Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

NGƯỜI TUYẾT HIMALAYA GIỜ Ở ĐÂU

Phiên bản Dịch · 28497 chữ

CHƯƠNG 55:

NGƯỜI TUYẾT HIMALAYAGIỜ Ở ĐÂU

Nhạc Dương nói: “Theo lời Địch ô Cát Mẫu, người tuyết đã tiến hóa tới hình thái bộ lạc, đồng thời đã có cả công cụ bằng kim loại. Đây là một thể chế tương đối văn minh rồi, ít nhất cũng phải tương đương với Văn minh đồng thau thời nhà Thương. Nhưng tại sao những người tuyết được phát hiện cho đến nay, đa phần đều ở trạng thái người vượn hoang dã, trí lực đần độn vậy nhỉ? Rốt cuộc người tuyết có phải người núi tuyết không? Về vấn đề này, hiện tại chúng ta vẫn chưa thể có kết luận chuẩn xác được. Còn nữa, người núi tuyết bị bộ tộc Qua Ba đánh bại bỏ chạy, đã chạy đi đâu rồi? Tại sao lại lưu truyền nhiều câu chuyện thần thoại dân gian và tôn giáo về họ đến thế? Càng không cần phải nói đến những người tự xưng là đã tận mắt chứng kiến từ thời cận đại đến nay, người nào người nấy đều miêu tả rất thật. Hơn nữa, tôi còn có phát hiện mới trong một số tư liệu...”

Gián

Khi Sean tự móc toác bụng mình ra rồi tử vong, Nhạc Dương và Trương Lập đều kêu toáng lên kinh hãi, Đường Mẫn đưa tay che kín mặt, cả Ba Tang cũng phải chau mày. Sean không được yên nghỉ một cách an lành như họ tưởng tượng, mà ngược lại đúng vào khoảnh khắc cuối cùng trước khi chết, anh ta lại phải chịu đựng cảm giác đau đớn khủng khiếp nhất. Nỗi đau ấy khiến ngũ quan khô đét như xác khô của anh ta cũng vặn vọ biến hình, hai tay co quắp, cặp mắt trống rỗng đầy máu trợn trừng, cái miệng khô khốc há hốc, hàm răng màu cà phê cắn chặt cái lưỡi màu tím sậm, trong hốc máu nơi ổ bụng, từng con từng con côn trùng màu trắng nhung nhúc bò ra, thật sự là một cảnh tượng thê thảm đến nỗi không ai nỡ nhìn lâu.

Trương Lập giơ chân lên giẫm tới tấp, “Giẫm chết bọn mày! Tao giẫm chết bọn mày!” Đội trưởng Hồ Dương và Ba Tang mỗi người một bên giữ chặt anh lại. “Á!” Trương Lập vừa vùng vẫy, vừa ngửa mặt gầm lên giận dữ.

Nhạc Dương thì trầm ngâm suy tư: “Câu cuối cùng mà anh Sean hét lên có nghĩa gì nhỉ? Po li si - mei ke - ku tu?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nghe giống tên người nước ngoài.”

Đường Mẫn cuối cùng cũng bình tĩnh lại, nói: “Không, không phải tên người đâu. Hình như Sean muốn nói với chúng ta điều gì đó, vậy thì nhất định anh ấy sẽ nói thế nào để chúng ta có thể hiểu được, nếu đó là một tên người, thì cả bọn chúng ta đã bao giờ nghe qua cái tên nào như thế đâu. Hơn nữa, từ cuối cùng đó, dường như vẫn phát âm chưa hết, vì vậy, em cho rằng, anh ấy mới chỉ nói được một nửa thôi.”

Trác Mộc Cường Ba thoáng ngạc nhiên liếc nhìn Mẫn Mẫn, rồi lại đưa ánh mắt sang phía Nhạc Dương. Nhạc Dương khẽ gật đầu nói: “Có lý đấy.”

Lữ Cánh Nam chợt cất tiếng: “Tạm gác những chuyện đó lại, chúng ta mai táng cho Sean trước đã.”

Bên bìa rừng lại có thêm một đống đất nhỏ. Bên cạnh đống đất, họ bứng một cây nhỏ ra trồng, trên thân cây to bằng miệng bát được khắc hàng chữ “Sean, một nhà thám hiểm vĩ đại của thế kỷ hai mươi mốt, an nghỉ tại nơi đây.”

