Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

Chương 11 - Phần 03

Phiên bản Dịch · 3835 chữ

Samuel chậm chạp đứng dậy. Aram nắm lấy cánh tay anh trong bàn tay thép của hắn và bắt đầu lôi anh về phía đồn cảnh sát.

Mười năm khổ sai ở Silesia? Không ai có thể quay về từ chỗ đó. Anh ngước nhìn gã đàn ông đang nắm tay anh, lôi anh về phía đồn cảnh sát.

- Xin ông đừng làm thế, - Samuel van nài. - Cho cháu đi đi.

Aram siết tay anh chặt hơn và Samuel cảm thấy như máu mình ngừng chảy.

- Cứ van xin nữa đi, - Aram nói. - Tao rất khoái nghe bọn Do Thái van xin. Mày đã nghe nói về Silesia rồi chứ? Mày sẽ đến đó đúng vào mùa đông. Nhưng đừng lo, ở trong hầm mỏ thì thú vị và ấm áp lắm. Và khi phổi mày đã nám đen vì bụi than và mày lên cơn ho không ngừng, mày sẽ bị bỏ ra ngoài trời tuyết và mày sẽ chết vì lạnh.

Phía trước họ, bên kia cầu, ẩn hiện trong cơn mưa là toà nhà dùng làm đồn cảnh sát.

- Nhanh lên! - Aram nói.

Và bỗng nhiên Samuel biết rằng anh không thể để ai làm thế đối với anh. Anh nghĩ đến Terenia, đến gia đình anh, đến bố của Isaac. Không ai được phép lấy đi cuộc sống của anh. Dù thế nào thì anh cũng phải chạy thoát, phải cứu lấy bản thân. Bây giờ họ đang băng qua cây cầu hẹp, con sông chảy rì rào bên dưới, nước dâng lên cao do những cơn mưa mùa đông.

Chỉ còn một đoạn đường ba mươi mét. Chuyện gì cần làm thì phải làm ngay, lúc nầy Aram có súng và nếu không có thì hắn có thể dễ dàng hạ sát anh. Hắn to gấp đôi Samuel và lại khoẻ hơn anh nhiều. Họ đã đến phía bên kia cầu và đồn cảnh sát nằm ngay trước mặt.

- Nhanh lên, - Aram gầm gừ, lôi Samuel đi. - Tao còn nhiều việc khác phải làm.

Hai người đã đến gần toà nhà đến nỗi Samuel có thể nghe thấy tiếng cười của bọn lính ở bên trong.

Aram siết chặt tay và bắt đầu lôi anh qua khoảng sân lát đá dẫn tới đồn cảnh sát. Chỉ còn vài giây nữa thôi. Samuel cho tay phải vào túi áo và sờ thấy túi tiền với năm, sáu đồng gulden bên trong. Những ngón tay anh cầm chặt nó, máu trong người chảy rần rật vì kích động. Anh cẩn thận lôi cái túi ra khỏi túi áo bằng bàn tay còn lại rồi nới lỏng sợi dây buộc và buông cái túi rơi xuống đất. Nó đập xuống nền đá và phát ra những tiếng kêu leng keng.

Aram đột ngột đứng lại.

- Cái gì vậy?

- Không có gì hết. - Samuel đáp nhanh.

Aram nhìn vào ánh mắt anh và mỉm cười. Vẫn giữ chặt Samuel trong tay, hắn ta lùi lại, nhìn xuống mặt sân và trông thấy cái túi tiền bị mở.

- Mày sẽ không cần tiền ở nơi mày đến. - Aram nói.

Hắn với xuống nhặt cái túi và tay Samuel cũng với xuống cùng lúc đó. Aram hất cái túi ra xa khỏi người anh. Nhưng tay Samuel không hướng về túi tiền.

