Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

Robert Goldman

Tiểu thuyết gốc · 8356 chữ

Ngồi trên giường, khuỷu tay chống đầu gối, Robert dành ra vài giây gục mặt nghĩ về cuộc đời mình. Đứng dậy khỏi chiếc giường được làm từ rẻ rách nhồi rơm lúc nào cũng tanh tách rận và rệp, cậu gấp lại chăn gối, chuẩn bị cho một ngày mới.

Tên tôi là Robert Goldman, tôi mười bảy tuổi.

Robert vắt áo ngủ lên vách thay đồ, tiếng khóa thắt lưng va leng keng khi cậu tự đập vào người mình để giết vài con bọ chét. Cậu xỏ giày, khoác tấm áo nâu bạc màu vá vài mảnh ở vai và khuỷu tay, miệng ngậm bàn chải trong khi chải đầu bằng cây lược đã gãy vài răng.

Tổ ấm của tôi đó – một túp lều gỗ tuy xập xệ nhưng đáp ứng được đủ nhu cầu ngủ qua đêm, tránh mưa và tránh rét. Với những kẻ thuộc tầng lớp tôi, vậy là đủ. Tôi không cần rèm nhung mành liễu để che đậy cuộc sống của mình khỏi con mắt người ngoài khi mà xung quanh nơi tôi sống chẳng có gì ngoài chuột và rác. Tôi không cần bồn tắm thả cánh hoa khi hàng ngày phải làm việc bên rác, tới mức thứ mùi hôi mù đã trở thành một phần không thể thiếu của tôi, không nước hoa nào có thể tẩy rửa được. Và tôi cũng không cần một chiếc gương để biết được rằng mình rẽ tóc sai ngôi và mặc những bộ đồ trực chờ rơi tã thành từng mảnh tới nơi. Hẳn sẽ có người hỏi bố mẹ tôi đâu rồi, thì xin trả lời rằng: Tôi, không biết.

Khóa cửa túp lều, Robert đi bộ tới nơi làm việc: tiệm ăn của Sean Brus nằm trên đường Whitefiras.

Kể từ khi còn nhớ được, tôi đã nhận ra mình không hề có bố mẹ, mà sống nhờ nhà bà già Collingwood ở Forest Hill – chốn đèo heo hút gió vùng ngoại ô London. Bà ta không phải là người phụ nữ hiền dịu (mông tôi hồi đó lúc nào chẳng thâm đầy vệt roi), gọi là ‘ác độc’ thì chưa tới mức. Miễn cứ chăm chỉ làm việc nhà và ngậm cái miệng láo lếu lại, mỗi bữa tôi sẽ được ăn ba lát bánh mì chấm chút sữa bò lợ nhạt do pha lẫn quá nhiều nước lã. Những lúc bà Collingwood không ở nhà, tôi tranh thủ chạy ra ngoài chơi và bị lũ trẻ con ở đó xúm vào chế nhạo vẻ ngoài, gọi tôi là “Thằng con hoang”.

– Mau lên, thằng khốn kiếp! – Lão chủ quán gắt gỏng khi trông thấy Robert từ xa vẫn cứ thong dong rảo bước. Lão là Sean Brus, đến từ Scottland, tuổi chắc năm mươi, có thể hơn hoặc kém một chút.


London năm 1845, ánh hoàng hôn lùi dần khỏi đường phố lúc nhúc dân, khắp nơi ngập ngụa mùi phân hòa lẫn với nước đái ngựa.

Robert, cùng một vài người phục vụ khác, xắn tay áo, thay phiên nhau chạy ra vào như mắc cửi. Tiếng bát đĩa lanh canh trong nhà bếp, tiếng bồi bàn hối thúc yêu cầu của khách. Cứ mỗi một lần có người bê món ra, Robert lại bưng đống bát đĩa bẩn vào, băng qua dãy nhà kho hai bên đầy thùng phuy chứa thực phẩm ướp đá hoặc muối, đặt chúng xuống rồi lại chạy đi nhận lệnh mới. Buổi chiều tối luôn là ca vất vả nhất. Ở trung tâm London, người ta có thể ăn một bữa tối khiêm tốn chỉ mất vài shilling tới chục xu tại những quán xoàng xĩnh, nóng nực và nhốn nháo như chỗ Robert đang làm thuê — hoặc tận hưởng trọn vẹn buổi tối của mình bằng dịch vụ ba món1 cùng rượu vang tại những nhà hàng sang trọng nơi phố Fleet.

1

Three courses: gồm Món khai vị, Món chính, và Món tráng miệng

Sự xa hoa luôn sẵn có, chỉ cần bạn dư dả ví tiền.

“Thằng con hoang”, “thằng khốn kiếp”… đều chỉ là cách gọi khác nhau cho cùng một sự miệt thị. Tôi chưa kể cho các bạn nghe lý do vì đâu mà từ một thằng con hoang sống ở Forest Hill, tôi lại trở thành một thằng khốn kiếp làm lau dọn tại trung tâm London phải không?

Khi nhận lời chăm sóc tôi, bà Collingwood đã già. Vừa lúc tôi biết đọc thì bà ấy qua đời. Vị linh mục làm tang lễ nói với tôi rằng có thể bà Collingwood đã cố gắng sống mà làm tròn trách nhiệm, và một khi trách nhiệm đã hoàn thành rồi, bà ấy cuối cùng cũng được yên lòng đi theo tiếng gọi của Chúa. Tôi không biết, lúc ấy tôi còn nhỏ. Điều duy nhất tôi quan tâm là mình sẽ được gửi tới gia đình nào tiếp theo. Một gã kinh doanh khăn tay (tôi không nhớ tên hắn) đã nhận lời chăm sóc tôi vì nghĩ rằng gương mặt trẻ thơ của tôi sẽ giúp gã bán chạy. Tôi được đưa đi rất nhiều nơi, được gặp những quý ông tay chống gậy, chân đi giày đáng giá gấp nhiều lần doanh thu của tôi cả tuần, để mời chào họ từng chiếc khăn vuông sắc trắng xinh xinh. Công việc buôn bán tất nhiên vất vả và không phải lúc nào cũng lời lãi, nhưng chưa bao giờ tôi thấy gã nhận nuôi mình chịu cảnh nghèo túng. Thế rồi một thời gian ngắn sau lại có chuyện xảy ra, và tôi bỗng dưng lại bị bỏ rơi. Tôi nhận ra mình thân cô thế cô, mắc kẹt tại chốn London chật ních người này.

Tôi tìm đến nhà thờ xin tá túc, và định mệnh giúp tôi lọt vào mắt xanh của một gia đình quý tộc mộ đạo.

Nhìn thẳng vào cửa sổ tâm hồn tôi, người đàn bà mặc váy xanh thẫm có gương mặt thuôn dài và mái tóc nâu uốn xoăn tít thốt lên ngay lập tức:

– Thằng bé đẹp theo một cách lạ thường đấy chứ. – Bà nâng lấy má tôi. Giọng của bà thật là ngọt ngào.