“Ngày hôm đó, sắc trời rất u ám, dường như trời tối quá sớm. Lồng ngực tôi như thể có một tảng đá khổng lồ đang đè nặng, làm tôi không sao thở nổi. Cảm giác ấy như thế nào, tôi không diễn tả được, tôi muốn khóc, nhưng lại không thể òa lên, chỉ thấy có áp lực nặng nề dồn nén, khiến tôi mỗi bước đều phải hết sức khó nhọc lê chân. Nếu không phải sau này gặp được Mã Cát, tôi nghĩ, không biết mình có thể tiếp tục cầm cự ở vùng đất Shangri-la đó nữa hay không. Tôi là người đã đưa Sean gia nhập đội ngũ này, chính tôi là người đã đưa ân nhân cứu mạng mình lên đoạn đầu đài, khi ấy, tôi cứ luôn tự trách mình như thế. Cuối cùng, rốt cuộc tôi đã hiểu được tại sao mình không thể khóc được... Nước mắt, không thể nào cuốn trôi đi cảm giác hối hận trong lòng người ta được. Cái cây ấy, giờ chắc đã lớn lắm rồi. Sean từng nói, loài cây đó có thể sống cả mấy nghìn năm, không biết nghìn năm sau nữa, người ta có thể tìm được cái cây ấy giữa muôn vàn cây cối khác ở Shangri-la hay không... có lẽ...” Nhiều năm sau đó, Trương Lập đã viết như thế trong cuốn hồi ký của anh.

Chôn cất Sean xong, họ lại tiếp tục lên đường, ban ngày đi dọc theo mép bình đài, ban đêm dựng trại ở lưng chừng vách đá, mỗi ngày đeo trên lưng năm mươi ki lô gam đồ đi bộ hai mươi cây số. Vì sự ra đi bất ngờ của Sean, không khí trong đội cũng trở nên nặng nề khó tả.

Họ đi gần một tháng trên tầng bình đài thứ hai, càng tiến về phía trước, thực vật trong rừng càng thấp nhỏ hơn, nhưng chủng loại cũng phong phú hơn nhiều. Họ gặp phải đủ thứ sinh vật ly kỳ cổ quái, có con rắn đuôi như con lươn; hoặc một loài sinh vật toàn thân gồ ghề đầy gai, vừa giống thằn lằn lại vừa giống cá sấu; hoặc loài động vật thể hình như tê giác, toàn thân mọc đầy gai nhọn, phần miệng lại to cứng như mỏ vẹt; hoặc có loài lại đầu lừa miệng ngựa thân hươu, đuôi thì giống như đuôi chuột; ngoài ra còn có các loại giống như khỉ, chim, đại bàng, tất cả đều là những loài chưa từng xuất hiện trong bất cứ ghi chép nào. Họ tra ra rất nhiều hình ảnh phục dựng 3D của các loài sinh vật tiền sử trong máy tính của giáo sư Phương Tân, nhưng cũng đều chỉ là giông giống chứ không phải, không thể nói được rốt cuộc chúng thuộc giống nào loài nào. Có điều, lòng nhiệt tình của cả nhóm đối với vấn đề này cũng không cao nữa, bởi người có hứng nhất, thích giảng giải nhất đã không còn nữa, gặp phải loài sinh vật nào trông có vẻ nguy hiểm hoặc thể hình to lớn, cả bọn lại đi đường vòng tránh qua. Ngoài ra, cũng có mấy lần họ gặp phải bọn thằn lằn săn mồi theo đàn kia, may mà năng lực quan sát của Nhạc Dương cũng chẳng kém gì bọn thằn lằn trinh sát biết đổi màu ấy, nên bọn Trác Mộc Cường Ba mới không phải chính diện đụng đầu với lũ săn mồi đáng sợ đó.

Nhưng không thấy bất cứ dấu tích nào của con người. Dựa trên những gì ghi chép trong Nhật ký thôn Công Bố, ít nhất bọn họ đã bỏ qua mấy chỗ di tích cổ, có điều trong đó cũng nhắc đến, các di tích cổ ấy đều đã bị hoang phế từ mấy trăm năm trước rồi, sau này cũng hầu như không còn ai đến những nơi đó nữa.

Dọc đường thảng hoặc cũng có những tình huống bất ngờ, gặp phải một loài động vật thể hình to lớn lại có cảm quan nhạy bén từ trong rừng ào ra tập kích, trong đó có tới mấy lần bị bọn động vật lớn hợp thành một đàn tấn công, cuối cùng gây ra lở đất. Về sau, họ còn bị lũ chim khổng lồ ở đây để mắt, may mà chạy nhanh lẩn tuột vào trong rừng, mới tránh được bị bọn chim kia không kích.