Nó hướng về một hòn đá to nằm trên sân và khi Samuel đứng thẳng người lên, anh đập mạnh hòn đá vào mắt phải Aram bằng tất cả sức lực của mình, biến nó thành một đám bầy hầy màu đỏ, và anh tiếp tục đập, hết nhát nọ đến nhát kia. Anh thấy cái mũi của Aram trở nên dúm dó, rồi đến cái miệng, rồi cả khuôn mặt hắn ta trở thành một đống máu khủng khiếp. Aram vẫn đứng sững như một con quái vật bị mù vậy. Samuel nhìn hắn ta, gần như buồn nôn vì sợ hãi, và không thể tiếp tục được nữa. Rồi, cái xác khổng lồ bắt đầu gục xuống. Samuel nhìn xuống cái xác của tên lính canh, không thể tin nổi những điều mình vừa làm.

Anh nghe thấy những âm thanh trong trại lính và anh bỗng hiểu rõ mối nguy hiểm khủng khiếp mà anh đang mắc phải. Nếu bọn chúng biết được anh vào lúc nầy, bọn chúng sẽ không tống anh đi Silesia nữa. Chúng sẽ lột da anh và treo cổ anh ở quảng trường thành phố. Hình phạt cho bất kỳ một hành vi tấn công cảnh sát nào cũng là cái chết. Và Samuel đã giết một người cảnh sát. Anh phải nhanh chóng bỏ trốn thôi. Anh có thể tìm cách vượt qua biên giới nhưng sau đó anh sẽ phải trốn chui trốn lủi suốt cả quãng đời còn lại.

Phải có một cách giải quyết khác. Anh nhìn chằm chằm vào khuôn mặt của xác chết và chợt hiểu mình cần làm gì. Anh cúi xuống và lục lọi khắp người xác chết cho đến khi lôi ra được chiếc chìa khoá mở cổng lớn.

Rồi, cố thắng sự tởm lợm, Samuel nắm lấy đôi giầy của Aram và bắt đầu kéo cái xác về phía bờ sông.

Người chết dường như nặng cả tấn. Samuel tiếp tục kéo, anh bị thôi thúc bởi những âm thanh vọng ra từ đồn cảnh sát. Rồi anh cũng tới được bờ sông. Dừng lại một lúc để thở, rồi Samuel đẩy cái xác qua khỏi kè dốc và nhìn nó lăn xuống dòng nước đang chảy ở phía dưới. Một bàn tay mắc vào kè tưởng như dài vô tận, rồi thì cái xác cũng từ từ bị dòng nước cuốn trôi. Samuel đứng đó như bị thôi miên, lòng tràn đầy sợ hãi về việc mình vừa làm xong. Anh nhặt hòn đá vừa dùng để gây tội ác ném luôn xuống sông. Nhưng anh vẫn ở trong tình trạng vô cùng nguy hiểm. Anh quay lại và chạy qua cây cầu về phía hai cánh cổng lớn của khu Do Thái. Không có ai ở xung quanh đó cả. Bằng những ngón tay run rẩy, Samuel đút chiếc chìa khoá lớn vào ổ khoá và từ từ quay một vòng.

Anh kéo mạnh hai cánh cổng gỗ lớn. Không có gì xảy ra. Đối với anh thì chúng quá nặng. Nhưng trong đêm nay thì không có chuyện gì là không thể với Samuel.

Người anh tràn đầy một sức mạnh kỳ lạ đến từ bên ngoài và anh mở được cánh cổng khổng lồ ra. Anh đẩy xe vào bên trong, đóng cổng lại rồi đẩy xe chạy như bay về nhà.


Những người trong nhà đang tụ tập ở phòng khách và khi Samuel bước vào, họ nhìn anh như thể anh là một hồn ma sống dậy.

- Họ đã cho cậu về?

- Bố… bố không hiểu, - bố anh lắp bắp. - Mọi người đều nghĩ con…

Nhanh chóng, Samuel giải thích mọi chuyện xảy ra và những bộ mặt của họ từ quan tâm trở thành đầy khủng khiếp.

- Chúa ơi! - Bố Samuel rên lên. - Họ sẽ giết tất cả chúng ta mất.

- Không, nếu mọi người nghe lời của con, - Samuel nói. Rồi anh giải thích kế hoạch của mình.

Mười lăm phút sau, Samuel cùng bố và hai người hàng xóm đã đứng trước hai cánh cổng của khu Do Thái.

