Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

[Mục 5] Chương 5

Phiên bản Dịch · 10148 chữ

Chương 5

Khách quan mà nói thì nó đâu có gì đáng sợ. Khi lớn thì nó chẳng to cao đặc biệt , không khoẻ, xấu đấy, nhưng đâu xấu ghê gớm đến nỗi người ta phải sợ nó. Nó không hung hăng, không nham hiểm, không lén lút, không khiêu khích. Nó còn thích sống tách biệt nữa kia. Còn trí thông minh của nó cũng chẳng có gì ghê gớm. Mãi năm lên ba nó mới biết đứng, nói chữ đầu tiên lúc lên bốn, đó là chữ "cá", buột ra như thể một tiếng vọng trong một lúc kích thích bất chợt khi từ xa một người bán cá đi tới Rue de Charonne lớn tiếng rao hàng. Những tiếng kế tiếp nó thốt ra là "cây quỳ thiên trúc", "chuồng dê", "cái lá xoăn", và "Jacqueslorreux", cái chữ sau cùng là tên một người phụ việc vườn tược cho nữ tu viện Filles de la Croix ở gần đó, thỉnh thoảng vẫn làm cho Madame Gaillard những việc nặng và nổi tiếng vì trong đời chưa hề tắm lần nào. Nó ít khi dùng đến động từ, tính từ và từ chêm. Ngoài "có" và "không" - mà mãi sau này nó mới nói - nó chỉ dùng danh từ, đúng hơn là tên riêng của mỗi vật, cây cỏ, thú vật, người cụ thể và cũng chỉ khi nào mùi của những vật, cây cỏ, thú vật và người này đột nhiên chế ngự nó.

Một ngày tháng ba, ngồi phơi nắng trên một chồng gỗ sồi mới xẻ, gỗ bị nắng nứt kêu răng rắc, đó là lần đầu tiên nó thốt ra từ "gỗ". Nó đã trông thấy gỗ cả trăm lần trước đó, cái từ đó cũng đã nghe cả trăm lần. Nó cũng hiểu vì mùa đông nó thường bị sai ra ngoài lấy gỗ. Nhưng cái gọi là gỗ chưa bao giờ làm cho nó quan tâm để phải nhọc công nói ra tên ấy. Điều này chỉ xảy ra vào cái ngày tháng ba ấy khi nó ngồi trên đống gỗ nọ. Đống gỗ được xếp chồng lên nhau như thể cái ghế dài dưới một cái mái ở mặt nam kho dụng cụ của Madame Gaillard. Những thớt gỗ trên cùng mùi ngọt hắc, từ phía dưới bốc lên mùi rêu và từ vách gỗ thông của nhà kho bay ra trong nắng ấm mùi thơm của nhựa.

Grenouille ngồi im trên đống gỗ, duỗi thẳng chân, lưng tựa vách nhà kho và nhắm mắt lại. Nó không trông thấy, không nghe và không cảm thấy gì cả. Nó chỉ ngửi mùi thơm của gỗ bốc lên quanh nó và bị giữ lại dưới cái mái như trong một cái nón. Nó uống mùi thơm ấy, nó chết đuối trong đó, tẩm vào người đến tận lỗ chân lông cuối cùng, hoá thành gỗ, rồi như thể một hình nhân bằng gỗ, nó nằm chết trên đống gỗ chẳng khác một Pinochio, cho đến một lúc lâu sau, hình như là mãi nửa tiếng sau, nó oẹ ra cái từ "gỗ". Nó oẹ ra cái từ ấy như thể là nó được nhồi gỗ đến tận tai, như thể bụng nó, họng nó, mũi nó toàn là gỗ. Cái từ ấy làm cho nó tỉnh lại, cứu nó kịp trước khi nó bị sự có mặt áp đảo của gỗ, của mùi gỗ, làm cho chết nghẹt. Mãi mấy ngày sau nó vẫn còn choáng váng do đã nếm cái mùi quá mạnh ấy và khi quá nhớ thì không ngớt lẩm bẩm van nài "gỗ, gỗ".

Nó học nói như thế đấy. Những từ chỉ đối tương không mùi, nghĩa là những khái niệm trừu tượng, đặc biệt là những thứ về đạo đức và luân lý là quá khó đối với nó. Nó không nhớ nổi, lẫn lộn hết trơn, ngay cả khi đã lớn nó cũng không thích dùng, và thường là dùng sai, tỉ như công lý, lương tâm, thượng đế, hân hoan, trách nhiệm, khiêm tốn, biết ơn, vân vân...những khái niệm này dùng để chỉ cái gì thì đối với nó mãi mãi là bí ẩn.

Mặt khác ngôn ngữ thông dụng nhanh chóng trở thành không đủ để chỉ tất cả những vật mà nó đã gom góp bằng khứu giác. Chẳng mấy chốc nó không chỉ ngửi gỗ nói chung, mà loại gỗ như gỗ thích, gỗ sồi, gỗ thông, gỗ cây du, gỗ cây lê, già, non, mục, mủn, có rêu thậm chí từng khúc gỗ một, dằm, mảnh gỗ và ngửi rành rẽ những vật thể khác nhau mà người khác không phân biệt nổi bằng mắt. Với những vật khác cũng vậy. Cái thứ nước màu trắng mà sáng sáng madame Gaillard cho lũ trẻ uống luôn được gọi là sữa thì theo cảm giác của Grenouille thì mỗi sáng có mùi và vị khác nhau tuỳ theo độ ấm, của con bò nào, và con bò này đã ăn gì, còn được bao nhiêu chất béo, v..v..Còn khói, một tổng hợp của hàng trăm mùi khác nhau, biến đổi thiên hình vạn trạng từng phút, thậm chí từng giây thành một thể thống nhất mới như khói của ngọn lửa, lại chỉ có cái tên "khói" này thôi...Rồi đất, phong cảnh, không khí mà trong từng bước đi, từng hơi thở đều được rót đầy mùi khác nhau và như thế được mang một đặc tính khác rồi sao vẫn chỉ được gọi bằng ba cái từ thô thiển ấy thôi].

Tất cả những khập khiễng lố bịch ấy giữa sự phong phú của cái thế giới nhận biết được qua mùi và sự nghèo nàn của ngôn ngữ khiến thằng nhỏ Grenouille hoàn toàn nghi ngờ về ý nghĩa của ngôn ngữ, nên nó có thói quen chỉ dùng đến ngôn ngữ khi sự giao tiếp với người khác nhất thiết đòi hỏi.

Năm lên sáu nó đã hoàn toàn nắm rõ môi trường chung quanh qua khứu giác. Trong nhà Madame Gaillard không vật gì, phía bắc Rue de Charonne không chỗ nào, không người nào, không hòn đá, bụi cây, ngọn cây hay hàng rào đóng cọc nào, không xó xỉnh nào dù nhỏ đến đâu mà nó không rõ mùi, không nhận ra được và không giữ chặt cái mùi riêng của từng thứ trong trí nhớ. Nó đã tích lũy cả vạn, trăm nghìn mùi riêng biệt, sẵn sàng khi cần đến, thật rõ ràng, đủ loại, để không những có thể nhớ lại khi ngửi chúng mà còn thật sự ngửi thấy chúng mỗi khi nhớ lại, hơn thế nữa, chỉ cần qua tưởng tượng thôi nó đã biết phối hợp chúng để tạo ra những mùi không hề có trong thế giới thực tế. Như thể nó làm chủ một vốn từ khổng lồ tự học về mùi khiến nó có đủ khả năng tạo ra cơ man mùi đủ loại ở một lứa tuổi mà những đứa trẻ khác còn lắp bắp đặt những câu đầu tiên đầy lỗi để mô tả thế giới với những từ được người ta ra sức nhồi nhét. Năng khiếu của nó có thể so sánh sát nhất với năng khiếu một thần đồng âm nhạc, nghe giai điệu và hoà âm mà tìm ra từng âm, như từng mẫu tự, và rồi tự sáng tác giai điệu và hoà âm mới hoàn chỉnh. Tất nhiên khác ở chỗ mẫu tự của mùi thì nhiều và tinh tế hơn là của âm. Thêm một điểm khác nữa là những hoạt động sáng tạo của thần đồng Grenouille chỉ diễn ra bên trong nó, ngoài nó ra không ai cảm nhận được.