Tôi cảm ơn lời khen ấy bằng cái quỳ gập gối, dính một nụ hôn lên bàn tay bà. Bà đỡ tôi dậy bằng đôi bàn tay mềm mại của mình.

– Đứng lên đi cậu bé, con người ta chỉ cúi mình trước Chúa trời thôi. Hãy ngẩng mặt lên, để ta ngắm con.

Tôi ngước mắt. Không gian cao vút của nhà thờ hòa cùng hàng trăm ánh nến lung linh nơi đây, và tôi thấy người đàn bà trẻ trung này đẹp quá, quý phái mà hiền từ tựa như Đức mẹ. Tim tôi đập mạnh.

– Ta là Gladys Granville, bên cạnh là chồng ta, Benedict Granville. Hãy nói cho ta biết tên con đi, cậu bé.

– Con là Robert Goldman ạ. – Tôi trả lời.

– “Goldman?” – Bà ta thốt lên, quay sang nhìn đức lang quân tạng người béo tốt. – Anh yêu à, đứa nhóc này có phải là người Do Thái không? – Rồi bà nhìn tôi. – Con có phải người Do Thái không?

– Con không biết. – Tôi lắc đầu. Một đứa trẻ còn chẳng biết bố mẹ nó là ai thì cớ gì nó biết gốc tích sắc tộc hay tôn giáo của mình.

– Ta nghe nói người Do Thái khéo lo liệu chuyện tài chính lắm. Hãy về với chúng ta, con sẽ được đi học, và khi lớn lên con sẽ là người giúp việc đắc lực cho chồng ta.

– Vâng. – Tôi gật đầu, vẫn níu lấy đôi tay đeo găng để lộ chút da trắng ngần thơm mùi nước hoa của người đàn bà ấy.

Ông bà chủ luôn phân định rõ khoảng cách với tôi, tôi không trách họ. Đâu phải đứa trẻ nào cũng có cơ duyên được một gia đình quyền quý biệt đãi, chẳng thể đòi hỏi gì hơn nữa. Những tháng ngày bán khăn tay đã dạy cho tôi cách tính nhẩm, đếm tiền, kiểm hàng nhanh như máy — vậy nên ông bà chủ mới sẵn lòng nuôi một thằng bé được việc. Cũng vào lúc đó, tôi không còn nghĩ nhiều tới xuất thân con hoang con rơi của mình, vì họ đã cho tôi một công việc khác để bận tâm.

Và thế là tôi đã dành cả thiếu thời của mình dưới sự uốn nắn và giáo dục của phu nhân Granville. Mọi thứ có lẽ đã là một câu chuyện cổ tích nếu như tôi đừng lớn lên, và tiểu thư Blanche Granville – con gái độc nhất của ông bà chủ – đừng bao giờ chú ý đến tôi.

“Cứ mỗi lần nhìn thấy anh, em lại thấy cả thân mình nóng như lửa đốt. Anh khiến em chỉ muốn cởi hết đồ ra.” – Blanche đã trơ trẽn nói vậy, tay mò dưới đũng quần tôi.

Tôi vốn nể trọng vợ chồng Bá tước Granville, cũng chẳng quan tâm tới thứ con gái mất nết như Blanche — nhưng chẳng gì có thể làm lung lay được ham muốn có tôi đang hừng hực cháy trong cô tiểu thư biến chất.

Những gì còn đọng lại trong trí nhớ của tôi sau đó, là ánh mắt tóe lửa và cái gầm thét giận giữ của Bá tước Granville, nỗi sầu thảm tuôn rơi theo hàng lệ của phu nhân Granville (Chúa phù hộ người đàn bà ấy!), và những giọt nước mắt cá sấu của Blanche phóng đãng. Khi tỉnh dậy, tôi nhận ra mình nằm giữa một bãi phế liệu cách không xa nơi ở hiện giờ của mình, khắp người bầm dập, đôi chỗ rỉ máu. Lúc ấy tôi mười sáu.

Tạm biệt phu nhân Granville, tạm biệt dự định vào đại học. Tạm biệt lời hứa mà phu nhân Granville trao, rằng sau khi kết thúc việc học, bà sẽ tìm cho tôi một công việc tốt và một người vợ hiền.

Đáng ra tôi vẫn có thể tiếp tục việc học cao hơn nữa, gia nhập giới tăng lữ và đạt lấy một vị thế nào đó trong xã hội — Cha xứ đã nói với tôi như vậy. Mục đích của họ thì tốt, tốt cho cả họ và tôi. Nhưng nghĩ đến những luật lệ và nghĩa vụ trói buộc cuộc đời tôi với nhà thờ, tôi chấp nhận sống với cái đầu hơi cúi một chút.

Tai tiếng của tôi lan đi rất xa, không một ai từ tầng lớp trung lưu trở lên muốn thiết lập mối quan hệ với tôi hay nhận tôi làm việc. Không một ai cần tôi, nhưng tôi cần phải ăn và sống. Cuối cùng, lão Sean bần tiện đồng ý cho tôi làm người chạy việc vặt với mức tiền công không thể rẻ hơn. Tôi không hiểu lý do tại sao lão nhận, nhưng có việc là tốt rồi. Vì thế tôi gắn bó với nhà hàng của lão từ đó cho tới giờ.

Tối đã muộn, khách khứa bắt đầu thưa dần cho tới khi người cuối cùng ra về. Robert đem đống bát đĩa sạch đi cất, tiếp tục nhấc xô, chổi và giẻ lau để giọn dẹp mọi thứ. Tóc mái của cậu bết lại, áo cậu dính chặt cùng mồ hôi lưng, nhưng Robert chẳng còn thời giờ hay hơi sức để quan tâm. Chàng trai lau bàn, hắt tất cả những gì bẩn thỉu ở đó vào một chiếc xô hứng. Tiếng chổi mài đều đều trên sàn, đẩy đống đồ ăn thừa và giấy rác vào chung một góc. Trong khi Robert vẫn đang cặm cụi làm việc, vừa làm vừa ngáp một cái, tiếng chuông cửa vang lên. Cậu phục vụ rủa thầm trong đầu kẻ chết tiệt nào mò tới đây, vào thời điểm mà ai cũng chỉ muốn làm cho xong để về đi ngủ!

– Xin lỗi, tôi có thể dùng bữa ở đây được chứ? – Vị khách lên tiếng sau lưng Robert. Giọng ông ta nghe nhiu nhíu, khả năng cao là người nước ngoài nói tiếng Anh.

Lão Sean chủ quán đã có Robert chạy việc cho, và đằng nào tiền chả vào túi lão, lão chẳng mất gì ngoài thời gian, nên mời chào khách ngay lập tức.

– Rriobbartt, còn không bỏ đấy mà ra hỏi quý ngài cần gì đi!