Cuối cùng, nước uống đã dùng cạn kiệt, họ buộc phải đi sâu vào rừng tìm kiếm nguồn nước. Băng qua thảo nguyên, qua khu vực toàn cây họ dương xỉ thấp tè chịu được hạn hán, lại một lần nữa bước chân vào khu rừng ẩm ướt, băng lạnh, tối tăm. Không hiểu tại sao, mỗi lần đi sâu vào rừng, Trác Mộc Cường Ba đều thấy không được thoải mái, cảm giác như có người đang ngấm ngầm nhìn trộm mình vậy.

Khu rừng lần này đã khác hẳn với mấy lần trước, thực vật um tùm, tán lá sum suê rậm rạp, càng đi vào bên trong, hơi ẩm càng nhiều, lớp bùn bên dưới đã ngập tới gần mắt cá chân họ rồi.

Đi chưa được bao lâu, Lữ Cánh Nam bỗng nhắc: “Chú ý cảnh giới, thực vật ở đây bắt đầu thấp nhỏ đi rồi đấy.”

Mọi người đều hiểu ý Lữ Cánh Nam, đây là kinh nghiệm họ rút ra được ở Shangri- la này, khi cây cối cao lớn khổng lồ, còn mặt đất lại không có loài thực vật cỡ nhỏ nào, thông thường các loài sinh vật xuất hiện đa phần đều thuộc loại thể hình to lớn kềnh càng, đó cũng là để thích ứng với môi trường sống. Mà sinh vật khổng lồ ở Shangri-la này, không phải đơn độc hành động, thì cũng là loại thiểu năng trí tuệ, đối phó với bọn đó vừa dễ tấn công, mà cũng dễ né tránh. Thế nhưng, khi rừng cây xuất hiện các loại thực vật thấp nhỏ, thì lũ sinh vật nhỏ cũng có chỗ náu thân, tệ hơn nữa là, những loài đó thông thường đều sống theo bầy lớn, chẳng may đụng độ với chúng, thực đúng là giết hoài cũng chẳng hết. Bọn họ đã mấy lần nếm mùi đau khổ rồi!

Cảm giác lạnh lẽo âm u, tiếng gió rú gào giữa các tán cây rừng thi thoảng pha lẫn với tiếng gầm của những loài dã thú chưa biết tên, còn trước mặt bọn họ, xương cốt của các loài thú hoang cũng mỗi lúc một nhiều hơn. Nơi này như thể một lò sát sinh thời cổ đại, cứ bước được vài bước là lại thấy một bộ xương tương đối hoàn chỉnh, hình thái muôn hình vạn trạng, gió thổi qua, chốc chốc lại phát ra những âm thanh “u u” rợn người. Còn cả một số sinh vật khổng lồ, nhìn có vẻ như mới chết không bao lâu, lạ một điều là, bên ngoài bộ xương của chúng vẫn còn một lớp biểu bì chi chít những lỗ nhỏ trông như cái sàng. Tiếng “u u u” chính là âm thanh khi gió thổi vào những bộ xương có lớp da bọc bên ngoài ấy phát ra.

Lữ Cánh Nam bất giác nhíu mày, thứ gì đã tạo ra những xác chết thế này chứ? Nhện ư? Bọn nhện cũng thích bơm dịch tiêu hóa vào cơ thể con mồi, khiến phần bên trong con mồi từ từ tan chảy, sau đó hút lấy dinh dưỡng. Có điều nhện rất hiếm khi hành động theo bầy đàn, hơn nữa vết thương do chúng gây ra là vết thương không có hình dạng cố định, còn những vết thương này đều hình tròn, giống như kim châm vậy. Phải chăng là lũ muỗi? Không, ở đây có rất nhiều xương động vật nhỏ, nhỏ đến mức lũ muỗi đại tướng kia khó mà tấn công được, hơn nữa hoàn cảnh nơi này cũng rất không thích hợp cho việc bay lượn. Phải là một loài hút máu nhỏ hơn, sống theo bầy đàn, có bộ xương vỏ ngoài tương đối cứng rắn và dẻo dai để đối phó với các loài thực vật đầy gai nhọn, có lẽ không biết bay, nhưng tốc độ bò trườn trên mặt đất nhất định rất nhanh!