Càng ngày nó càng sống khép kín hơn. Nó thích nhất đi lang thang một mình phía bắc Faubourg Saint-Aintoine, qua những vườn cau, những đồng nho, bãi cỏ. Có khi tối đến nó không về, biệt tăm mấy ngày liền. Nó chịu bị đòn bằng gậy mà chẳng hề tỏ ra đau đớn. Cấm không cho ra ngoài, bắt nhịn đói, phạt làm việc nặng cũng không thay đổi được cung cách của nó. Một năm rưỡi đi học thất thường ở trường đạo Notre Dame de Bon Secours cũng không có tác dụng trông thấy nào. Nó hoc đánh vần chút ít, học viết tên nó, thế thôi. Thầy giáo cho nó là đần độn.

Madame Gaillard, ngược lại, thấy là nó có một số khả năng và đặc tính rất khác thường nếu không nói là siêu tự nhiên, chẳng nó hoàn toàn không sợ đêm và bóng tối như trẻ con bình thường. Bất cứ lúc nào người ta cũng có thể sai nó xuống hầm lấy cái gì đó mà những đứa kia ngay cả có đèn cũng không dám làm, hay ra nhà kho lấy gỗ trong đêm tối như mực. Chẳng lần nào nó mang theo đèn mà vẫn tìm ra và tức khắc đem về cái được đòi hỏi mà không một động tác sai, không vấp ngã hay xô đổ một thứ gì. Đáng ngạc nhiên hơn nữa là hình như nó có thể nhìn xuyên qua giấy, vải, gỗ và qua cả tường gạch hay cửa khóa nữa. Madame Gaillard tin rằng đã phát hiện ra như thế. Nó biết có bao nhiêu đứa trẻ và những đứa nào trong phòng ngủ dù không bước chân vào đấy. Nó biết trong bông súp lơ có một con sâu trước khi tách bông ra. Có một lần bà không tìm thấy tiền bởi cất quá kỹ (bà đổi chỗ cất luôn), nó không hề tìm lấy một giây mà chỉ ngay vào một chỗ sau xà ngang lò sưởi, y như rằng! Thậm chí nó có thể nhìn thấy cả tương lai, chẳng hạn nó báo có khách khi khách còn chưa đến hay báo trước không sai một trận bão dù trên bầu trời không một vẩn mây. Nó không nhìn những cái ấy bằng mắt mà đánh hơi bằngcái mũi ngày một thính và ngửi ngày một chính xác hơn, con sâu trong bông súp lơ, tiền sau cái xà ngang, người sau tường và còn ở xa tới mấy quãng đường, thế thì có nằm mơ Madame Gaillard cũng không thể đoán được, kể cả nếu cái đánh bằng que cời lò sưởi ọ không gây tổn hại cho khứu giác của bà. Đần với chả độn, bà tin chắc rằng thằng nhỏ phải có một bộ mặt thứ hai. Vì bà biết rằng kẻ hai mặt đem theo điều gở và cái chết nên nó làm bà ớn. Ớn hơn nữa, đến không thể chịu nổi là sự lo lắng phải ở chung nhà với một kẻ có biệt tài nhìn qua cả tường lẫn xà ngang thấy được tiền đã giấu kỹ. Một khi đã phát hiện cái khả năng đáng sợ của Grenouille bà liền tìm cách tống khứ nó. Khi ấy nó được tám tuổi.May sao cũng khoảng thời gian ấy tu viện Saint-Merri ngưng trả tiền hàng năm cho nó mà không nêu lý do. Bà không đòi. Giữ đúng phong cách, bà đợi thêm một tuần lễ nữa và khi tiền vẫn không tới, bà mới dắt nó vào phố.

Bà quen một người thợ thuộc da tên là Grimal ở gần sông, trên Rue de la Mortellerie, cần người phụ việc còn trẻ, không phải người học nghề thật sự hay thợ phụ mà là cu li rẻ tiền. Trong nghề này có những công việc nguy hiểm như cạo thịt từ da súc vật thối rữa, trộn các dung dịch độc hại để thuộc và nhuộm da, đun nước vỏ dà...mà một người thợ cả có ý thức trách nhiệm cố tránh không phung phí những thợ phụ có tay nghề, chỉ dùng bọn hạ lưu vô nghề nghiệp, bọn du thủ du thực và ngay cả trẻ vô thừa nhận để không ai truy cứu trong những trường hợp khả nghi. Tất nhiên là Madame Gaillard biết rằng Grenouille không có khả năng sống sót trong cái xưởng thuộc da của Grimal, theo xét đoán thông thường. Nhưng bà không phải thứ phụ nữ bận tâm về chuyện ấy. Bà đã làm xong bổn phận. việc coi sóc đã chấm dứt. Cái gì sẽ đến với đứa nhỏ không dính dáng tới bà.Nó sống được thì tốt, nó chết cũng không sao. Cái chính là phải đúng luật. Thế là bà đòi Monsieur Grimal xác nhận bằng giấy mực việc bà trao thằng nhỏ, còn bà ký nhận mười lăm quan tiền hoa hồng rồi trở về nhà ở Rue de Charonne. Bà chẳng cảm thấy lương tâm cắn rứt tí nào. Ngược lại, bà tin rằng không những chỉ làm đúng luật mà còn chính đáng nữa vì giữ lại một đứa nhỏ không ai trả tiền nhất thiết sẽ lạm vào tiền dành cho những đứa khác, thậm chí của chính bà, rồi biết đâu phương hại đến tương lai của trẻ khác và cả của bà; được chết một mình, kín đáo, không chung đụng, đó là giấc mơ duy nhất của cả đời bà.

Vì chúng ta chia tay với Madame Gaillard ở đoạn này của câu chuyện và sau đó không gặp bà nữa, chúng ta hãy dành it dòng viết về đoạn cuối của cuộc đời bà. Thật chẳng may cho bà, mặc dù đã chết từ bên trong từ thời con gái, Madame lại sống lâu, rất lâu. Năm 1782, khi đã ngót bảy mươi tuổi, bà không hành nghề nữa, mua hưu bổng như đã tính rồi ngồi ở nhà chờ chết. Nhưng cái chết không đến, mà thay vào đó là một thứ khác mà không ai trên thế giới lại có thể lường được và cũng chưa từng xảy ra trong nước, đó là Cách mạng, có nghĩa là thay đổi nhanh chóng toàn bộ những quan hệ xã hội, đạo đức và những giá trị siêu việt. Lúc đầu thì cuộc Cách mạng này không ảnh hưởng gì đến số phận của riêng Madame Gaillard gì cả. Nhưng khi bà ngót tám mươi, đột nhiên người quản lý hưu bổng của bà phải di cư sang nước ngoài, tài sản của ông ta bị tịch biên và bị bán đấu giá ột người sản xuất quần. Trong một thời gian dài, xem ra sự thay đổi này cũng không gây ra một ảnh hưởng gì tai hại cho Madame Gaillard vì người sản xuất quần vẫn tiếp tục trả đúng hạn hưu bổng. Nhưng đến một ngày kia bà không còn được nhận tiền bằng kim loại nữa mà dưới dạng in trên giấy, đó là khởi đầu của sự suy sụp.