Samuel đẩy cánh cổng và luồn ra ngoài một mình, thầm nghĩ mình có thể bị tóm bất cứ lúc nào. Anh đặt chiếc chìa khoá vào ổ và quay một vòng. Thế là hai cánh cổng khu Do Thái đã bị khoá chặt từ bên ngoài. Samuel buộc chặt chiếc chìa khoá vào dây lưng, bước vài bước sang phía bên trái cánh cổng. Một lát sau, một sợi dây thò xuống dọc theo tường như một con rắn lớn. Samuel bám chặt vào đó trong khi ở bên kia tường bố anh và hai người kia bắt đầu kéo anh lên. Khi Samuel lên tới đầu tường, anh buộc một đầu dây thành cái thòng lọng và lồng nó vào một cái cọc đóng nhô ra khỏi tường rồi từ từ tuột xuống đất. Khi đã an toàn xuống đến nơi, anh lắc cho sợi dây tuột ra.

- Chúa ơi! - Bố anh lẩm bẩm. - Sáng mai không biết chuyện gì sẽ xảy ra đây? Samuel nhìn ông và trả lời, - Chúng ta sẽ đập mạnh vào cổng, bảo họ cho chúng ta ra.

-


Vào lúc bình minh, khu Do Thái tràn ngập cảnh sát và binh lính. Họ phải đặt làm một chiếc chìa khoá đặc biệt để mở cánh cổng cho các thương nhân đang la hét đòi được ra ngoài. Paul, người lính gác thứ hai, đã thú nhận rằng mình đã rời bỏ vị trí vào Krakow chơi bời suốt đêm, và anh ta đã bị bắt. Nhưng chừng đó vẫn không đủ để giải thích về cái chết bí mật của Aram. Theo như thường lệ thì việc một lính canh mất tích ở quá gần khu Do Thái như vậy là một lý do đầy đủ cho việc bắt đầu một cuộc tàn sát.

Nhưng cảnh sát lại rất hồ nghi vì hai cánh cổng đã bị khoá từ bên ngoài. Những người Do Thái đã bị khoá chặt hết ở bên trong, hiển nhiên là họ không thể gây hại được cho Aram. Cuối cùng, cảnh sát kết luận rằng Aram có thể đã bỏ trốn cùng một trong những người bạn gái của hắn ta. Họ cho rằng hắn đã ném chiếc chìa khoá nặng nề vào đâu đó và họ tìm kiếm khắp nơi, nhưng không thấy gì. Nó sẽ chẳng bao giờ được tìm thấy vì đã bị vùi chặt dưới nền nhà của Samuel.

Kiệt quệ về cả thể xác cũng như tinh thần, Samuel vừa đặt mình lên giường là đã ngủ ngay lập tức. Anh tỉnh dậy do có ai quát gọi anh. Ý nghĩ đầu tiên của Samuel là: Họ đã tìm thấy xác Aram. Họ đến đây để bắt mình.

Anh mở mắt ra. Isaac đang đứng cạnh giường, trạng thái vô cùng kích động.

- Dừng hẳn rồi! - Isaac gào lên. - Cơn ho đã dừng hẳn. Đây đúng là phép màu! Đến nhà tôi đi.

Bố của Isaac đã ngồi dậy được. Cơn sốt đã biến mất một cách kỳ lạ và cơn ho cũng đã dừng hẳn.

Khi Samuel đến bên cạnh giường, ông già nói:

- Bác nghĩ là bác có thể ăn được ít súp gà!

Và Samuel bắt đầu bật khóc.

Trong có một ngày thôi anh đã lấy đi một mạng người và cứu lại một mạng người.

Cái tin về bố của Isaac lan ra khắp khu Do Thái.

Thân nhân của những người đang hấp hối tụ tập quanh nhà Samuel, van xin anh ột chút huyết thanh kỳ diệu của mình. Anh không thể nào thoả mãn được hết các yêu cầu của họ. Và anh đến gặp bác sĩ Wal.

Ông cũng đã được nghe nói về những điều mà Samuel đã làm, nhưng vẫn còn bán tín bán nghi.

- Bác phải tận mắt chứng kiến mới được,! - ông nói.