Lữ Cánh Nam bèn nói suy nghĩ của mình ra. Từ khi Sean ra đi, bọn họ chỉ còn có thể dựa vào phán đoán của mình để nhận biết các loài quái thú sắp phải đối mặt.

Đường Mẫn hơi sợ hãi, dè dặt đề nghị: “Hay là, chúng ta lấy nước ở đây rồi đi luôn cho nhanh.”

Lúc này phía trước họ không hề có dòng suối nào, chỉ có một đám đất bùn nhão nhoẹt. Đường Mẫn nói lấy nước, là chỉ cách dùng bao vải bọc lấy đất bùn ép ra nước. Đây là phương pháp thường dùng khi ở giữa chốn hoang vu một thời gian dài mà không tìm được nguồn nước, cũng không có công cụ nào thích hợp để đào nước ngầm.

Nhạc Dương lắc đầu nói: “Mẫn Mẫn lo xa quá đấy, nói gì thì nói chúng ta cũng đều được huấn luyện đặc biệt có bài có bản, lại còn cả những trang bị mới này nữa chứ.”

Đội trưởng Hồ Dương lên tiếng cảnh cáo: “Nhạc Dương, đừng khoác lác thế, chú ý quan sát đi.”

Trác Mộc Cường Ba nắm chặt tay Mẫn Mẫn nói: “Không sao đâu, ít nhất đến giờ chúng ta vẫn chưa thấy có gì nguy hiểm.”

Trong lúc nói chuyện, Trác Mộc Cường Ba nhận ra Trương Lập đang dựa người vào một gốc cây nghỉ ngơi, hơi thở của đội trưởng Hồ Dương cũng trở nên nặng nề, gã bèn nói: “Nghỉ ở đây một lát đã.”

Nhưng Trương Lập đã đứng lên nói: “Biết đâu phía trước có nguồn nước luôn rồi!”

Nhạc Dương lắc đầu nói: “Độ mềm và độ ẩm của bùn đất phân bố rất đều, phía trước có khả năng là đầm lầy hoặc hố bùn thôi.” Anh cũng muốn nghỉ ngơi một lát, lưng đeo một đống nặng trịch bước đi trên đất bùn nhão nhoét, thực sự là rất tốn sức.

Trương Lập nói: “Vậy để tôi lắp ăng ten.” Giờ cứ mỗi lần bọn họ dừng lại, Trương Lập liền lập tức bật hệ thống radar lên, cũng là một biện pháp để đảm bảo an toàn khá hữu hiệu. Có điều khoảng thời gian này, Trương Lập tương đối trầm mặc hơn.

Đội trưởng Hồ Dương đặt ba lô xuống bên cạnh, chọn lấy một khúc rễ cây khô ráo ngồi phịch xuống, bỗng nghe “rắc” một tiếng, rễ cây đã gãy lìa. Thế cũng chưa là gì, lại thấy một vật trăng trắng bay vèo ra từ giữa đám rễ cây bùng nhùng. Đội trưởng Hồ Dương tưởng là côn trùng gì đó, lập tức giật bắn mình nhảy thót lên. Pháp sư Á La vươn tay ra bắt lấy, thì ra là một khúc xương trắng. Đội trưởng Hồ Dương thấy vậy bèn lầm bầm: “Chỗ này cứ quái quái kiểu gì ấy, đâu đâu cũng toàn xương trắng.”

Sau lưng họ là một đống xương trắng chất lẫn lộn, lờ mờ có thể nhận ra vài bộ còn nguyên vẹn, còn một bộ xương khổng lồ ít nhất cao ba mét, dài khoảng mười mét bị ngập một nửa trong đầm lầy. Pháp sư Á La nhìn khúc xương dài trong tay mình, nét mặt có vẻ ngần ngừ nghi hoặc. Lữ Cánh Nam để ý đến vẻ mặt ấy của pháp sư Á La, cũng đưa mắt nhìn khúc xương, bất giác giật mình ngạc nhiên: “Đó là...”

Pháp sư Á La đã bước tới gần chỗ đội trưởng Hồ Dương, nghi hoặc nói: “Cho tôi xem khúc rễ cây bị gãy kia được không?”

Đội trưởng Hồ Dương không hiểu gì, nhưng vẫn nhổm người đứng lên. Pháp sư Á La cẩn thận quan sát khúc rễ cây, có lẽ là một đoạn rễ gồ lên của cái cây to phía sau lưng Hồ Dương, chỉ thấy ở chỗ gãy lìa ấy có một cái lỗ, bên trong còn vài khúc xương trắng toát nữa. Pháp sư Á La lại kiểm tra thân cây to đó, quả nhiên lại phát hiện thêm mấy khúc xương khác mắc kẹt giữa các kẽ cây, hoặc có thể nói, chúng được thân cây bao bọc bên trong cũng không sai.