Sau hai năm thì hưu bổng không đủ để trả tiền củi. Madame buộc phải bán nhà với giá rẻ mạt vì bỗng nhiên không phải chỉ có mình bà mà hàng nghìn người khác cũng phải bán nhà. Bà lại chỉ nhận được tiền đối lưu những mảnh giấy vớ vẩn nọ chỉ để hai năm sau hầu như chẳng còn chút giá trị nào, và năm 1797, bà mất sạch cái tài sản ký cóp được trong ngót một trăm năm làm lụng cực nhọc, phải ở trọ trong một căn phòng nhỏ xíu có sẵn đồ đạc ở Rue des Coquilles, khi đó bà đã gần chín mươi. Mãi lúc này, muộn mất mười, hai mươi năm, cái chết mới đến do ung thư họng lâu năm, trước hết cướp đi của bà sự ngon miệng rồi đến tiếng nói, do đó bà không thốt lên được một lời nào phản đối khi bị chở đến Hotel Dieu. Ở đây, bà bị đưa vào chính cái căn phòng mà chồng bà đã nhắm mắt, cùng với hàng trăm người bệnh sắp chết khác, bị nhét vào trong một cái giường với năm bà già lạ hoắc khác, nằm như cá hộp suốt ba tuần để rồi chết trước mắt bao người. Bà đã được bỏ vào bao khâu lại, bị quẳng lên xe kéo lúc bốn giờ sáng cùng với năm mươi xác nữa rồi được chở trong tiếng chuông rung yếu ớt đến nghĩa trang mới hình thành ở Clamart, cách cổng thành một dặm, ở đây bà được đặt vào một ngôi mộ tập thể phủ một lớp vôi sống dầy, đó là nơi an nghỉ cuối cùng của bà.

Đó là năm 1799. Rất may là khi đi về nhà vào cái ngày nọ của năm 1747, rời bỏ thằng bé Grenouille và câu chuyện của chúng ta, Madam không mảy may linh cảm về số phận sẽ đến với bà. Nếu có biết đâu bà sẽ chẳng mất niềm tin vào sự công bằng và cùng với nó là cái ý nghĩa duy nhất mà bà hiểu về cuộc đời.

[Mục 6] Chương 6

Chương 6

Thoạt nhìn Monsieur Grimal - không phải lần đầu tiên đánh hơi cái lớp mùi bao quanh Grimal - nó biết ngay ông này sẵn sàng đánh nó chết liền dù chỉ phạm một điều quấy nhỏ. Mạng sống của nó chỉ giá trị bằng cái công việc nó hoàn thành, do sự hữu dụng mà Grimal đánh giá. Vì vậy mà Grenouille theo răm rắp, không thử phản kháng dù chỉ một lần. Ngày qua ngày, nó nút chặt mọi năng lực tiềm tàng của sự thách thức và ương ngạnh vào trong người, chỉ dùng rất ít theo kiểu con bọ chét để sống qua cái giai đoạn giá băng sắp đến: dai, không đòi hỏi gì, kín đáo và giữ thật kỹ cái ngọn lửa chiếu tia sáng hy vọng chỉ dám để le lói. Lúc này nó là một mẫu mực về sự dễ bảo, thanh đạm và cần cù, tuyệt đối vâng lời, cho gì ăn nấy. Tối tối nó ngoan ngoãn chịu để bị nhốt trong cái kho cạnh xưởng, nơi cất những dụng cụ và treo da thô xát muối. Ở đây nó phải ngủ trên nền đất nện. Ngày ngày nó làm việc đến tối mịt, mùa đông tám tiếng, mùa hè mười bốn, mười lăm, mười sáu tiếng, nạo thịt những tấm da hôi kinh tởm, nhúng nước, cạo lông, rắc vôi, nhúng dung dịch kiềm, vò, đập, xát nước vỏ dà, bửa gỗ, lột vỏ gỗ phong và gỗ thuỷ tùng, leo xuống hố đun vỏ dà đầy hơi cay xé, theo lệnh bọn thợ phụ xếp da lên trên vỏ cây thành lớp, rải mụn cây đã đập nát lên trên, rồi phủ nhánh cây thủy tùng và đất lên cái giàn hoả thiêu kinh tởm này.

Mấy năm sau nó sẽ phải đào và lôi những xác da ướp, bấy giờ thành da thuộc ấy lên.

Nếu không chôn da xuống và đào da lên thì phải đi lấy nước. Xách nước từ sông, mỗi lần hai thùng, mỗi ngày cả trăm thùng, hàng tháng dài như thế là vì cái nghề này cần không biết bao nhiêu là nước để rửa, để làm mềm, để nấu dung dịch, để nhuộm. Hàng tháng trường người nó không chỗ nào khô vì phải xách nước, đêm đêm nước nhỏ ròng ròng từ quần áo nó, da nó lạnh ngắt, mềm đi và trương lên như thể miếng da dùng lau nước.

Sau một năm sống giống súc vật hơn là người, nó bị bệnh than, một chứng bệnh đáng sợ trong nghề thuộc da và thường chỉ có chết. Grimal cầm bằng như mất nó, tìm người thay, tuy không phải không tiếc vì ông ta chưa từng có một tay thợ cho gì nhận nấy và làm giỏi như Grenouille. Nhưng trái với mọi chờ đợi, Grenouille khỏi bệnh. Nó chỉ phải mang thẹo của những chùm nhọt to đen ở sau tai, ở cổ và trên má khiến nó bị biến dạng và trở nên xấu xí hơn dù vốn dĩ nó đã xấu rồi. Ngoài ra nó còn miễn dịch với bệnh than để từ nay có thể nạo các tấm da bẩn thỉu nhất với hai bàn tay trầy trụa và chảy máu mà không sợ bị nhiễm trùng lại, quả là lợi vô giá. Do đó nó khác hẳn không chỉ với đám học nghề và thợ phụ mà cả với đám có khả năng thay thế nó nữa. Và bởi vì bây giờ nó không dễ thay như trước kia nên giá trị của việc nó làm, nghĩa là giá trị mạng sống của nó, cũng tăng theo. Bỗng dưng nó không còn phải ngủ chỉ trên nền đất nữa mà đã được phép dựng trong kho một cái bục gỗ, được rơm để trải lên trên và được một cái chăn riêng. Khi ngủ nó không còn bị nhốt nữa, bữa ăn cũng đầy đủ hơn. Grimal không còn nuôi nó như bất kỳ con vật nào mà là một gia súc có ích.

Khi nó mười hai tuổi, Grimal cho nó nghỉ nửa ngày chủ nhật và vào tuổi mười ba nó còn được phép đi chơi một tiếng, làm những gì nó thích vào buổi tối sau khi xong việc. Nó đã thắng bởi vì nó sống và bây giờ nó có được một chút tự do đủ để nó tiếp tục sống. Giai đoạn ngủ đông đã qua. Con bọ chét Grenouille cựa quậy. Nó đánh hơi không khí ban mai. Nó khao khát săn mồi. Cái vùng chứa mùi lớn nhất thế giới mở ra trước nó: thành phố Paris.

[Mục 7] Chương 7

Chương 7

Như thể vườn địa đàng vậy. Chỉ hai riêng vùng phụ cận Saint-Jacques-de-la- Boucherie và Saint-Eustache cũng đà là vườn địa đàng rồi. Trong những ngõ hai bên Rue Saint-Denis và Rue Saint-Martin, người ở chen chúc, nhà sát nhà, năm, sáu tầng khiến không thấy bầu trời và lớp không khí sát nền đất như bị ứ lại trong những đường ống ẩm thấp và đặc sệt mùi. Cái mùi của người trộn lẫn với súc vật, hơi của thức ăn và bệnh tật, của nước và đá cuội, của tro và da thuộc, của xà bông và bánh mì mới nướng, của trứng luộc trong giấm, của mì sợi và đồng thau đánh bóng, của lá xô thơm, của bia và nước mắt, của mỡ và rơm rạ khô lẫn ướt. Hàng nghìn và hàng nghìn thứ mùi hoà thành một thứ cháo đặc vô hình tràn ngập các ngõ hẻm, hoạ hoằn mới bay đi nếu ở trên tuốt các nóc nhà còn ở dưới đất thì không bao giờ. Người dân ở đó chẳng còn ngửi thấy trong cái thứ cháo này cái gì đặc biệt bởi vì nó từ họ mà ra và không ngớt thấm vào họ, nó chính là cái không khí họ thở và nhờ đó họ sống, nó giống như bộ quần áo ấm đã mặc lâu khiến cho người ta không còn ngửi thấy gì và không còn cảm thấy trên da thịt. Còn Grenouille ngửi thấy tất cả như mới lần đầu. Nó không chỉ ngửi cái toàn thể của hỗn hợp mùi kia mà chẻ nhỏ ra, phân tích thành những phần, những mảnh nhỏ khác biệt nhất. Cái mũi nhậy của nó gỡ cái mớ bòng bong gồm mùi thơm và mùi hôi nọ thành từng sợi riêng lẻ của những mùi cơ bản không thể nào tách thêm được nữa. Nó sung sướng khôn tả khi tách những sợi ấy ra, se chúng lại.