Cái giọng lè nhè pha tiếng London và Scottland của lão Sean, tôi rất ghét.

Robert Goldman dừng tay, kê chổi tựa vào đầu bàn gần đó. Vị khách khách quá đáng bước lên phía trước, cậu ngẩng đầu nhìn. Ông là một người khoảng bốn mươi tuổi vóc dáng hơi nhỏ, có mái tóc vàng chải bới cùng bộ râu vàng rậm mọc lởm chởm. Ông ta mặc đồ đen, đeo găng trắng, một tay xách va li và tay còn lại đang giữ lấy chiếc mũ dạ bên ngực.

– Chào buổi tối, thưa ông. Tôi lấy gì cho ông được?

– Chỉ cần bắp cải hầm và pierogi thôi, nếu cậu có. – Ông ta mỉm cười, cái miệng kéo căng cả đống ria mép trên đôi môi mỏng sang hai bên.

– “Pierogi”, là cái gì vậy? – Robert nhăn mũi.

– Món bánh đặc sản của Ba Lan.

“Thằng cha này điên rồi!” – Robert nghĩ.

– Thưa ông, – Robert liếm môi – tôi nghĩ ông nên tới phố Fleet, cách đây không xa lắm đâu. Dịch vụ ở đó đa dạng hơn, tôi nghĩ sẽ phù hợp với yêu cầu của ông.

Ông khách có-vẻ-là-người Ba Lan kia hơi cúi đầu, vẻ buồn rầu giả tạo.

– Nếu vậy thì ở đây có gì ăn được thì cậu cứ đem cho tôi. Tôi không đòi hỏi lắm đâu.

Robert thở dài một hơi trước sự dai dẳng của vị khách. Khách hàng là thượng đế, cậu không thể cứ đứng cãi cự với người ta, hơn nữa, càng phục vụ nhanh thì ông ta càng biến đi sớm hơn.

– Mời ông ngồi xuống, – Robert kéo ghế – một đĩa cá muối cùng rau diếp sẽ được đem ra ngay thôi. Ông có muốn đồ uống kèm không?

– Nếu cậu có rượu thì tuyệt quá!

Khi Robert vào tới nhà bếp, cậu nhận ra đầu bếp đã về. Chàng trai nhún vai và tự mình làm lấy.

Nhận được đồ ăn từ Robert, người đàn ông tóc vàng gật đầu cảm ơn và nhanh chóng bỏ găng tay, xử lý bữa ăn bằng dao dĩa – thứ phong cách mà Robert chỉ thấy ở những gia đình cỡ như nhà Granville. Robert chọn một vị trí cách xa ông để dọn dẹp, vẫn còn ngửi thấy mùi tanh từ cá, vậy mà ông ta cứ ăn ngon lành, hẳn là đói lắm. Xong xuôi, ông lau miệng bằng khăn ăn, đặt vài shilling lên bàn và gọi Robert tới.

– Cảm ơn cậu vì đã phục vụ tôi dù muộn thế này rồi.

– Không có gì đâu…

Ánh mắt Robert lướt qua mẩu cá còn thừa trên mặt đĩa. Ông khách bốc lấy nó bằng tay phải, chụm đầu ngón lại, tay trái ông túm lấy tay Robert.

– Đây là tấm lòng của tôi.

Dứt lời, ông ta thả nó vào lòng bàn tay Robert. Mẩu thức ăn thừa bỗng dưng nằng nặng.

– Tạm biệt, anh bạn trẻ.

Robert ngửa tay, nhận ra đó là một mẩu nhỏ xíu có ánh vàng. Cậu ấp úng nói không nên lời, định hỏi người đàn ông cho ra nhẽ thì ông ta đã biến mất không thấy tăm hơi.

– Còn đứng đực ra đấy làm cái gì hả Rriobbartt! Muốn ở lại đây cả đêm à? Mày chưa đổ rác đâu đấy. – Lão Sean mắng mỏ khi thấy nhân viên của mình cứ đứng trơ ra, nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay. Lão chộp lấy mẩu vàng từ Robert, cắn thử một nhát. Cục vàng xẹp xuống, in hình vết răng lão. – Vàng mười đó! – Rồi lão bỏ luôn vào túi quần, cứ thế bỏ đi.

– Ơ kìa, ông ta cho tôi mà!

Đánh dấu cho sự kết thúc của một ngày làm việc, Robert trở về túp lều bên bãi phế thải, nằm vật xuống cái ổ rơm đầy chấy bọ của mình. Đáng ra cậu nên ngủ sớm để ngày mai còn có sức đi làm tiếp, nhưng hôm ấy, Robert không thể ngủ được khi trí óc cậu cứ thắc mắc mãi về người đàn ông giàu đến mức tặng cho cậu vàng mười nhưng lại đi ăn cá muối ở một nơi quá là tồi tàn.


“Rriobbartt, tao không trả tiền để mày quét cái chỗ này như bôi bẩn thêm ra đâu!”

“Rriobbartt, cải cửa rỉ sắt kêu bao nhiêu ngày đau hết cả tai còn không sửa đi!”

“Rriobbartt, nếu mày cứ lừng khừng như thế để khách bực thì đừng có trách!”

Kể từ sau hôm ấy, vị khách tặng vàng mười thường xuyên ghé thăm quán của Sean Brus. Ngày nào ông ta cũng hỏi có pierogi không, rồi lại nhận cái lắc đầu từ Robert, rồi lại chấp nhận ăn uống tạm những thứ nhơn nhớt sền sệt ở đó. Ông ta không còn hối lộ Robert nhưng cậu chẳng thắc mắc, vì giả như cậu còn giữ được mẩu vàng kia, thì kể ra nó cũng đáng giá cả ngàn lần tiền boa rồi. Chủ quán mới đầu rất thích vị khách thừa tiền, luôn đón tiếp hết sức niềm nở. Thế rồi, Ngài vàng mười ngày nào cũng hỏi thứ bánh khỉ gió và ki bo chuyện vàng bạc làm lão Sean bực bội.

Người đàn ông giàu có luôn tìm cách trò chuyện với Robert khi có cơ hội, và cả hai – sau một thời gian ngắn – đã có được chút thông tin về nhau.

– Tên cậu là Robert hả?

– Robert Goldman, tên tôi đó.

– Có thật là Goldman không?

– Người ta gọi tôi như vậy từ nhỏ mà.

– Cậu bao nhiêu tuổi rồi?

– Tôi mười bảy. Còn ông? Hãy nói cho tôi về ông đi.

– Tôi là Władysław Gostomski (Vlad-dis-xlav Go-xtom-xki). Năm nay ba mốt.

Robert cười một chút.

– Sao, có gì buồn cười?

– “Tình yêu là gì” (What is love), nghe giống mà. Tôi cứ nghĩ anh phải bốn mươi rồi.

– Chắc là do uống rượu nhiều quá, hoặc cũng có thể vì bộ râu này. – Władysław miết tay trái qua cằm mình.