Đội trưởng Hồ Dương cũng nhìn thấy xương trắng kẹt trong thân cây, ngạc nhiên nói: “Thế này là sao nhỉ? Trong thân cây có xương? Có động vật gì chết trong thân cây được nhỉ?”

Pháp sư Á La lắc đầu, Lữ Cánh Nam cũng lên tiếng: “Đây giống như xương người hơn.”

Pháp sư Á La gật đầu tán thành: “Ừm, đây là xương đùi của người.”

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đều đứng bật dậy đến bên cạnh cái cây ấy. Trác Mộc Cường Ba hỏi lại cho chắc: “Xương người? Sao lại ở trong thân cây? Ở gần đây có người à?”

Pháp sư Á La đáp: “Chắc là một dạng thụ táng. Thời cổ đại, ở Tây Tạng cũng có khá nhiều hình thức thụ táng khác nhau, một trong số đó là đặt xác hoặc tro cốt, hoặc bình đựng tro cốt của người chết vào khe nứt trên thân cây, hoặc chôn bên dưới gốc cây.”

Đường Mẫn mừng rỡ thốt lên: “Vậy có nghĩa là gần đây có người sống rồi?”

Pháp sư Á La mỉm cười, khe khẽ lắc đầu. Nhạc Dương đã trả lời thay: “Có thể rất lâu trước đây từng có người, hoặc giả ở sâu trong rừng có di tích của một bộ lạc nào đấy. Nhưng giờ thì sợ rằng không còn nữa rồi, nhìn ở đây có nhiều xương cốt động vật như vậy, không giống nơi có người ra vào cho lắm.”

Thấy vẻ mặt thất vọng của Đường Mẫn, Trác Mộc Cường Ba nói: “Đi thôi, chúng ta tiếp tục lên đường.”

Nhạc Dương lại bổ sung: “Tất nhiên, cũng có khả năng có người. Mà dù chỉ có di tích thôi thì cũng tốt mà, nếu là thôn làng bỏ hoang chưa lâu lắm, biết đâu chúng ta còn tìm được mấy bộ quần áo thì sao.”

Tiếp tục đi thêm về phía trước, bùn nhão dưới chân mỗi lúc một sâu, bọn họ chỉ có thể dùng dây móc đu trên cây. Có điều, vùng đầm lầy này cũng không lớn lắm, không bao lâu sau đã thấy thấp thoáng trong rừng một dòng suối nhỏ trong vắt chảy ngoằn ngoèo, nước suối trong thấy đáy, phản chiếu từng mảng lá xanh bùn vàng xung quanh, lập tức khiến người ta cảm thấy thanh bình lạ thường. Nhạc Dương nôn nóng muốn nhảy xuống bên bờ suối, nhưng đúng lúc ấy, cả Trác Mộc Cường Ba lẫn Ba Tang đồng thời cảm nhận được bên dưới có gì đó nguy hiểm!

“Nhạc Dương! Đừng xuống đó!” Trác Mộc Cường Ba hét lên hơi chậm mất một chút, hai chân Nhạc Dương đã chạm đất. Nhưng gót chân anh chàng hóa ra không giẫm lên mặt đất, mà chỉ thấy cả một khoảng đất bên cạnh dòng suối bỗng nhiên nhung nhúc chuyển động, nào thấy đất vàng lá xanh gì đâu, mà thì ra là cả một lũ gián to tướng! Lũ gián ấy tụ lại rất ngay ngắn, màu vàng nâu trên cơ thể chúng thoạt nhìn trông chẳng khác nào bùn đất. Cú đáp của Nhạc Dương đã làm kinh động cả bầy gián xung quanh. Đội trưởng Hồ Dương ở trên cây không kìm được buột miệng kêu lên: “Gián khổng lồ!”

Cũng may Nhạc Dương vẫn chưa thu dây móc lại, nghe thấy tiếng hét của Trác Mộc Cường Ba, anh chỉ nhún chân xuống như chuồn chuồn điểm nước, rồi lại đu tiếp lao vút lên. Có điều trong lúc hoảng hốt, anh đã tương nguyên ra cả một băng đạn như một phản xạ có điều kiện. Hành động ấy rõ ràng đã gây họa to, không biết xác chết của bọn gián nguyên thủy ấy phát ra chất thông tin gì, mà những con gián khác lập tức bắt đầu phát động tấn công.