Nó thường đứng lại, tựa vào tường, hay nép mình trong một góc tối, mắt nhắm lại, miệng hé ra, cánh mũi phập phồng, bất động như một con cá rình mồi trong dòng nước lớn, đen sậm, chầm chậm trôi. Để rồi khi một làn gió mỏng manh đưa tới nó đầu một sợi hương thơm mềm mại, thì nó chụp ngay lấy, không nhả ra nữa và nó không ngửi thấy gì khác hơn cái mùi này, níu chặt, hút vào trong lòng và giữ lại mãi mãi. Cái mùi ấy có thể là nó biết rồi hay là một biến thể, nhưng cũng có khi hoàn toàn mới, chỉ giống tí xíu hay không giống gì hết với những mùi nó đã ngửi từ trước đến giờ, chưa nói tới đã thấy, chẳng hạn mùi lụa được ủi, mùi trà ướp bách lý hương, mùi tấm kim tuyến thêu chỉ bạc, mùi nút của một chai vang hiếm, mùi một cái lược đồi mồi. Nó chạy theo những mùi chưa biết này, nó săn đuổi chúng, và thu góp vào trong người với sự say mê và kiên nhẫn của một người câu cá.

Khi đã ngửi no nê cái cháo đặc ở các ngõ hẻm, nó đi tới những nơi thoáng khí, mùi ở đấy mỏng mảnh hơn, lẫn vào trong giỏ, toả ra, gần như là nước hoa. Ở chợ Les Halles chẳng hạn, tuy đã tối rồi nhưng ngày chưa thật hết mà vẫn tiếp tục tồn tại trong mùi, vô hình nhưng rất rõ, như thể ở đó những nhà buôn còn hối hả trong đám đông, như thể ở đó vẫn còn những sọt đầy rau và trứng, những thùng đầy rượu và giấm, những bao bố đầy đồ gia vị, khoai tây và bột, những két gỗ với đinh và ốc, những sạp thịt, những bàn đầy vải và xoong chảo, đế giầy và trăm thứ linh tinh khác bày bán ở đó vào ban ngày...toàn bộ sự tấp nập vẫn còn đó cho đến từng chi tiết nhỏ nhất trong cái không khí mà nó để lại. Grenouille nhìn toàn bộ cái chợ qua khứu giác, nếu như có thể nói như thế được. Và nó ngửi còn rõ hơn không ít người nhìn vì nó cảm nhận cái chợ sau buổi chợ, do đó ở một cấp cao hơn, đó là bản chất, là hồn của cái gì đó đã qua, tức là không bị làm xáo trộn bởi những đặc điểm thông thường của hiện tại như tiếng huyên náo, ánh sáng chói chang, sự va chạm gớm ghiếc của con người bằng xương bằng thịt...ở cái chợ này.

Hoặc nó đi tới chỗ mẹ nó bị chặt đầu; Place de Grève trông không khác một cái lưỡi khổng lồ thè ra liếm dòng sông. Ở đây tàu được kéo lên bờ hay buộc vào cọc, chúng có mùi than, mùi ngũ cốc, mùi cỏ khô và mùi dây thừng ướt.

Từ phía tây thổi lại qua cái hành lang duy nhất tạo bởi con sông cắt ngang thành phố này một luồng gió mênh mông mang đến mùi của đồng quê, của những đồng cỏ ở vùng Neuilly, của những cánh rừng nằm giữa Saint-Germain và Versailles, của những thành phố rất xa xôi như Rouen hay Caen và đôi khi cả của biển. Biển có mùi như một cánh buồm căng phồng hứng nước, muối và mặt trời lạnh. Mùi của biển thì mộc mạc nhưng đồng thời lại lớn lao và độc ác khiến cho Grenouille do dự, không tách nó ra thành mùi cá, mùi muối, mùi nước, mùi rong, mùi tươi mát, v.v....Nó thích để chung cái mùi của biển, giữ như một toàn thể trong trí nhớ và thưởng thức nó trọn vẹn. Nó thích đến nỗi ao ước một lần có được thật nhiều mùi biển tinh khiết, không pha trộn để có thể uống đến say mèm. Sau này, khi nghe kể biển mênh mông biết bao và người ta có thể đi tàu nhiều ngày trên ấy mà không thấy đất liền thì nó không thích gì hơn là hình dung được ngồi trong cái chòi cao tít trên cột buồm tuốt phía trước một cái tàu như thế, bay đi trong cái mùi vô tận của biển, đúng ra không phải là mùi mà là hơi thở, hơi thở ra, tột cùng của mọi mùi và vui sướng được tan biến trong hơi thở đó. Nhưng điều này không bao giờ đến vì Grenouille đang đứng ở bờ sông nơi Place de Grève và nhiều lần hít thở một mảnh nhỏ của gió biển bay qua mũi nó, không bao giờ thấy biển, cái biển thật sự, cái đại dương mênh mông ở phía tây và không bao giờ được tan vào cái mùi ấy.

Chẳng mấy chốc nó ngửi cái khu nằm giữa Saint Eustache và Hotel de Ville rõ đến nỗi ngay trong đêm tối đen nó cũng không lạc. Rồi nó mở rộng vùng đi săn, trước hết về phía tây Faubourg Saint-Honoré, rồi ngược Rue Saint-Antoine tới Bastille và cuối cùng qua bên kia sông, tới khu Sorbonne và Faubourg Saint- Germain, khu nhà giàu. Mùi da trong xe ngựa và mùi phấn trong tóc giả của đám thiếu niên quý tộc bay qua song sắt cổng thành, và từ trong vườn thoảng qua những bức tường thành ùi thơm kim tước chi, của hoa hồng và của cây thủy lạp vừa mới xén. Nơi đây, lần đầu tiên Grenouille ngửi mùi nước hoa theo đúng nghĩa của từ này, nước hoa giản dị mùi oải hương hay hoa hồng mà người ta vẫn trộn vào hồ phun nước ở trong vườn vào những dịp lễ, hay những mùi phức tạp, đắt tiền hơn như xạ hương pha với tinh dầu hoa cam, hoa huệ, hoa trường thọ, hoa nhài hay hoa quế, chiều chiều vẫn bềnh bồng sau những cỗ xe như một giải lụa nặng trĩu. Nó ghi nhận những mùi thơm này như mọi mùi bình thường khác, tò mò nhưng không hâm mộ đặc biệt. Dĩ nhiên nó ghi nhận rằng nước hoa có tác dụng làm say mê và lôi cuốn, nó cũng nhận ra cái hay của từng tinh chất một nhưng là một tống thể thì nó thấy thô thiển và chán ngắt, trộn ẩu hơn là sáng tạo và nó biết rằng nó có thể làm ra những mùi thơm khác hẳn nếu có được những nguyên vật liệu đó.

Một số lớn những nguyên vật liệu này nó đã biết ở các quầy hoa và gia vị ở chợ, những thứ khác đều mới và nó lọc ra từ cái hỗn hợp mùi để giữ lại trong trí nhớ mà không biết tên: long diên hương, xạ hương, hoắc hương, gỗ đàn hương, hương cam chanh, hương bài, độc hoạt điểu, an túc hương, hoa hublông, hương hải ly....