– Anh không phải người ở đây hả?

– Quê nhà tôi ở Kraków, Ba Lan.

– Hẳn anh tới London vì công việc?

– Cũng gần gần như thế. – Władysław gật đầu.


Thêm một buổi tối nữa Władysław ghé thăm nhà hàng của Sean. Anh ta vỗ vai Robert, chào cậu bằng nụ cười.

– Như mọi khi nhé.

– Chào anh, Gostomski. – Robert nghiêng đầu nhìn Władysław rất nhanh rồi lại tiếp tục công việc chạy bàn tất tả.

– Ngày nào cũng vất vả nhỉ. – Władysław nói. – Hôm nay tôi không có tiền boa cho cậu đâu.

– Chuyện đó đâu thành vấn đề. – Robert nhún vai.

– Rriobbartt, món tới kìa! – Chủ quán réo tên cậu.

– Đây!

Robert chạy vào bếp, bưng ba đĩa thức ăn bốc khói ra ngoài. Cậu đặt chúng lên lần bàn lần lượt theo thứ tự yêu cầu. Vừa đó, có tiếng bát đĩa vỡ choang, ai nấy đều giật mình.

– Mày trả tiền! Đến lượt mày!

– Hôm qua tao trả rồi!

Hai tên bợm rượu mũi đỏ gay đang túm lấy cổ áo nhau. Bắp tay của chúng to bằng ba cánh tay Robert, và bụng chúng như giấu cả quả dưa hấu bên trong vậy.

Mọi người trong quán – từ già đến trẻ, từ những cô thiếu nữ đỏm dáng tới trai tráng đua đòi – đều tỏ ra khó chịu và bắt đầu bỏ về, lo mình bị vạ lây. Sợ mất khách, lão Sean khẽ vẫy tay gọi Robert:

– Rriobbartt, mau tìm cách đuổi khéo chúng đi chứ.

– Cái gì? Ông điên à?! Chúng chỉ việc ngồi lên thôi là tôi chết rồi!

– Khách đang về kia kìa. Không khách, không tiền. Không tiền, quán sập. Quán sập là mày ăn bùn đó, Rriobbartt.

Robert miễn cưỡng tiến về phía hai kẻ bặm trợn. Cậu bước đi rón rén, hai bàn tay run lên, trơn tuột vì mồ hôi.

– Hai ông, làm ơn giữ trật tự hoặc đi khỏi đây cho. – Robert cố nói cứng.

Một tên quay lại, lừ mắt nhìn Robert. Trên mũi hắn có một vết sẹo lồi.

– Mày là thằng nào? Biến đi trước khi tao tẩn mày ra bã! – Theo cái gầm gừ của hắn, vết sẹo nhăn lên trông đến gớm ghiếc.

– Tôi bảo là hai ông phải tôn trọng mọi người ở đây. Đừng buộc tôi phải dùng biện pháp mạnh.

Tên mũi sẹo lấy cánh tay hộ pháp rậm lông đẩy vào ngực Robert, cậu bị xô về sau một chút.

– Không đấy, ngon thì bắt tao đi!

Trông hai đầu gối đang run như cày sấy của Robert, tên còn lại muốn nhập cuộc góp vui. Nhíu cặp lông mày sâu róm màu đỏ gạch lại, hắn đưa năm đầu móng tay cáu bẩn gãi lấy lưng, sau đó tiến về phía Robert, thụi cậu một nhát ngã lăn quay.

Robert vừa đứng dậy, cố lấy thăng bằng, tên mũi sẹo đạp cậu ngã tiếp. Những tiếng đấm, đá cứ thế thuỳnh thuỵch vang lên. Mọi người trong quán chẳng thấy gì ngoài hai cái lưng to của đám lỗ mãng cùng cử động chân tay liên hoàn chúng giáng xuống Robert; còn Robert thì nằm rũ dưới đất, hứng trọn cơn mưa đòn.

– Chừa chưa thằng chuột nhắt! – Tên lông mày đỏ nhổ một bãi vào mặt Robert. Hắn rời trước, kế đó là tên mũi sẹo không quên đá vào bụng cậu phục vụ trước khi bỏ đi.

Chờ hai tên bỏ đi xa rồi, lão Sean mới chạy tới, chọc chọc cán chổi vào thân thể mềm nhũn của Robert. Mặt cậu ấy sưng húp, hai mắt nhắm tịt và thâm đen. Môi cậu rách và vều lên, lỗ mũi bên phải vẫn chảy máu.

– Này, này… Mày chết chưa đấy? Chưa chết thì dậy làm tiếp đi.

Mười ngón tay Robert cấu lên mặt đất, cậu bò dậy, thở hổn hển.

– Mau lên, khách đang chờ kia kìa.

Robert gầm lên:

– Chúng nó đánh tôi suýt chết đấy!

– Mày suýt chết, chứ mày đã chết đâu! Tao đâu phải bố mày, hả? Tao có nghĩa vụ phải lo cho mày à?

– Ông biết không, tôi nghỉ việc! – Robert nhổ vào bát súp lão Sean đang cầm trên tay. Nước bọt của cậu lẫn cả máu.

– Ồ, mày nghỉ sao được? Tao đuổi mày đi cơ, Rriobbartt! Để xem ngoài tao ra, ai sẽ nhận mày, thằng vô ơn này!

Lão Sean nói với theo cái bóng siêu vẹo của Robert đi ra khỏi cửa quán rồi mất hút. Władysław rời chỗ ngồi, nhìn nhanh lão Sean rồi cũng bỏ đi.

Robert lê bước, gương mặt phờ phạc, hai gấu quần rách rưới của cậu thay phiên nhau quét xuống mặt đất. Người đi đường nhìn cậu bằng ánh mắt ghê tởm, lũ chó ngoài đường đuổi theo cắn xé cậu.

Đẩy cửa túp lều, cậu thiếu niên ngồi thụp xuống giường. Cậu tháo dây chuyền thánh giá đeo trong người ra và ngắm nó. Chữ thập rung theo bàn tay Robert, một giọt nước mắt yếu đuối rớt xuống. Tức giận, bất lực, Robert ném văng sợi dây vào tường. Cậu ném món quà năm xưa của phu nhân Granville vào tường.

Robert không phải là người có thói quen đổi lỗi cho số phận, nhưng Chúa định thử thách cậu tới khi nào nữa? Chưa bao giờ trong đời, Robert Goldman cảm nhận được sâu sắc cái nghèo và hèn của mình đến nhường này. Cậu không có tiền, cậu không có quyền, cậu không có cả tiếng nói. Thế giới ngoài kia sẽ không bao giờ trao cho thằng bé sực nức mùi đồ ăn thiu này cơ hội nào, và nếu nó cứ cố bơi ngược dòng, họ sẽ khiến nó chết chìm.

