặc biệt dẫn bọn họ đến đây hỏi thăm một chút.

Trong tâm Từ Thủ Tín phát lạnh, dường như có một khối băng rơi vào lòng y…

Trong nghị sự đường của huyện nha. Sắc mặt Dương Nguyên Khánh không chút thay đổi, ngồi ở vị trí cao nhất, chậm rãi uống trà. Ở dưới, hai bên trái phải có một nhóm người đang ngồi, bên trái là năm trưởng giả của thôn Kiều gia, bên phải là Từ Huyện lệnh và Nhâm Huyện thừa.

Theo nghi lễ, Huyện lệnh và Huyện thừa là trưởng, ngồi ở bên trái vì dù sao bọn họ cũng là quan phụ mẫu. Nhưng ở trước mặt Dương Nguyên Khánh, bọn họ không dám bày ra cái thái độ của quan phụ mẫu, chỉ có thể bày tỏ thái độ khiêm tốn thấp kém nên đành ngồi bên phải.

Nhưng năm trưởng giả của thôn Kiều gia lại không biết quy cách về chỗ ngồi, bọn họ chỉ quan tâm đến lợi tức mạ non và lương thực trong kho lương, đây mới là vấn đề liên quan đến lợi ích của bản thân. Có Dương Nguyên Khánh làm chỗ dựa, giọng điệu của năm lão trưởng giả cũng trở nên thẳng thắn và bén nhọn.

- Xin hỏi Từ Huyện lệnh, các huyện khác mượn tiền mạ non đều không có lợi tức, nhưng hết lần này tới lần khác, nha môn huyện lệnh đều thu, tại sao lại như vậy? Chẳng lẽ là triều đình đối với nha môn huyện ta có đặc thù riêng?

Lời chất vấn này vô cùng lợi hại. Trên trán Từ Huyện lệnh đã đầy mồ hôi, y dùng ống tay áo lau mồ hôi trên trán. Đối với việc này, đương nhiên là bọn họ đã có sách lược đối phó. Chỉ có điều, hiện đang ở trước mặt Dương Nguyên Khánh, khiến cho y cũng cảm thấy chột dạ. Nói là y giải thích cho năm hương dân này không bằng nói là giải thích với Dương Nguyên Khánh.

- Điều này… Trong huyện cũng có nỗi khổ. Đúng là triều đình quy định tiền mạ non không có lợi tức, dựa vào ruộng công để chống đỡ. Nhưng phương diện này lại có một vấn đề, có huyện có thu nhập từ ruộng công, có huyện không có. Tuy rằng ở huyện chúng ta cũng có năm mươi khoảnh ruộng công (1 khoảnh = 100 mẫu TQ, tương đương 6,67ha), nhưng mấy năm nay liên tục xảy ra chiến loạn, không thu được tiền từ ruộng công, nào có tiền dư để cho mượn tiền mạ non. Chúng ta đành đến các cửa hàng hỏi vay, muốn vay được tiền từ các cửa hàng đương nhiên phải có lợi tức. Khoản lợi tức này quan phủ không đủ sức gách vác, chỉ có thể để cho người vay gánh chịu. Điều chúng ta có thể làm là tận lực hạ thấp lợi tức, ngoài ra cũng không có biện pháp nào.

Nói đến đây, Huyện lệnh Từ Thủ Tín nở một nụ cười khổ, khóe mắt vụng trộm liếc Dương Nguyên Khánh. Y cảm thấy vẻ mặt Dương Nguyên Khánh vẫn không chút thay đổi, dường như những điều này không có chút quan hệ nào với hắn, trong lòng thoáng nghĩ ra một giả thuyết: “Chẳng lẽ Sở Vương Điện hạ cũng chỉ là đi ngang qua?”

Nghĩ vậy, giọng điệu của y cũng trở nên ổn định một chút, lại nói:

- Đương nhiên, huyện nha cũng có chỗ suy xét không chu toàn, cũng không đem nguyên nhân việc thu lợi tức mạ non thông báo cho các vị bà con, khiến trong lòng mọi người nảy sinh nghi ngờ, ta xin hướng đến các vị bà con nói lời xin lỗi.

Tránh nặng tìm nhẹ là kỹ xảo trốn tránh trách nhiệm trong quan trường mà đám quan lại quen dùng. Quan phủ tự trách mình làm việc không đến nơi đến chốn một chút liền đem việc tiền lợi tức bỏ qua. Dương Nguyên Khánh cũng không nói gì, bởi vì hắn cũng biết, nếu quan phủ dám quang minh chính đại thu tiền lợi tức, tất nhiên là đã có sách lược đối phó rất chi tiết.