Nó không kén chọn. Nó không phân biệt những thứ mùi mà người ta cho rằng hay hoặc dở. Nó chỉ thèm khát. Mục đích chuyến săn tìm của nó chỉ để có được mọi thứ trên thế gian này, với một điều kiện duy nhất: mùi đó phải mới. Mùi mồ hôi ngựa cũng quý như hương xanh mềm mại phảng phất từ nụ hoa hồng chớm nở, mùi cay xè của con rệp không dở hơn mùi thịt bê quấn mỡ rán toả ra từ bếp nhà giàu.Nó uống tất, nó ngốn tất vào trong người. Và trong cái nhà bếp tưởng tượng để tổng hợp mùi vị của nó, nó thường xuyên tạo ra những hỗn hợp mùi mới, cũng chưa có một nguyên tắc thẩm mỹ nào. Toàn những thứ kỳ quái nó tạo ra rồi phá đi như một đứa trẻ chơi xây nhà, sáng tạo và phá hoại, không theo một nguyên tắc nào cả.

[Mục 8] Chương 8

Chương 8

Vào ngày 1 tháng Chín 1783, thành phố Paris đốt pháo bông ở Pont Royal kỷ niệm ngày đăng quang của Đức Vua. Tuy không ngoạn mục bằng lần mừng hôn lễ của Ngài Ngự hay cái lần đốt pháo bông đẹp như truyện cổ tích mừng sinh hạ thái tử nhưng dẫu sao cũng gây ấn tượng mạnh. Người ta gắn lên cột buồm tàu bè những bánh xe vẽ hình mặt trời màu vàng. Từ trên cầu, những cái gọi là con bò lửa phun lửa như sao sa xuống dòng sông. Trong khi khắp nơi pháo đại nổ inh tai và pháo chuột đì đẹt trên đường đá thì pháo bông vọt lên trời, vạch những bông huệ trắng trên nền trời đen thẫm. Cả mấy ngàn người, vừa trên cầu vừa trên hai bờ sông, thích thú theo dõi cảnh ngoạn mục với những tiếng "Ồ" "Chà" "hoan hô" thậm chí cả "vạn tuế" nữa, dù Đức Vua ở ngôi đã ba mươi tám năm và đã từ lâu không còn được ưa thích như xưa. Pháo bông làm nổi cả những điều như thế đấy.

Grenouille đứng lặng im bên bờ phải, trong bóng tối của Pavillon de Flore, ngang với Pont Royal. Nó chẳng thèm vỗ tay, cũng chẳng thèm nhìn pháo bông vọt lên trời. Nó đến đây vì nghĩ rằng có thể đánh hơi được cái gì mới nhưng rồi thấy ngay là chuyện bắn pháo bông không đem lại mùi gì mới cả. Những thứ phung phí loé ra, phun lên, nổ và rít kia để lại một hỗn hợp mùi hết sức đơn điệu của lưu huỳnh, dầu và hoả tiêu.

Nó đã định bỏ cái buổi trình diễn tẻ nhạt này để đi dọc theo Gallerie de Louvre về nhà, chợt gió mang đến nó một cái gì đó, nhỏ xíu, rất khó nhận ra, một mẩu, một phân tử mùi thơm, không phải, ít hơn nữa, một dự cảm về mùi thơm chứ chưa phải là một mùi thơm thật sự, nhưng đồng thời lại là một dự cảm chắc chắn về cái mà nó chưa từng ngửi bao giờ. Nó tựa vào tường, nhắm mắt lại, hinh hỉnh mũi. Cái mùi mỏng mảnh và thanh khác thường khiến nó không giữ chặt nổi, cái mùi ấy không ngừng vuột khỏi mọi cảm nhận của nó, bị khói pháo đại phủ mất, bị ngăn chặn bởi mùi của cái khối người, bị băm ra và bị nghiền nát bởi cả nghìn thứ mùi khác của thành phố. Nhưng rồi đột nhiên lại hiện ra, một mẩu nhỏ thôi, một giây thôi như một báo hiệu tuyệt vời...rồi lại biến ngay. Grenouille quằn quại. Lần đầu tiên không phải chỉ cái tính tham lam của nó bị tổn thương mà thật sự tim nó đau đớn. Nó linh cảm kỳ lạ rằng mùi thơm này là chìa khoá để định đoạt mọi mùi thơm khác, sẽ không hiểu gì về mùi nếu không hiểu chính cái mùi này và nó, Grenouille, sẽ phí cuộc đời nếu không được cái mùi ấy. Nó phải có được mùi này, không phải chỉ để mà có mà còn vì sự thanh thản của trái tim.

Nó nôn nao phát sốt lên được. Nó còn chưa tìm ra được cái mùi thơm ấy đến từ hướng nào. Có khi mất đến mấy phút mới lại có một mẩu bay đến và mỗi lần như thế thì nó kinh hoàng, sợ rằng sẽ mất luôn. Cuối cùng thì nó tự trấn an trong niềm tin tuyệt vọng rằng mùi thơm đến từ bên kia sông, đâu đó từ hướng đông nam.

Nó rời khỏi tường của Pavillon de Flore, chui vào đám đông, chen lấy đường qua cầu. Cứ sau vài bước nó lại nhón chân để đánh hơi trên đầu đám đông, lúc đầu nó chẳng ngửi thấy gì cả vì quá nôn nao, rồi thấy chút ít, lần mò ra cái mùi thơm, mạnh hơn trước, vậy là đúng hướng rồi, nó lại ngụp vào đám đông, tiếp tục lấn qua đám hiếu kỳ và những người châm pháo cứ liên miên dí đuốc vào ngòi pháo bông, lại mất tông tích mùi thơm trong làn khói cay xè, nó hốt hoảng, tiếp tục đẩy, huých và lấn tới, sau không biết bao nhiêu là phút nó mới tới được bờ bên kia. Hotel de Mailly, Quai Malaquest, cửa ngõ của Rue de Seine...

Nó dừng lại đấy, lấy sức và đánh hơi. Nó gặp rồi. Nó giữ chặt lấy. Như một giải lụa, cái mùi ấy kéo xuống Rue de Seine, rõ rệt không nhầm được, tuy nhiên vẫn còn rất mỏng mảnh và thanh. Grenouille thấy tim nó rộn làm sao và biết không phải gắng sức chạy nên tim đập nhanh mà vì vừa hồi hộp vừa bối rối trước sự hiện hữu của mùi này. Nó thử moi trong trí nhớ cái từa tựa như thế nhưng phải vất bỏ mọi so sánh. Mùi này tươi mát nhưng không phải tươi mát của chanh, lá cam hay của lựu, không phải tươi mát của mật nhi lạp hay vỏ quế, bạc hà hay vỏ cây phong, long não hay lá thông, cũng không phải của mưa tháng Năm, hay gió bấc hay mưa nguồn...đồng thời lại ấm, nhưng không phải cam chanh, cây bách hay xạ hương, không như hoa nhài và thuỷ tiên, không như gỗ hồng, cũng không giống như cây khoa diên vỹ...Mùi này là hỗn hợp của hai thứ đó, của cái chóng phai và cái tồn tại, không phải hỗn hợp mà là một sự thống nhất, khiêm nhường và yếu đuối nhưng là một sự chắc chắn và bền bỉ như một dải lụa mỏng óng ánh...cũng không giống lụa mà giống sữa hoà thêm với bánh bích quy, ngọt như mật ong.

Sữa và lụa! Cố gắng đến đâu cũng không thể hợp hai thứ này với nhau được. Thật không hiểu được cái mùi này, không diễn tả được, không cách gì xếp loại nó được, không thể nào có cái mùi ấy được. Vậy mà rành rành đó như một hiển nhiên tuyệt diệu. Grenouille lần theo với trái tim thấp thỏm vì nó ngờ rằng không phải nó đi theo mùi thơm ấy mà mùi thơm bắt được nó và kéo nó tới gần, không cưỡng lại được.

Nó ngược lên Rue de Seine. Đường không bóng người, nhà cửa vắng hoe, im lìm. Thiên hạ xem bắn pháo bông phía dưới sông. Ở đây không mùi người hối hả làm bực mình, không mùi thuốc pháo cay sè. Đường toả mùi thông thường của nước, phân, chuột và rau bỏ đi. Bên trên cái mùi ấy lơ lửng cái giải mùi dẫn Grenouille mỏng mảnh như rõ rệt. Sau vài bước, bầu trời đêm mờ mờ bị những nhà cao tầng nuốt chửng và Grenouille tiếp tục đi trong bóng tối. Nó không cần nhìn. Đã có mùi dẫn nó đi. Chắc chắn.