- Cháu hãy điều chế một liều và bác sẽ thử nó lên một trong các bệnh nhân của bác.

Trong số hàng chục bệnh nhân đã chọn, bác sĩ Wal lựa ra một người mà ông thấy đã gần chết thật. Chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ người đó đã tỏ ra hồi phục.

Bác sĩ Wal đi đến chuồng ngựa nơi Samuel đang làm việc cả ngày lẫn đêm, điều chế huyết thanh, và nói:

- Nó thật công hiệu, Samuel. Cháu đã thành công rồi. Cháu muốn cái gì làm của hồi môn?

Samuel ngước nhìn ông và mệt mỏi trả lời:

- Một con ngựa khác.


Năm đó, 1868, là năm khởi nghiệp của Roffe và các con. Samuel và Terenia đã lấy nhau, và phần hồi môn cho Samuel là sáu con ngựa và một phòng thí nghiệm nhỏ nhưng đầy đủ trang thiết bị của riêng anh. Samuel đã mở rộng các thí nghiệm của mình. Anh bắt đầu chưng cất dược phẩm từ các loại thảo mộc và chẳng bao lâu sau những người láng giềng của anh bắt đầu đến căn phòng thí nghiệm bé nhỏ để mua thuốc về điều trị nhưng căn bệnh đang hành hạ họ. Họ được anh tận tình chỉ bảo, và cứ thế, danh tiếng của Samuel lan đi khắp nơi. Với những người không thể trả tiền, Samuel thường nói:

- Đừng lo lắng về chuyện tiền nong. Cứ lấy thuốc về đi.

Và với Terenia:

- Thuốc dùng để cứu người chứ không phải để kiếm lời.

Công việc làm ăn của Samuel vẫn tiếp tục phát triển và anh đã có thể nói với Terenia sau một thời gian ngắn:

- Anh nghĩ đã đến lúc mở một cửa hàng bào chế nhỏ, tại đó chúng ta có thể bán thuốc mỡ, thuốc bột và các loại thuốc không theo toa bác sĩ khác.

Cửa hàng của anh thành công ngay từ ngày đầu tiên. Những người giàu có trước kia đã từng từ chối giúp đỡ Samuel thì nay lại tìm đến anh đề nghị chung vốn.

- Chúng ta sẽ là bạn hàng, - họ nói. - Chúng ta sẽ mở một loạt cửa hàng.

Samuel bàn luận chuyện đó với Terenia.

- Anh rất sợ các cổ đông. Đây là chuyện làm ăn của chúng ta. Anh không thích cái việc những kẻ xa lạ sẽ sở hữu một phần cuộc sống của chúng ta.

Terenia cũng đồng ý với anh.

Khi công việc kinh doanh càng lúc càng thuận lợi và mở rộng thêm nhiều cửa hàng mới thì những lời đề nghị chung vốn cũng càng lúc càng tăng. Nhưng Samuel vẫn tiếp tục từ chối tất cả.

Khi bố vợ hỏi anh lý do vì sao, Samuel trả lời:

- Đừng bao giờ ột con cáo thân thiện vào trong chuồng gà. Một ngày kia nó sẽ tỏ ra thèm khát.

Công việc kinh doanh phát đạt, hôn nhân của Samuel và Terenia cũng như vậy. Nàng sinh cho anh năm đứa con trai - Abraham, Joseph, Anton, Jan và Pitor - và cứ mỗi đứa trẻ ra đời Samuel lại mở một hiệu bào chế thuốc mới, cái sau lớn đẹp hơn cái trước. Đầu tiên, Samuel thuê một người làm ình, rồi hai người, và không lâu sau anh đã có đến hơn hai tá nhân viên trong tay.

Một ngày kia Samuel tiếp một nhân viên chính phủ được phái đến.

- Chúng tôi đang xúc tiến việc bãi bỏ một số hạn chế cho người Do Thái, - ông ta nói với Samuel. - Chúng tôi muốn anh mở một hiệu bào chế thuốc ở Krakow.

Và Samuel đã làm như vậy. Ba năm sau anh đã phát đạt đến mức có thể xây cả một toà cao ốc ình trong trung tâm Krakow và mua cho Terenia một căn nhà xinh đẹp trong thành phố. Cuối cùng Samuel đã thực hiện được giấc mơ chạy thoát khỏi khu Do Thái.