Tôi từng có một ước mơ, rằng tiếng nói của những người như tôi một ngày nào đó sẽ được nghe thấy và công nhận, hay cuộc sống thường nhật có thể bớt đi chút đau buồn và mệt mỏi. Nhưng đó là giấc ngủ mơ mà tôi phải tỉnh dậy và nhận ra rằng tôi còn chẳng giúp nổi mình, vậy thì tôi giúp được ai?

Khóc lóc chỉ càng khiến vết thương của Robert xót thêm. Cậu mệt và muốn đi ngủ — đúng, có lẽ cậu nên đi ngủ thay vì cứ tự chuốc thêm những suy nghĩ quẩn quanh cho nặng đầu. Cuộc đời là thế mà, đâu phải ai cũng có được cái họ muốn. Nếu ai cũng biết trước được chuyện sẽ xảy ra và đủ khả năng can thiệp vào số phận của mình, mọi sự bất hạnh trên thế giới đã hết từ lâu rồi.

Robert nhìn thấy trong giấc mơ một hình bóng mờ ảo và chói sáng, có thể là một thiên thần hay sứ giả nào đó tới đón cậu đi. Và khi bàn tay Robert định với tới, sẵn sàng chờ đôi cánh trắng đưa mình tới cổng thiên đường, sẵn sàng đợi thánh Peter gọi tên cậu lên.

– Robert. Robert Goldman.

– Có tôi.

– Robert Goldman! Mở cửa cho tôi, là Władysław đây.

“Peter cái con khỉ!” – Robert lẩm bẩm trước khi ra mở cửa.

Vừa nhìn thấy bộ dạng tả tơi của Robert, Władysław vồ vập hỏi:

– Cậu có sao không? Cậu không thấy váng đầu hay khó thở chứ? Cậu bị thương mà đi nhanh quá, tôi phải hỏi mãi mới tìm được tới đây. Cậu cần tôi khám không?

Chuỗi câu hỏi của Władysław mới là thứ khiến Robert váng đầu. Cậu phẩy tay, mời anh Ba Lan đó vào nhà.

– Ra là anh làm nghề khám bệnh? – Robert rót nước đầy hai cốc, một cho Władysław và một cho bản thân.

Đặt va li xuống, Władysław ậm ừ gật đầu, ngắm quanh nơi ở của Robert. Người Ba Lan cảm tưởng túp lều ọp ẹp này sẽ sập ngay nếu có một trận dông lớn. Đôi mắt dò xét của anh ta ngừng tại vị trí một cái hộp gỗ có phần nắp vênh lên. Trên đó đầy những tờ giấy ghi chữ chép tay, bên cạnh vẫn còn lọ mực cùng cán bút.

– Cậu viết sách hả, Robert?

– Không, đó là tôi chép lại từ cuốn mượn được trong thư viện. Ngày xưa thôi, chứ giờ tôi không còn tiền nữa, cũng chẳng có thời gian nhiều.

– Sách gì vậy?

– Không có gì đâu.

– Tôi xem qua được không? – Władysław hỏi và đi ngay tới “bàn viết” của Robert, chẳng cần chờ tới sự đồng ý. Lướt nhanh qua nội dung, anh nhận ra ngay đó là “Về Y học cổ đại” của Hippocrates. Một cậu nhóc mười bảy tuổi đã đọc thứ này, cậu ta không diễn trò đấy chứ?

Robert biết thế nào Władysław cũng sẽ nghi ngờ hoặc coi thường mình, và ánh mắt của anh ta đã chứng minh điều cậu dự đoán là đúng. Thế là Robert đằng hắng, nhằm kéo anh Ba Lan tọc mạch trở lại vị trí ban đầu:

– Gostomski, ngoài mục đích kiểm tra tôi thì anh còn tới đây làm gì nữa không?

Władysław mỉm cười và trở lại chỗ ngồi đối diện với Robert. Anh ta vươn thẳng lưng, hai tay đan lại đặt trên lòng.

– Thật lòng thì, Robert ạ, tôi tới đây vì chuyện quan trọng hơn là uống nước tán gẫu cùng cậu.

– Chuyện gì vậy? – Robert nhướn mày.

– Tôi tới đây để giúp cậu, giúp cậu thỏa mãn mong ước sâu thẳm nhất của mình: tiền.

Robert cười khẩy.

– À, bởi vì tôi mang họ của người Do Thái nên tôi hám tiền chứ gì? Tôi nghe câu đấy nhiều rồi.

– Không, bởi vì tôi được cử đi tìm cậu, – Władysław lắc đầu, từ tốn tháo lớp găng ra – và trông cậu như thế này, tôi muốn giúp cậu.

– Anh muốn giúp tôi kiếm tiền? – Robert thấy tay phải của Władysław đeo một chiếc nhẫn vàng có gắn viên ngọc màu đỏ. Trước đây cậu đâu thấy nó nhỉ?

– Đúng vậy. – Władysław gật đầu.

– Làm sao tôi tin được anh đây? Tiền đâu phải đá cuội mót ngoài bờ sông mà cho nhau dễ thế?

Władysław đã chờ để được nghe Robert nói ra câu này. Anh ta mở va li, lấy ra một bọc chứa đầy đá cuội. Cầm lấy vài hòn trong tay, anh Ba Lan nắm chúng lại độ ba giây rồi thả ra. Từ lòng bàn tay Władysław, từng viên ngọc lục bảo rơi lộp độp xuống nền nhà, tỏa sáng lấp lánh.

– Như vậy đã đủ chứng minh chưa? Nếu muốn, tôi có thể cho cậu nhiều hơn nữa. Đừng ngại ngần, bạn tôi à.

Hai mắt Robert lúc này cũng trợn tròn to như đá cuội, hoàn toàn bị mê hoặc trước vẻ đẹp và sức quyến rũ của đống đá quý.

– Làm thế nào mà anh…?

– Cậu có tin rằng, một cục bùn đất nhớp nhúa cũng có thể trở nên giá trị và đắt đỏ như một viên hồng ngọc mang kích cỡ tương đương không, Robert?

– Bùn đất là bùn đất, làm sao có giá ngang hồng ngọc được! – Robert nghi ngờ Władysław đang diễn ảo thuật bịp mình.

– Ồ, thế mà có đấy. Những người như chúng ta hoàn toàn thừa khả năng tạo ra phép màu đó. – Władysław đi lại găng tay, đặt toàn bộ chỗ ngọc lục bảo vào tay Robert. – Cậu có biết câu chuyện về nhà giả kim và hòn đá triết gia không?

Robert biết. Đó là câu chuyện về một người đàn ông đã dành cả cuộc đời mình để tìm cho được một hòn đá đặc biệt có khả năng chữa mọi bệnh tật và biến những hòn đá thường thành vàng mà người lớn vẫn hay kể cho trẻ con nghe mỗi đêm trước khi đi ngủ. Đó chỉ là hư cấu thôi, phải không?