Sau năm mươi mét nó rẽ phải sang Rue desMarais, hẹp chỉ vừa một sải tay và có vẻ tối hơn. Cái mùi không đậm hơn mấy thì lạ thật. Chỉ tinh khiết hơn. Và càng tinh khiết hơn thì sức hút càng mãnh liệt hơn. Grenouille bước đi không tự chủ. Đến một nơi, cái mùi giật nó sang bên phải, có vẻ như đâm thẳng vào tường của một ngôi nhà nào đó. Một lối đi thấp hơn, dẫn vào sân trong. Grenouille qua hết lối đi này, như một kẻ mộng du, đi hết sân, rồi lại rẽ một lần nữa sang cái sân thứ nhì, nhỏ hơn, ở đấy có ánh sáng, đó là một vuông đất chỉ độ vài bước chân. Một mái hiên gỗ nghiêng bên tường. Phía dưới là một cái bàn có để nến. Một cô gái đang ngồi đấy rửa mơ vàng. Cô nhặt những trái mơ từ cái giỏ bên trái, cắt cuống, tách hột rồi thả vào chậu. Cô bé cỡ mười ba, mười bốn tuổi. Grenouille đứng yên. Nó biết ngay cái nguồn của mùi thơm mà nó đã ngửi thấy suốt hơn nửa dặm đường, tận bờ sông bên kia, không phải cái sân bẩn thỉu này, không phải những trái mơ vàng. Cái nguồn là cô gái.

Trong một lúc hoang mang, nó đã thật sự nghĩ rằng nó chưa từng gặp trong đời cái gì đẹp như cô bé. Thật ra nó chỉ thấy bóng cô từ phía sau, ngược với ngọn nến nên dĩ nhiên là nó nghĩ rằng chưa từng ngửi thấy cái gì đẹp đến thế. Bởi vì nó đã từng biết mùi người, hàng ngàn ấy chứ, mùi đàn ông, đàn bà, trẻ con nên nó không chịu tin rằng một cái mùi tuyệt vời như thế lại có thể toả ra từ người. Vả chăng mùi người gớm chết và chả có gì đáng nói. Mùi trẻ con nhạt nhẽo, đàn ông khai khú như mồ hôi chua và phó mát, đàn bà có mùi mỡ ôi và cá ươn. Hoàn toàn chẳng hấp dẫn gì, ghê tởm nữa ..Và vì thế mà lần đầu tiên trong đời Grenouille không tin vào mũi mình, phải cần thêm mắt để trợ giúp tin vào cái nóđã ngửi. Tất nhiên sự xáo trộn giác quan không kéo dài lâu. Thật sự nó chỉ cần có một nháy mắt để được chắc chắn qua thị giác để rồi ngay sau đó miệt mài với những cảm nhận của khứu giác. Bây giờ thì nó ngửi ra cô gái là người, ngửi mồ hôi trong nách cô, chất nhờn của tóc, mùi của cả chỗ kín, ngửi với sự hả hê lớn nhất. Mồ hôi cô tươi mát như gió biển, dầu nhờn của tóc ngọt như dầu hồ đào, chỗ kín như một bó hoa súng, da như thể hoa mơ..những thành phần này kết hợp với nhau ột thứ nước hoa thơm ngát, cân đối, thần diệu đến nỗi tất cả những thứ nước hoa Grenouille đã ngửi đến nay, tất cả những gì của cái toà nhà mùi mà nó đã tạo ra như đùa bên trong nó thoát chốc tàn lụi, chẳng còn chút ý nghĩa nào. Cả trăm nghìn mùi cũng không bằng một cái mùi này. Mùi này là nguyên lý để sắp xếp những mùi khác theo khuôn mẫu của nó. Nó là cái đẹp thuần tuý.

Grenouille chắc chắn rằng không có được mùi này thì đời nó không có nghĩa gì nữa. Nó phải biết đến tận chi tiết nhỏ nhất, biết đến chân tơ kẽ tóc mỏng mảnh cuối cùng, chỉ nhớ bao quát thôi thì không đủ. Nó muốn in, như thể với dấu ấn, cái nước hoa toàn mỹ này, vào cái mớ hổ lốn trong tâm hồn đen tối của nó, rồi nghiên cứu tường tận để từ đó chỉ còn có nghĩ, sống và ngửi theo những cấu trúc nội tại của cái công thức kỳ diệu này.

Nó chậm rãi tới gần cô bé, gần hơn nữa, đến sau lưng cô bé một bước thì dừng lại dưới mái hiên. Cô không nghe thấy nó.

Cô bé tóc đỏ, mặc quần áo hở tay màu xám. Tay cô trắng muốt và hai bàn tay cô vàng nước trái mơ. Grenouille cúi xuống, uống cái mùi lúc này không trộn lẫn toả lên từ gáy, từ tóc, từ cổ áo của cô, để cái mùi ấy trôi vào trong người như một làn gió nhẹ. Chưa bao giờ nó thoải mái như thế. Còn cô bé thấy lạnh.

Cô cứng đờ người vì sợ khi nhìn thấy nó, còn nó có thừa thì giờ để đặt hai tay quanh cổ cô. Cô không kêu, không nhúc nhích, không một động tác chống cự. Nó không nhìn khuôn mặt thanh tú đầy tàn nhang, cái miệng đỏ tươi, đôi mắt to xanh lóng lánh vì nó nhắm nghiền mắt khi bóp cổ cô bé. Nó chỉ lo lắng có một điều: để mất, dù chỉ chút xíu, mùi thơm của cô.

Khi cô bé đã chết, nó đặt cô trên nền đất giữa những hột trái mơ vàng, xé tung quần áo cô và cái dòng mùi thơm trở thành cơn lũ, tràn ngập nó. Nó úp mặt vào da cô, phồng to hai lỗ mũi, hít từ bụng đến ngực, lên cổ, tới mặt cô rồi lại từ tóc xuống bụng xuống chỗ kín, tới đùi rồi đôi chân trắng. Nó ngửi từ đầu tới ngón chân, nó thu nốt mùi thơm còn sót ở cằm, ở rốn và ở những nếp gấp của khuỷu tay.

Sau khi đã rút hết hơi hướng của cô bé, nó còn ngồi xổm cạnh cô một lúc để trấn tĩnh lại vì nó đầy ứ mùi cô. Nó không muốn để rơi chút nào. Nó phải đóng kín những vách ngăn trong người nó đã. Rồi nó đứng dậy, thổi tắt nến.

Giờ này những người trở về nhà đầu tiên đang lục tục ngược Rue de Seine, ca hát và "vạn tuế" om sòm. Trong bóng đêm Grenouille ngửi ra con hẻm rồi sang Rue des Petits Augustins dẫn xuống sông, song song với Rue de Seine. Chỉ lát sau người ta phát hiện xác chết. Tiếng kêu la nổi lên. Đuốc được đốt lên. Lính canh đến. Grenouille đã sang bờ bên kia từ lâu rồi.