Nhưng anh còn có những giấc mơ khác, xa hơn cả Krakow.

Khi các con lớn dần lên, Samuel thuê gia sư riêng cho chúng, và mỗi đứa con được học một thứ tiếng khác nhau.

- Nó điên rồi! - Mẹ vợ của Samuel nói. - Nó đã trở thành trò cười cho hàng xóm láng giềng khi dạy Abraham và Jan nói tiếng Anh, Joseph - tiếng Đức, Anton - tiếng Pháp và Pitor - tiếng Italy. Chúng sẽ nói chuyện với ai đây? Không ai ở đây biết những thứ tiếng man rợ như vậy. Những đứa trẻ thậm chí còn chẳng nói chuyện được với nhau nữa!

Samuel chỉ mỉm cười và kiên nhẫn trả lời:

- Đó là một phần trong vốn kiến thức của chúng.

Anh biết rõ các con mình sẽ nói chuyện với ai.

Khi các con ông được mười bốn, mười lăm tuổi, chúng thường được đi đến các đất nước khác nhau với bố chúng. Trong mỗi chuyến đi Samuel lại đặt nền tảng cho các kế hoạch tương lai của ông. Khi Abraham hai mươi mốt tuổi, Samuel triệu tập gia đình lại và thông báo:

- Abraham sẽ sang Mỹ sinh sống.

- Mỹ! - Mẹ Terenia hét lên. - Ở đó toàn bọn dã man. - Tôi sẽ không để anh làm thế với cháu tôi đâu. Thằng bé sẽ ở đây, nơi mà nó được an toàn.

An toàn. Samuel nghĩ đến những cuộc tàn sát và Aram, và về cái chết của mẹ ông.

- Nó sẽ ra nước ngoài, - Samuel tuyên bố. Ông quay sang Abraham. - Con sẽ mở một nhà máy ở New York và sẽ chịu trách nhiệm về công việc kinh doanh ở đó.

Abraham kiêu hãnh trả lời:

- Vâng, thưa bố.

Samuel quay sang Joseph.

- Vào ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt của con, con sẽ đi sang Berlin.

Joseph gật đầu.

Anton nói:

- Và con sẽ đi Pháp. Paris. Con hy vọng như vậy.

- Hãy giữ mình, - Samuel lẩm bẩm. - Một số người không phải Do Thái ở đó chẳng phải vừa đâu.

- Ông quay sang Jan.

- Con sẽ đi Anh Quốc.

Pitor, đứa con út, háo hức nói

- Và con sẽ đi Italia, bố ạ. Bao lâu nữa thì con sẽ đi được?

Samuel cười và trả lời:

- Không phải tối nay đâu, Pitor. Con phải chờ đến năm con hai mươi mốt tuổi.

Và mọi chuyện đều thuận lợi. Samuel đi theo các con ra nước ngoài và giúp đỡ chúng thành lập văn phòng và nhà máy. Trong vòng bẩy năm sau đó, nhiều chi nhánh của gia đình Roffe được lập nên ở năm quốc gia khác nhau. Nó đang dần trở thành một triều đại và Samuel cho các luật sư tổ chức sao cho các công ty con dù hoạt động độc lập vẫn có trách nhiệm với công ty mẹ.

- Không được có người lạ, - Samuel không ngừng cảnh cáo luật sư của mình. - Các cổ phần không bao giờ được rời khỏi gia đình.

- Sẽ không đâu. - Viên luật sư trấn an ông. - Nhưng nếu các con ông không thể bán cổ phần của họ, ông Samuel, làm sao họ xoay sở được? Tôi tin chắc rằng ông cũng muốn họ sống thoải mái.

Samuel gật đầu.

- Chúng ta sẽ sắp xếp cho chúng sống trong những căn nhà đẹp. Chúng sẽ có lương cao, các khoản chi tiêu, nhưng tất cả những thứ khác sẽ phải thuộc về công ty. Nếu chúng muốn bán cổ phần của mình thì phải có được sự nhất trí từ tất cả mọi người. Số cổ phần lớn nhất sẽ thuộc về con trưởng của tôi, và những người thừa kế của nó. Chúng ta sẽ trở nên lớn mạnh. Chúng ta sẽ lớn mạnh hơn cả Rothschilds.