– Tôi tưởng đó chỉ là chuyện hoang đường? – Robert vẫn nghi ngờ. – Hơn nữa, tôi không phải là một nhà giả kim. Tôi chỉ là Robert, một thằng bé sinh ra là chuột cống và chết đi cũng vẫn chỉ là chuột cống.

– Robert, câu chuyện đó hoàn toàn có thật và những nhà giả kim thật sự tồn tại. Tôi biết, trong quá khứ, cậu đã vô thức biến một vật nào đó thành vàng chỉ với một cái chạm. Hãy xác nhận lời tôi đi.

Robert cay đắng bặm môi, khẽ gật đầu, hay tay ghì lên hàng lông mày rậm. Bí mật đó chưa bao giờ cậu định kể cho ai. Đôi lúc cậu sợ rằng mình mang sức mạnh của quỷ, và quỷ muốn cậu bị cuốn vào cám dỗ của tiền bạc — thứ bẩn thỉu nhất trên đời này theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

– Khả năng của các nhà giả kim nở rộ rất sớm mà lụi tàn cũng rất nhanh. Đó chính là lý do tôi tới tìm cậu. Tôi muốn giúp cậu thay đổi số phận của mình, như vậy có nghĩa là tôi cũng đã tự giúp tôi rồi.

Robert ngồi thừ người ra đó, nghĩ về mẩu thức ăn thừa Władysław đã từng giữ lấy và biến nó thành vàng mười đưa cho Robert. Cậu không biết nên phản ứng sao cho đúng trước những gì Władysław nói. Bản thân người Ba Lan kia có thể biến ra bao nhiêu vàng bạc châu báu tùy ý thích và sống giàu sang sung túc cả đời, anh ta còn nhờ đến Robert để làm gì?

– Anh cần người có thể biến mọi thứ thành vàng, và anh muốn tôi làm việc đó? Không có điều kiện đổi chác hay thỏa thuận gì sao?

– Tất nhiên là sẽ có một vài luật lệ ràng buộc giữa hai chúng ta. Nhưng hãy tin tôi là sẽ không ai phải chịu thiệt thòi nếu đôi bên đồng ý hợp tác. – Władysław nói nửa chừng. – Cậu sẽ không chỉ tạo ra vàng mà còn rất nhiều thứ khác. Tin tôi đi, một khi đã trở thành một nhà giả kim, tiền bạc có bao nhiêu với cậu cũng thành vô nghĩa hết.

Tiền bạc có bao nhiêu cũng vô nghĩa nếu chính bạn là người tạo ra chúng – Robert ngẫm thấy lời Władysław nói đâu phải vô lý. Nếu thành công và trở nên giàu có, cậu nhất định sẽ đem chia bớt của cải cho những người khó khăn hơn, sau đó tìm tới nơi nào hoang vắng sống lánh xa chốn bon chen ngạt thở này. Đứng trước ngã rẽ đầu đời của mình, bản tính mạo hiểm và thích thể hiện của tuổi trẻ nổi lên. Robert cảm thấy phấn khích, nhưng cậu cố kìm lại.

– Tôi có đảm bảo được mạng sống trong vụ này không? Tôi không bị lừa đấy chứ? Nghe chừng khá phi pháp.

– Có thể là phi pháp ở đây, nhưng không phi pháp chút nào tại quốc gia của chúng ta. Tôi làm việc cho Liên Đoàn, một tổ chức đặt quyền lợi và sự an toàn của các nhà giả kim lên hàng đầu. – Władysław nghiêng đầu nhìn Robert.

– Ý anh bảo “quốc gia của chúng ta” là sao? Anh là người Ba Lan, tôi là người Anh.

– Đúng, quê hương của tôi là Ba Lan, nhưng tôi đã rời bỏ nó để gia nhập Liên Đoàn và trở thành công dân của Patria. Nếu cậu đồng ý, tôi sẽ đưa cậu tới Patria và tự cậu sẽ được chiêm ngưỡng tận mắt. Nhưng trước hết, hãy suy nghĩ kĩ đi đã, Robert Goldman. Cậu thừa hiểu rằng việc biến bất cứ thứ gì thành vàng đều phải giữ bí mật, đúng không? Cậu sẽ phải sống ở Patria, bỏ lại hết mọi thứ cậu có ở đây, cậu làm được không? Một khi đã đồng ý, sẽ không có đường lui đâu.

Robert im lặng. Lời đề nghị mà Władysław đưa ra quá đỗi ngọt ngào, và liệu bên trong bát mật ngọt đó có độc hay không, người hiểu rõ hơn cả chính là Władysław.

Lúc đó tôi đã nghĩ rằng “Điều tồi tệ nhất có thể đến với mày là gì hả Robert? Cái chết?” và tôi nhận ra mình chẳng còn gì để mất cả.

– Tôi có cần phải ký vào đâu không? – Robert nhìn Władysław.

– Nếu cậu được việc, Liên Đoàn mới đưa cho cậu hợp đồng ký tên.

– Tôi sẽ tham gia. – Robert quả quyết. – Hãy đưa tôi tới Patria và gặp những người bạn, hay đồng nghiệp của anh đi.

– Tốt lắm. Tôi sẽ chuẩn bị mọi thứ cho cậu, cứ yên tâm chờ đi. Tắm rửa, ăn uống và nghỉ ngơi cho tốt vào, cậu cần sức khỏe vì đường đi mệt lắm. À, và trong lúc chờ, hãy làm những việc mà trước nay cậu chưa thể làm được — những việc cậu rất muốn làm ấy.

– Hả? – Robert thấy Władysław nói hơi nhanh quá.

Nhà giả kim nghiêng mình về phía Robert, đặt hai tay lên vai cậu.

– Ví dụ như là, có kẻ nào đã tước đi cơ hội đổi đời nghìn năm có một của cậu, và cậu muốn trả thù? Hay có cô gái nào đó cậu rất thương nhưng chưa bao giờ dám tỏ tình vì tự ti?

– Tình yêu là gì cơ chứ? – Robert nói nhỏ, nhếch mép cười chua chát.

– Hả? – Władysław tưởng rằng Robert gọi tên mình, anh nhìn cậu. Robert chính ra là một thằng bé tương đối ưa nhìn: Tạng người cân đối, cái lưng vẫn thẳng chứng tỏ cuộc sống của nó chưa bao giờ phải làm việc gì quá vất vả nặng nhọc tới mức bè cả người và rụt cổ lại. Mái tóc nâu rất sẫm, gần như là đen, cùng gương mặt vuông chữ điền làm tăng vẻ nam tính của thằng nhóc. Cái mũi khoằm như mỏ diều hâu và đôi mắt một xanh lam một nâu của thằng bé có thể hơi lạ chút, nhưng không phải là xấu xí. Ở tuổi này, hẳn thằng bé cũng biết rung động rồi, dễ khi vài ba đứa con gái cũng phải lòng Robert, chỉ là thằng bé không biết, hoặc chúng nó chê Robert nghèo mà thôi.