Tối hôm ấy, nhà kho đôi với nó như thể cung điện và cái bệ gỗ chẳng khác giường có treo màn trướng. Nó chưa từng biết trong đời thế nào là hạnh phúc. Nhiều lắm thì nó cũng chỉ biết vài trạng thái rất hiếm hoi của sự vừa ý không thật rõ nét. Bây giờ nó run lên vì sung sướng và không ngủ được vì chứa chan hạnh phúc. Như thể nó được sinh ra lần thứ hai, không, không phải lần thứ hai, lần đầu mới đúng vì cho tới ngày nay nó chỉ hiện hữu như một con vật trong sự hiểu biết vốn hết sức mù mờ của nó. Cùng với ngày hôm nay, rút cục có vẻ nó biết nó thật sự là ai: không gì khác hơn là một thiên tài, cũng như đời nó có ý nghĩa, mục đích và sứ mạng cao cả hơn, cách mạng mùi thơm của thế giới, trên thế giới này chỉ riêng nó mới có đủ phương tiện: đó là cái mũi độc đáo, cái bộ nhớ phi thường của nó, và quan trọng hơn cả, cái mùi thơm mãi mãi không thể quên của cô gái ở Rue des Marais với cái công thức diệu kỳ chứa đựng tất cả những gì cần thiết để làm ra mùi thơm - nước hoa - tuyệt vời, đó là sự mỏng mảnh, sức mạnh, sự dẻo dai, đa dạng và vẻ đẹp kinh hoàng không cưỡng nổi. Nó đã tìm thấy kim chỉ nam cho cuộc sống tương lai. Giống như một thiên tài gớm ghiếc, như cái bọn người mà một sự cố nào đó ngoài đời có thể vạch một lối đi thẳng tắp trong cái đống hỗn độn xoắn xuýt của linh hồn họ. Grenouille không bao giờ đi chệch cái phương hướng mà nó tin rằng đã phát hiện ra cho số phận của nó. Bây giờ thì nó hiểu rõ tại sao nó bám cuộc đời bền bỉ và kiên quyết như thế, nó phải trở thành kẻ sáng tạo ra mùi. Không phải như bất kỳ ai. Phải là người chế nước hoa vĩ đại nhất từ cổ chí kim.

Ngay tối hôm ấy nó kiểm tra lại, mới đầu thức, sau trong mơ, cái bãi bộn bề mênh mông của ký ức. Nó xem lại triệu triệu những khối mùi và xếp chúng theo một trật tự có hệ thống: tốt đi với tốt, dở đi với dở, thanh theo thanh, thô theo thô, hôi với hôi, thơm với thơm. Trong tuần tới cái thứ tự này sẽ càng được chia nhỏ hơn, bảng liệt kê mùi sẽ càng phong phú và chi li hơn, thứ bậc ngày một rõ rệt hơn. Và nó sắp có thể bắt đầu dựng những công trình mùi đầu tiên được trù tính kỹ càng: nhà, tường, cầu thang, tháp, hầm, phòng ốc, phòng bí mật...một thứ pháo đài của những thành phần mùi tuyệt vời nhất ngày ngày được mở rộng thêm, làm đẹp thêm và xây dựng hoàn hảo thêm trong người nó.

Một vụ giết người mở đầu cho sự huy hoàng này đôi với nó là hoàn toàn không đáng bận tâm, ngay cả nếu nó có ý thức. Nó không còn có thể nhớ gì về hình ảnh như mặt, mũi, thân thể của cô gái ở Rue des Marais nữa cả. Nó đã giữ kỹ cái quý nhất của cô làm của riêng: cái nguyên lý mùi thơm của cô.

[Mục 9] Chương 9

Chương 9

Thưở ấy ở Paris có khoảng một tá nhà làm nước hoa giỏi. Sáu người ở bờ phải sông, sáu người ở bờ trái, người còn lại ở ngay chính giữa, trên Pont au Change nối bờ phải với khu Ile de la Cité. Hai bên cầu san sát những nhà bốn tầng khiến ai có đi ngang sẽ chẳng thấy sông ở chỗ nào mà ngỡ rằng mình đang đi trên đường bình thường, nền móng vững chắc, ngoài ra còn hết sức thanh lịch. Quả thật, Pont au Change được coi là một trong những khu buôn bán đẹp nhất thành phố. Những cửa hàng có tiếng nhất nằm ở đây, những nhà kim hoàn, nhà làm đồ gỗ mỹ nghệ, làm tóc giả và túi xách tay giỏi nhất, may cắt quần áo lót và tất phụ nữ, làm khung ảnh, buôn giầy cưỡi ngựa, thêu ngù vai, đúc cúc áo bằng vàng và chủ ngân hàng. Cửa hàng đồng thời là nhà ở của nhà làm nước hoa và găng tay Giuseppe Baldini cũng ở đây. Phía trên tủ kính chưng bày hàng căng một tấm trướng lộng lẫy màu xanh lá cây, bên cạnh treo huy hiệu của Baldini cũng bằng vàng: một lọ con với một bó hoa vươn ra khỏi lọ, thảm đỏ trải trước cửa cũng mang huy hiệu của Baldini thêu bằng chỉ vàng. Khi mở cửa chùm chuông Ba tư vang lên và hai con cò bằng bạc nhả từ mỏ chúng nước hoa đồng thảo vào một cái đĩa mạ vàng làm theo hình cái lọ trong huy hiệu của Baldini.

Baldini tự đứng sau cái quầy bằng gỗ hoàng dương màu sáng, già và cứng đơ như một cái cột, đội tóc giả có rẩy bột bạc, áo khoác xanh da trời viền vàng.

Một đám mây của nước hoa đại mà sáng nào ông cũng vẩy lên người bao phủ ông thấy rõ như thể đẩy ông vào một nơi xa xôi mờ ảo. Do đứng bất động, ông chẳng khác một món đồ của cửa hàng. Hoạ hoằn khi tiếng chùm chuông vang lên và hai con cò nhả nước thì sự sống trong người ông mới trỗi dậy, ông sẽ gập người lại, nhỏ thó nhưng nhanh nhẹn, khom mình chào nhiều lần, phóng ra từ sau quầy nhanh đến nỗi đám mây nước hoa đại không thể theo kịp. Ông sẽ mời khách ngồi để giới thiệu những nước hoa và mỹ phẩm chọn lọc.Baldini có cả ngàn thứ. Từ Essences absolutes, dầu hoa, tanh-tuya, nước cốt, xạ, dầu thuốc, nhưa và đủ loại dược phẩm: khô có, lỏng có mà như sáp cũng có. Rồi đủ thứ po mát, bột nhồi, bột, xà bông, kem, túi bột thơm, keo tóc, sáp chải tóc, sáp giữ râu, thuốc tẩy mụn cóc, đá kì cho đến dầu tắm, nước thơm, thuốc hồi sinh, giấm toa lét và vô số nước hoa thứ thật. Nhưng Baldini không chỉ thoả mãn với những sản phẩm này của cách săn sóc sắc đẹp cổ điển. Ông có tham vọng thu thập trong cửa hàng mình tất cả những gì thơm hay liên quan đến thơm. Cho nên ông còn có cả kẹo thơm, nến thơm, dây thơm và đủ thứ gia vị từ hạt giống hồi đến vỏ quế, xi rô, rượu trái cây, nước trái cây, rượu vang từ đảo Síp, Malaga và Korinth, mật ong và cà phê, trà, mứt, trái vả, kẹo sôcola, nụ bạch hoa, dưa leo và hành ngâm giấm cũng như cá thu muối. Rồi xi thơm, giấy viết thư tẩm nước hoa, mực để viết thư tình thơm mùi hoa hồng, cặp làm bằng da tốt, kẹp bút bằng gỗ đàn hương trắng, tráp và rương bằng gỗ tuyết tùng, bình và đĩa cho hoa ép khô, bình trầm bằng đồng thau, lọ con và hũ nhỏ với nắp mài từ đá hổ phách, găng tay và mùi xoa tẩm nước hoa, hộp kim khâu với hoa đậu khấu, giấy gián tường tẩm xạ hương giữ mùi lâu cả trăm năm.