Nhưng quả trong việc quy định tiền mạ non của triều đình có lỗ hổng, yêu cầu quan phủ dùng thu nhập từ ruộng công để chi trả. Hiện tại nhiều nơi hoang vắng, có mấy huyện có thu nhập từ ruộng công. Hoàn toàn có thể dùng lương thực trong kho lương để thay thế tiền mạ non.

Năm trưởng giả nhìn nhau, bọn họ cũng không thể nói gì hơn, hơn nữa lợi tức của tiền mạ non cũng không nhiều, có thiệt chút cũng coi như thua lỗ. Nhưng cái bọn họ quan tâm nhất chính là lương thực trong kho lương. Đại bộ phận đều được hai thạch trở lên, sao có thể nói thay đổi triều đại liền không được nhận nữa, mà nhóm quan huyện lại không thay đổi.

- Tạm thời không đề cập đến lợi tức tiền mạ non. Chúng ta quan tâm nhất là lương thực trong kho lương. Xin hỏi Từ Huyện lệnh, lương thực tồn trong kho lương năm kia và năm ngoái của chúng ta ở nơi nào? Năm nay hạn hán vì sao không cho vay?

Huyện lệnh Từ Thủ Tín thở dài:

- Lương thực trong kho lương đều bị Đậu Kiến Đức điều đi từ đầu năm nay rồi. Lần trước ta cũng đã nói với mọi người, chúng ta cũng không có cách nào, chẳng lẽ muốn chúng ta đến gặp Đậu Kiến Đức đòi về sao?

Tiền mạ non thì tránh chỗ nặng tìm chỗ nhẹ, lương thực kho lương thì chết không đối chứng. Kỳ thật, cho dù có tìm được Đậu Kiến Đức, cũng chưa chắc y đã biết, đây là do kẻ dưới gây ra. Người đã chết, sổ sách đã mất. Việc này đúng thật là không có chỗ để đối chất rồi.

Dương Nguyên Khánh vẫn không tỏ thái độ. Làm kẻ bề trên phải có sự hiểu biết của kẻ bề trên. Hắn không phải Giám sát Ngự sử, cũng không phải Thái thú. Hắn không thể nhân dịp có mấy hương dân nghi vấn mà kéo quan huyện xuống đánh phạt, ép hỏi chân tướng, đây là việc mà người trị quốc không nên làm.

Việc hắn cần làm, chính là để cho nhóm Huyện lệnh có một cơ hội giải thích, hoặc nói cho đúng, chính là cho bọn chúng một cơ hội sửa chữa sai lầm. Quan trọng hơn, hắn cần phải hoàn thiện chế độ.

Nếu để cho Trình Giảo Kim làm Giám sát Ngự sử thì y là một người đủ tư cách, y tự có biện pháp của mình. Y chỉ cần nắm bắt một chút, không có khả năng Từ Huyện lệnh này tự mình đem lương thực đi, cũng không thể cho đứa con của mình đem đi, chỉ có thể để cho mấy tên tư lại (thư ký) tâm phúc của y làm việc này.

Như vậy chỉ cần nắm bắt được mấy tên tư lại tâm phúc này, vậy thì mọi vấn đề đều dễ dàng giải quyết.

Muốn nắm được mấy tên tư lại tâm phúc này cũng rất đơn giản. Trình Giảo Kim biết mỗi địa phương đều có lái buôn, muốn làm một việc mà chưa có cửa thì phải làm thế nào? Không sao, lái buôn có thể giúp ngươi gắn kết quan hệ, tìm kiếm biện pháp. Ở cái huyện thành nhỏ thế này, chỉ cần tìm một quán rượu hỏi thăm một chút, rất nhanh sẽ có lái buôn đến tận cửa tìm mình.

Trình Giảo Kim đưa cho lái buôn mười xâu tiền liền tìm được gã quan tư lại tâm phúc của Huyện lão gia. Tên này họ Trần, là tổng quản nha môn ngày trước.

Lái buôn dẫn Trình Giảo Kim đi vào trong một cái ngõ nhỏ. Nhận được mười xâu tiền thưởng, cái gì y cũng không che giấu, nói ra tất cả những gì mà Trình Giảo Kim muốn biết.

- Gã Trần Chủ Bạc này cũng không đơn giản, y vốn là thư đồng của Từ Huyện lệnh, theo Từ Huyện lệnh từ năm mười tuổi, là tâm phúc đáng tin cậy nhất của Từ Huyện lệnh. Nếu Trình gia muốn buôn bán ở bổn huyện, sau cùng cũng phải giao tiếp với quan phủ, vậy thì cứ tìm Trần Chủ Bạc này là được rồi.

Đương nhiên là Trình Giảo Kim không mặc khôi giáp, y mặc một bộ trường bào màu đỏ tím, đầu chít khăn lục bình, mặc áo đỏ thắt lưng màu xanh lá, còn dẫn theo ba bốn gã tùy tùng, vừa nhìn qua là biết đây hẳn là một kẻ vô cùng giàu có.