– Không, không có gì. – Robert lắc đầu. – Tôi muốn về thăm nơi ở cũ của mình, như vậy được chứ?

– Chỗ đó là?

– Forest Hill.

Władysław mở sổ tay xem bản đồ. Đường từ trung tâm London tới đó không xa lắm, anh gật đầu.

– Hai ngày để đi khắp thị trấn, ăn uống, vui chơi, và thăm hỏi. Cậu thấy đã đủ chưa?

– Vậy là đủ rồi. – Robert gật đầu.

– Hẹn gặp lại cậu. – Władysław đứng dậy, bắt lấy tay cậu thiếu niên. Anh ta trao cho Robert một nụ cười mỏng trước khi ra khỏi cửa.

– Tạm biệt, Gostomski. – Robert nói nhỏ.

Quay trở vào trong túp lều, Robert vội tìm tới vách tường nơi cậu đã lia sợi dây chuyền đi trong một giây phút mất tự chủ. Cậu nhặt nó lên, nắm lại đôi bàn tay, và tì nắm tay đó lên trán mình. Lúc này Robert không nghĩ đến ai ngoài Gladys Granville, trong bóng đêm, cậu chạy một mạch không biết mệt từ túp lều tới dinh thự Granville. Đứng trước cánh cổng, trái tim chàng trai thắt lại, nước mắt cậu lại bắt đầu rỉ ra, chảy xuống làn môi run rẩy. Robert Goldman Goldman lưỡng lự có nên hay không trả lại cho Gladys chiếc vòng này, càng không có đủ can đảm để tới gặp bà lần cuối và nói cho bà nghe về chuyến đi sắp tới cùng tương lai mịt mờ phía trước của mình.

– Vĩnh biệt… – Robert nói rất khẽ. Cậu đeo lại sợi dây thánh giá lên cổ, rồi lặng lẽ quay gót, và không bao giờ nhìn lại.


Hai giờ sáng, đường phố London vắng tanh gần như không còn ai qua lại. Mọi cửa hàng đều đã nghỉ hoạt động, các biểu hiệu nằm im lìm dưới ánh đèn đường lập lòe. Quán ăn của Sean Brus đã khóa cửa nhưng lối đi phía sau vẫn sáng. Từ tấm kính ô cửa sổ hắt lên bóng lưng hai người.

– Như đã hứa với các quý ông đây… – Władysław, ngồi tại đầu bàn, tay đẩy một túi vàng về phía lão Sean chủ quán và hai kẻ lỗ mãng đang ngồi hai bên cạnh dài của bàn.

Phần dành cho tên mũi sẹo và lông mày đỏ được Władysław chia trước. Khi chúng vươn tay chực lấy tiền công của mình, người Ba Lan ngăn lại:

– Tôi đã bảo rằng hãy nhẹ tay một chút với thằng bé. Tại sao các anh đánh vào mặt nó? Lỡ xảy ra chuyện gì, tôi biết làm sao?

– Việc gì anh phải quan tâm tới mặt nó thế? Rriobartt là thằng nhóc cứng lắm, tôi nghĩ nó sẽ ổn thôi — mong là thế. – Sean lên tiếng.

– Ai cũng nhận được phần của mình rồi, – Władysław đứng dậy, đội lại mũ và chỉnh trang áo khoác – tôi muốn chuyện này chỉ có bốn người chúng ta biết. Giờ thì, tạm biệt tất cả, tôi đi.

Ba người nhìn theo gã Ba Lan bí ẩn mất hút trong màn đêm. Gã đó giàu thật, mà gã cần gì ở thằng Robert mà phải giở thủ đoạn bẩn thỉu như thế? Cả ba cũng có chút thắc mắc về việc Władysław lấy tiền ở đâu ra. Nhưng xét thấy cảnh sát chẳng hề đưa tin gì về việc mất cắp vàng, và Robert Goldman cũng nào phải nhân vật đáng để ai quan tâm — họ lại tặc lưỡi cho qua, tự nhủ số vàng trong túi mình mang đủ sức thuyết phục rồi.


Władysław quay lại túp lều của Robert hai ngày sau đó, đánh thức cậu dậy vào lúc ba giờ sáng. Hai người đi xe ngựa, khi tới được Forest Hill thì mặt trời đã lên cao. Đứng tại quảng trường thị trấn, cầm va li trong tay, Robert thấy điều duy nhất thay đổi ở nơi này là nhà cửa và dân số. Trẻ con xuất hiện nhiều hẳn, các công trình trở nên cũ hơn, những con đường ngày xưa đi mãi cảm tưởng không hết mà giờ ngắn lại bao nhiêu. Władysław theo sau Robert, cùng cậu tản bộ. Do là vùng đồi núi, đường xá ở đây chỗ lên cao, lúc lại xuống thấp. Vừa đi, Robert vừa ngắm nhìn mọi vật, có lẽ mải ngắm nên quên cả mệt mỏi. Cậu đã đi hết quả đồi, dạo chơi trong khu rừng thông xanh tốt quanh năm, rồi leo lên núi và trông xuống lớp sương trắng mờ phía dưới. Khi nắng trưa chạm tới vạt rừng, nếu Władysław không đòi nghỉ, có lẽ Robert đã tiếp tục lang thang tới hết ngày.

Władysław và Robert thuê một phòng trọ để nghỉ từ trưa đến chiều. Sau bữa trưa qua loa với món sốt đậu nhàn nhạt và nhơn nhớt, cả hai nằm lăn ra ngủ mê man.

Phần đông cư dân ở Forest Hill làm nông, họ ăn sớm và đi nghỉ sớm, để sáng ngày mai lại dậy sớm. Mới mười bảy giờ, trời đã tối om và nhà nhà sáng chưng đèn. Vốn quen cuộc sống tự do, Władysław và Robert không thoải mái khi buộc phải tuân theo lịch sinh hoạt nhà nông. Tuy nhiên, chuyến đi bộ kéo dài buổi sáng đã rút hết năng lượng của họ, dạ dày cả hai réo lên chỉ khoảng mươi phút sau. Tối hôm đó, sau cả nửa giờ vật vã mới nuốt cố được đĩa súp lơ xanh luộc với muối, Władysław định lên giường đọc sách một chút cho mỏi mắt rồi đi ngủ luôn. Mặc kệ Robert đang khoác áo và xỏ giày, cậu ta muốn đi đâu thì tùy.

Có một ngọn đồi thấp nằm gần với khu rừng thông phía Tây-nam Forest Hill, trên đó đặt một tòa lâu đài cổ. Từ nhỏ Robert đã nghe kể nhiều câu chuyện về nó; rằng chủ nhân của nó chính là chủ đất của nơi này; rằng ông ta là một con quỷ hút máu người; hay con trai ông ta đã hóa điên, giết hết mọi người rồi tự sát, và oan hồn của họ vẫn lẩn khuất bên trong, ám lấy tòa lâu đài. Ai cũng bảo nhau đừng dại dột bén mảng tới đó vào ban đêm, đi một mình lại càng cấm. Robert không phải là một người tin vào ma quỷ, cậu chỉ muốn tới để xem xem, so với những gì còn đọng lại trong trí nhớ, tòa lâu đài ấy giờ trông như thế nào.