Tất nhiên không có đủ chỗ cho tất cả những thứ này trong cái cửa hàng tráng lệ trông ra đường (hay ra cầu) và vì không có hầm cho nên không chỉ dành nhà kho mà còn tất cả tầng một, tầng hai và gần hết những phòng trông ra sông của tầng trệt làm kho. Hậu quả là trong nhà Baldini hỗn loạn mùi không sao tả được.Mỗi món hàng đều có chất lượng cao vì Baldini chỉ mua những thứ hạng nhất nhưng hỗn hợp mùi của chúng thì như thể một dàn nhạc cả nghìn người mà mỗi nhạc công chơi fortissimo (cực mạnh) một âm điệu khác nhau. Những người giúp việc và ngay cả Baldini đã mất hết cảm giác trước cái hỗn loạn ấy hệt như các nhạc trưởng có tuổi đều bị lãng tai vậy. Cho đến vợ ông, ở trên tầng ba và vẫn kiên quyết chống lại việc nới kho lên đó, cũng chẳng còn thấy những mùi nọ làm phiền. Khách hàng mới tới đây lần đầu thì khác hẳn. Họ bị cái mùi hỗn tạp ấy hắt vào mặt chẳng khác bị đấm rồi tùy thể chất mà lâng lâng hay choáng váng và chắc chắn họ hoang mang đến nỗi thường không nhớ đến đấy để làm gì. Thằng nhỏ quên cái việc chủ giao, ông khách vạm vỡ chợt thấy mình yếu xìu. Nhiều bà mệnh phụ bỗng chợt lên cơn nửa động kinh, nửa sợ buồng kín, ngất đi và chỉ tỉnh lại sau khi được cho ngửi thứ thuốc hồi sinh hăng nhất gồm dầu đinh hương, amoniac và long não.

Thành ra không gì ngạc nhiên khi cái cụm chuông Ba Tư treo nơi cửa ra vào tiệm ông Baldini ngày càng ít reo hơn và hai con cò bằng bạc cũng ngày càng ít nhả nước ra hơn

[Mục 10] Chương 10

Chương 10

"Ông Chénier ơi", Badini gọi từ sau quầy, nơi ông đã đứng thẳng như cột nhà và nhìn sững vào cửa ra vào hàng mấy tiếng đồng hồ "ông đội tóc giả vào đi!". Ông Chénier, thợ phụ của ông Baldini, tuy trẻ hơn chủ một chút song cũng già rồi, từ đống thùng dầu ô liu và những tảng dăm bông Bayonne treo lủng lẳng chui ra cái nơi sang trọng hơn của cửa tiệm. Ông ta lôi tóc giả từ áo khoác và chụp lên đầu. "Ông đi ư, ông Baldini?"

"Không", ông Baldini đáp "Tôi về phòng làm việc mấy tiếng và tuyệt đối không muốn bị quấy rầy".

"Vâng, tôi hiểu. Ông thử một loại nước hoa mới".

Baldini: đúng thế. Để tẩm vào tấm da quý cho bá tước Verhamont. Ông ta đòi một thứ hoàn toàn mới. Ông ta đòi một thứ như...như...tôi nghĩ là ông ta đòi Amor và Psyche (Tình yêu và tâm linh), nghe đâu của cái tay ẩu tả ở Rue Saint- André-des-Arts, cái tay..cái tay...

Chénier: Pélissier.

Baldini: Phải rồi. Pélissier. Đúng hắn. Cái tay làm ăn ẩu tả. Amor và Psyche của Pélissier. Ông có biết cái thứ ấy không?

Chénier: Dạ có. Có chứ. Chỗ nào cũng ngửi thấy nó cả. Ở mỗi góc đường. Nhưng nếu ông muốn hỏi thì...chẳng có gì đặc biệt! Chắc chắn không thể nào bì được với loại mà ông sẽ sáng chế, thưa ông Baldini.

Baldini: Tất nhiên rồi.

Chénier: Cái Amor và Psyche này hết sức bình thường.

Baldini: Tầm thường?

Chénier: Tầm thường như mọi thứ của Pélissier.

Tôi tin rằng trong đó có chanh lá cam.

Baldini: Thật ư? Còn những gì nữa?

Chénier: Có thể là tinh dầu hoa cam. Có khả năng là tinh dầu cây hương thảo. Nhưng tôi không dám nói chắc.

Baldini: Tôi chẳng quan tâm gì đến cái ấy.

Chénier: Dạ, tất nhiên rồi.

Baldini: Gã ẩu tả Pélissier trộn những gì trong nước hoa của gã thì mặc gã. Tôi chẳng cần phải ngửi qua một lần mới sáng tạo được.

Chénier: Dạ đúng thế.

Baldini: Ông biết đấy, tôi chẳng cần nhờ vào cảm hứng của ai. Ông biết đấy, tôi tự làm ra nước hoa của tôi.

Chénier: Thưa ông, tôi rõ.

Baldini: Tự tôi làm ra những thứ ấy.

Chénier: Dạ, tôi biết.

Baldini: Và tôi định sẽ chế cho bá tước Verhamont một thứ gây chấn động.

Chénier: Tôi hoàn toàn tin điều ông nói, thưa ông Baldini.

Baldini: Ông trông coi cửa tiệm nhé. Tôi cần được yên tĩnh. Ông Chénier, đừng để ai quấy rầy tôi nhé...

Thế rồi ông lê chân đi, lúc này không cứng đơ như pho tượng nữa mà còng xuống vì tuổi tác, như thể bị đánh, chậm chạp leo thang lên phòng làm việc ở tầng một.

Chénier lại đứng sau quầy, y hệt như chủ ông ta trước đó và nhìn sững cửa ra vào. Ông ta biết cái gì sắp đến trong những giờ phút sắp tới: trong tiệm chẳng có gì xảy ra còn trong phòng làm việc của Baldini trên kia sẽ là cái tai hoạ quen thuộc. Baldini sẽ cởi cái áo khoác xanh đẫm nước hoa đại ra, ngồi vào bàn viết chờ cảm hứng. Cảm hứng sẽ không đến. Ông ta sẽ chạy vội đến cái tủ chứa hàng trăm lọ con rồi trộn hú hoạ. Cái hỗn hợp này sẽ hỏng. Ông ta sẽ chửi rủa, mở toang cửa sổ và quăng nó xuống sông. Ông sẽ lại thử kiểu khác và cũng sẽ thất bại, sẽ la hét giận dữ và sẽ lên cơn nấc trong cái phòng sực những mùi ấy. Khoảng bảy giờ tối ông sẽ đi xuống, khốn khổ, run rẩy, khóc và rên rỉ "Ông Chénier ơi, mũi tôi thế là hỏng rồi, tôi không thể tạo ra nước hoa được nữa, tôi không thể giao tấm da cho bá tước được, hỏng hết rồi, tim gan tôi héo hắt hết rồi, tôi muốn chết, ông Chénier ơi, làm ơn giúp tôi chết phứt đi cho rồi!" Rồi ông Chénier sẽ đề nghị sai người đến nhà gã Pélissier mua một lọ Amor và Psyche và ông Baldini sẽ đồng ý với điều kiện không một ai được biết về nỗi nhục nhã này, ông Chénier sẽ thề và tối đến họ sẽ bí mật tẩm tấm da cho bá tước Verhamont với nước hoa của người khác. Nhất định sẽ như thế chứ không thể nào khác và Chénier ước chi vở hài kịch ấy qua cho rồi. Baldini không còn là nhà làm nước hoa giỏi nữa. Phải, xưa kia khi còn ở tuổi thanh niên ba bốn chục năm về trước, ông ta đã sáng tạo ra Bông hồng miền Nam và Bó hoa thanh nhã. Hai loại nước hoa của Baldini thực sự nổi tiếng. Ông giàu là nhờ thế. Nhưng bây giờ ông ta già rồi, suy nhược rồi, không nhận ra mốt của thời đại mới cũng như sở thích mới của con người và khi ông ta một lần nữa lại gắng gượng pha chế một loại nước hoa mới thì nó hoàn toàn lỗi thời, không bán được để rồi một năm sau sẽ đem hoà loãng thành mười lần, bán như phụ gia cho nước suối phun. Tội nghiệp ông ta, ông Chénier thầm nghĩ và kiểm lại trong gương mái tóc giả đủ ngay ngắn chưa, tội nghiệp ông già Baldini, thật tiếc cái cửa hàng đẹp đẽ vì ông ta sẽ đưa nó xuống dốc thôi, còn mình thật không may vì khi cửa hàng bị ông ta đưa xuống dốc rồi thì mình quá già, còn mua lại nó làm gì nữa.

Bạn đang đọc Mùi Hương của Patrick Süskind
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 17

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.