Nhiều năm trôi qua và lời tiên tri của Samuel đã trở thành hìện thực. Việc kinh doanh không ngừng phát triển. Mặc dù gia đình ở rải rác ở khắp mọi nơi, Samuel và Terenia vẫn cố gắng lo liệu sao cho tất cả được gần gũi và thân thiết. Các con trai của họ vẫn về dự những ngày sinh nhật và các dịp lễ lớn trong năm. Tuy nhiên các cuộc viếng thăm của họ thường có nhiều ý nghĩa hơn là về dự những lễ hội thông thường. Họ thường đóng kín cửa và thảo luận chuyện kinh doanh với bố. Mỗi người đều có hệ thống tình báo riêng. Mỗi khi một người con ở một nước nghe được về việc phát triển một loại thuốc mới, người đó liền lập tức thông báo cho những người khác và họ sẽ bắt đầu tự sản xuất loại thuốc đó, vì thế trong lĩnh vực nầy họ vẫn luôn qua mặt được các đối thủ cạnh tranh.


Bánh xe thế kỷ vẫn tiếp tục quay, những đứa con lấy vợ sinh con và cho Samuel những đứa cháu nội.

Abraham đã sang Mỹ vào ngày sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của mình vào năm 1891. Anh cưới một cô gái Mỹ, bảy năm sau đó và năm 1905 đứa cháu nội đầu tiên của Samuel, Woodrow, ra đời, và người nầy lại có một đứa con trai tên là Sam. Joseph lấy một cô gái Đức, sinh được một trai và một gái. Cậu con trai lấy vợ và sinh được một con gái là Anna. Anna lấy một người Đức, là Walther Gassner. Ở Pháp, Anton cưới một cô vợ Pháp, có hai con trai. Một người tự tử chết. Người kia lấy vợ và sinh được một con gái là Hélène. Cô ta đã vài lần kết hôn nhưng vẫn chưa có con. Jan, ở London, kết hôn với một cô gái Anh. Đứa con gái duy nhất của họ lấy một tòng nam tước họ Nichols và có một cậu con trai là Alec. Pitor, ở Rome, lấy một cô gái Italia. Họ có một con trai và một con gái. Khi cậu con trai lấy vợ, vợ anh ta sinh được một cô con gái, Simonetta, người đã yêu và kết hôn với một kiến trúc sư trẻ tuổi, Ivo Palazzi.

Đó là tất cả các con cháu của Samuel và Terenia.

Samuel sống đủ lâu để được thấy những ngọn gió thay đổi thổi qua thế giới. Marconi tạo ra vô tuyến điện và anh em nhà Wright phóng chiếc máy bay đầu tiên ở Kitty Hawk. Rồi vụ án Dreyfuss dành trọn các tít lớn và đô đốc Peary đặt chân tới Bắc Cực. Chiếc ô tô Ford Modern T được sản xuất hàng loạt, ngoài ra còn có đèn điện và điện thoại. Trong lĩnh vực y học, các loại vi trùng gây bệnh lao, thương hàn và sốt rét đã bị cách ly và chế ngự hoàn toàn.

Tập đoàn Roffe và các con, sau gần nửa thế kỷ đã trở thành con vật kếch xù đa quốc gia bao trùm cả thế giới.

Samuel và con ngựa tàn tạ của ông, Lottie, đã gây dựng nên cả một triều đại.

Khi Elizabeth đọc xong Quyển sách, có lẽ đến lần thứ năm, nàng lặng lẽ mang trả nó về tủ kính. Nàng không cần đến nó nữa. Nàng đã là một phần của nó, cũng như nó là một phần của nàng.

Lần đầu tiên trong đời, Elizabeth biết mình là ai và mình từ đâu đến.

Chú thích:

(1)chemistry: hoá học

Bạn đang đọc Dòng Máu của Sidney Sheldon
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 18

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.