Trình Giảo Kim bước đi hình chữ bát, ba bước lại lắc một cái, trong túi nhiều tiền, nói chuyện cũng cao ngạo:

- Bây giờ vẫn là ban ngày, Trần Chủ Bạc này sao không đến huyện nha mà ở nhà làm cái gì?

- Không phải tiểu tử ngươi đang gạt ta đấy chứ? Tùy tiện tìm một kẻ ngu đến giả mạo lừa gạt ta?

Mã lái buôn nóng nảy, liên tục thề thốt:

- Ta hướng trời cao thề, ta tuyệt đối không lừa Trình gia. Nếu ta dám lừa Trình gia sẽ bị thiên lôi đánh xuống, chết không được tử tế.

Y lại nói khẽ với Trình Giảo Kim:

- Trình gia có điều không biết, trên danh nghĩa Trần Chủ Bạc này đảm nhiệm chức vụ Chủ bạc (chức quan chuyên quản lý công văn) của huyện nha, nhưng trên thực tế, y là người quản lý toàn bộ công việc trong huyện nha, là người thay Huyện lệnh đi làm ăn.

- Làm Huyện lệnh mà còn buôn bán sao?

Trình Giảo Kim cảm thấy kỳ quái liền hỏi:

- Y buôn bán ở đây sao?

- Ai! Hiện tại có người làm quan nào không buôn bán. Đương nhiên bản thân Huyện lệnh không làm, đều là người nhà hoặc tâm phúc lo liệu. Huyện lão gia của chúng ta có bốn, năm người thiếp. Nếu chỉ dựa vào bổng lộc, có thể nuôi được bao nhiêu người?

Trình Giảo Kim gật đầu, y đã hiểu được. Đi vào một cái ngõ nhỏ, bọn họ dừng lại trước một cánh cổng lớn. Cánh cửa này được làm bằng gỗ táo thượng hạng, sơn son thiếp vàng, có tường bao quanh, sân cũng được lát gạch, đầu tường còn có ngói lợp mái hiên, lộ rõ vẻ tinh tế, hoàn toàn trái ngược với bức tường bằng đất nện. Nhìn qua là biết gia đình này rất giàu có.

Kỳ thật, vào thời kỳ thịnh vượng nhất của triều Tùy, nơi ở của quan viên và dân chúng đều được quy định một cách nghiêm ngặt. Thân phận gì thì được ở nhà rộng bao nhiêu, kiểu dáng cửa chính thế nào, số lượng phòng trong nhà. Nhà cửa của bình dân không được dùng ngói dày và trang trí cá chim, càng không thể dùng loại cửa lầu mái cong, chỉ có thể làm một cái ô cửa, dùng một cây gỗ mun treo ngang cửa, gỗ làm cửa cũng chỉ có thể là loại gỗ trúc đơn giản.

Trong Doanh Thiên Lệnh có quy định rõ ràng: “Dưới Vương công, phòng ốc không được trang trí trọng củng (là một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa), biệt viện tư nhân không được xây dựng lầu các….

Cho nên Trần Chủ Bạc chỉ là một tên tư lại không có phẩm hàm, lại dám dùng vỏ đồng bao bọc cửa lớn, trên cửa còn có vòng đồng, còn có một cái cửa lầu mái cong. Loại cửa này chỉ có quan tam phẩm trở nên mới được phép sử dụng.

Nếu ở năm Đại Nghiệp thứ nhất, khẳng định bị hỏi tội. Có điều, trải qua nhiều năm chiến tranh loạn lạc, pháp luật buông lỏng, cũng không còn ai đi quản những chuyện như thế này. Chỉ cần có tiền, xây dựng một cái phủ đệ của Vương công cũng không sao.

Mã lái buôn tiến lên vỗ vỗ vòng đồng. Một lát sau, một phụ nữ trẻ tuổi ra mở cửa. Nàng ta nhận ra Mã lái buôn, lại nhìn thấy đoàn người Trình Giảo Kim ở phía sau, liền hỏi:

- Mã lãng tử, lại có chuyện phiền toái lão gia nhà ta sao?

- Phu nhân nói quá lời. Chỉ có chút chuyện nhỏ cần phải nhờ Trần Chủ Bạc hỗ trợ, đương nhiên…

Mã lái buôn làm vài động tác ám chỉ việc kiếm tiền với vị phu nhân kia.

Người phụ nữ này là thê tử của Trần Chủ bạc, đương nhiên là nàng hiểu được ý tứ của Mã lái buôn, liền mở cửa:

- Vậy thì mời vào!

Nàng quay đầu vào trong hô to:

- Đại lang, có khách tìm.

- Là ai tìm ta?

Bạn đang đọc Thiên Hạ Kiêu Hùng của Cao Nguyệt
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt thích 2
Lượt đọc 183

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.