Leo hết con dốc, đứng trước lớp cổng sắt gỉ bị khóa chặt, Robert ngước mắt nhìn lên công trình xây bằng đá xám đứng hiên ngang qua năm tháng, bạc màu và rêu phong vì mưa gió. Bóng tối đã khoác lên nó vẻ bí ẩn, cộng với việc bị bỏ hoang càng làm tăng thêm sự ma quái. Robert nghĩ nếu đi tới đây vào ban ngày thì cũng chẳng đến mức rùng rợn lắm, tòa lâu đài có thể trở thành một địa điểm thu hút khách du lịch đầy tiềm năng.

Kết thúc dòng suy nghĩ, Robert đưa tay che miệng ngáp. Ngày hôm nay thế là đủ rồi, cơ thể cậu đã tới giới hạn và cần được nghỉ ngơi. Vừa quay lưng định ra về, Robert giật mình trước một bóng người cao sừng sững đứng ngay đó, cách cậu không xa. Một người đàn ông cao lớn, già nua, màu trang phục đen tuyền tương phản với nước da trắng nhợt nhạt. Ông ta mặc áo đầm dài, cổ quàng khăn tím than.

– Cậu làm gì ở đây vào lúc muộn thế này, anh bạn trẻ? – Ông ta lên tiếng, khóe miệng chồng nếp nhăn hơi cười. Một giọng nói mềm mỏng, dễ nghe đến lạ thường.

– Tôi chỉ thăm quan thôi. – Robert đáp, vội bước đi. – Tạm biệt ngài.

Đôi mắt xám của ông ta nhìn theo Robert. Trong bóng tối, ánh trăng phản chiếu lên cặp con người của ông già, khiến chúng sáng quắc lên, và khiến Robert rùng mình.

Robert không nghĩ cậu biết người này. Thật kì lạ khi cậu cứ ngờ ngợ rằng mình đã gặp ông già đó ở đâu rồi.

Tiếng cửa phòng kẹt mở đánh thức Władysław. Người Ba Lan biết đó là Robert, nhưng anh ta quá lười biếng để mở mắt ra nhìn.

– Đi đâu giờ mới về? – Giọng Ba Lan vọng qua lớp chăn, nghe nghèn nghẹt rõ là ngái ngủ.

– Kệ tôi. – Robert trèo lên giường, vùi mình trong chăn gối. Chẳng mấy chốc căn phòng chỉ còn tiếng hơi thở của hai người.


Ngày còn lại của chuyến thăm diễn ra khá tẻ nhạt. Forest Hill là một thị trấn rộng nhưng không phải nơi nào Robert cũng hứng thú tới. Cả buổi sáng hôm ấy, Władysław ở tại phòng, đọc báo, ăn kẹo và uống rượu trong khi Robert đi tới nhà thờ rồi dành thời gian còn lại la cà quanh thư viện. Khi hoàng hôn bắt đầu xuống cũng là lúc cả hai thu dọn xong hành lí và lại chuẩn bị lên đường.

– Gostomski này, điểm hẹn của chúng ta ở đâu vậy? – Robert hỏi khi đang ngồi trong xe ngựa. Bánh xe lăn trên đường va phải ổ gà, cả người, đồ đạc bên trong cùng xe nảy lên.

– Cứ gọi tôi bằng tên cũng được. – Władysław nói, nhấc bàn tay đeo nhẫn lên. – Đừng sốt ruột, không xa lắm đâu.

Władysław trả tiền cho người đánh xe. Anh ta cùng Robert đi bộ. Trên đường đi, Robert để ý viên ngọc trên nhẫn đeo của Władysław thỉnh thoảng lại lóe lên ánh sáng màu đỏ, càng đi, độ sáng lại càng mạnh và dứt khoát hơn. Sau khoảng mười lăm phút, họ tới một bãi đất trống khổng lồ, xung quanh không hề có người sinh sống. Ánh sáng từ viên ngọc chiếu thành một tia rực chói, Władysław đưa tay lên chếch về phía trước, kéo Robert hướng theo mình.

– Robert, nghe này, – Władysław hít một hơi – Tôi biết nhắc cậu có hơi thừa, nhưng cẩn tắc vô áy náy. Làm ơn, đừng nói hay hành động thiếu suy nghĩ, một khi…

– Một khi gì?

Một trận gió rất mạnh từ đâu cuộn tới, thổi tung đất đá và giấy rác bay văng khắp nơi. Bụi bay vào mắt khiến Robert không nhìn thấy gì, cậu chỉ nghe hai tai mình ù đi. Władysław vẫn đứng nguyên vị trí, tận dụng luôn va li làm khiên chắn bụi cho bản thân.

Từ trên bầu trời đêm, một vật thể màu đen bóng có hình dạng giống con cá đuối khổng lồ đang lơ lửng giữa làn mây đen, chiếu ngọn đèn pha ánh trắng xanh xuống mặt đất. Con cá đuối biết bay đó dần dần hạ xuống mặt đất, từ bụng nó mở ra một cánh cửa sập có bậc thang. Władysław huých nhẹ vai Robert, cùng cậu đi vào trong. Ánh đèn trắng gắt từ đó chiếu ra ngoài, làm Robert chói mắt, tự dưng cậu thấy căng thẳng. Władysław bước đi với một phong thái đĩnh đạc, đầu ngẩng cao, tay phải nắm lại, hướng chiếc nhẫn về phía hai người đứng gác cửa vai đeo quai súng. Họ không phản ứng gì, mặt lạnh tanh, Władysław tiếp tục vào trong cùng Robert.

Cậu thiếu niên đã suýt nữa thì thốt với vẻ kinh ngạc nếu không tự ngăn mình lại bằng cách bặm chặt miệng. Bên trong bụng con cá đuối này phải có tới cả trăm người đàn ông, tất thảy đều mặc áo đen, đội mũ che mất mặt, đeo găng trắng và chỉ mang một ít tư trang bên mình – hệt như Władysław. Họ là những nhà giả kim?

Tấm cửa phía sau lưng Robert đóng sầm. Từ giờ trở đi, sẽ chẳng còn đường nào cho cậu lui.

Bạn đang đọc Tôi, Là Nhà Giả Kim sáng tác bởi iamDage

Truyện Tôi, Là Nhà Giả Kim tại TruyenYY đã đến chương cuối. Hãy nhấn vào nút Theo Dõi để được nhận thông báo khi có chương mới nhé! Chúc đạo hữu có những giây phút vui vẻ tại YY Giới.

Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi iamDage
Thời gian
Cập nhật TrưBátGiới
Lượt đọc 20

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.