Bọn gián đó, có thể không lợi hại bằng lũ côn trùng khổng lồ họ từng gặp phải trước đây, nhưng vô số thân thể dài hơn ba chục xăng ti mét phủ kín cả một khoảng mặt đất như thế, cũng đủ khiến người ta run lên sợ hãi. Tệ hơn nữa là, bọn gián đó biết leo cây, vậy là ngay cả trên cây họ cũng không còn an toàn.

Những kẻ gây hỗn loạn đầu tiên là bọn gián nhỏ chưa trưởng thành, vỏ giáp bên ngoài của chúng mới là từng khúc từng khúc một, pha lẫn hai màu trắng và vàng nâu, mặc dù không có móc răng cưa như bọ ngựa, nhưng sáu cái chân của chúng đều có móc ngược, bị quẹt phải một cái là đủ toác thịt ra. Trước đây chẳng ai để ý đến miệng gián thế nào, cũng chẳng ai quan tâm xem chúng ăn uống ra sao, giờ gặp phải bọn gián dài cả thước này, họ mới nhìn rõ cái miệng của chúng. Những cái miệng hình tam giác nhọn, hơi giống miệng chuồn chuồn hay bọ ngựa, trên dưới đều có hàm, bên trong có rất nhiều xúc tu cuồn cuộn nhu động. Vừa thấy bọn gián bò lên, Đường Mẫn đã lập tức kêu rú ầm ĩ.

Lãnh địa của bọn gián này rất rộng, tốc độ leo cây lại nhanh đến kinh hồn, chẳng những vậy, dù họ bắn dây móc về hướng cây nào, thì bọn gián bên dưới gốc cây ấy cũng lập tức bò lên ngay.

“Khốn thật! Bọn chúng làm gì có mắt? Sao lại biết vị trí của chúng ta được chứ nhỉ?” Trương Lập ngoác miệng ra chửi, vừa đặt chân xuống, suýt chút nữa bị một con gián bò lên đùi, may mà kịp giơ súng bắn hạ.

Lữ Cánh Nam đáp: “Cảm ứng rung động. Gián có thể cảm ứng được rung động nhỏ như lá rơi ở khoảng cách vài trăm mét, nói gì đến rung động mạnh khi dây móc bắn vào cành cây chứ.” Vừa nói, chân cô vừa giẫm lên lưng một con gián, chất dịch màu trắng bắn tóe ra khiến cô chỉ muốn nôn mửa, vội vàng lật cổ tay, bắn dây móc đu người sang một thân cây khác.

“Bọn chúng, bọn chúng đâu có ăn thịt, sao cứ đuổi theo chúng ta làm gì thế nhỉ?” Đường Mẫn thắc mắc hỏi Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba cũng giẫm bẹp gí hai con gián, nhưng trong đầu gã lúc này lại đang nghĩ đến một chuyện khác: “Sáu cái chân mọc đầy gai móc, phần đầu hình nửa bầu dục, tốc độ bò cực nhanh, cắt đầu đi vẫn có thể sống được thêm ba tiếng đồng hồ, trong hoàn cảnh không có thức ăn và nước uống vẫn sống được thêm một tuần, nếu không tiêu hao thể lực còn có thể kéo dài được lên đến ba tháng, sức sống cực mạnh, loại động lực thích hợp nhất, lẽ nào chính là chỉ thứ này? Trung tâm của các loại cạm bẫy máy móc lẽ nào chính là bọn chúng?”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Ai bảo chúng không ăn thịt? Bọn chúng là động vật ăn tạp, cái gì chẳng xơi.”

Nhạc Dương cũng nói: “Đúng đấy, ở chỗ chúng ta người ta gọi gián là ‘mụ trộm mỡ’, nếu đã ăn mỡ, thì chắc chắn là không ăn chay rồi.”

Lữ Cánh Nam đột nhiên giật mình, sực nghĩ ra: “Phải rồi, tấn công theo bầy đàn kiểu này có đúng là gián không nhỉ? Tại sao toàn là các cá thể chưa trưởng thành không có cánh? Không! Bọn này không giống gián lắm, mà giống loài bọ chó hút máu nhiều hơn!”

Dường như để nghiệm chứng suy nghĩ của Lữ CánhNam, vài con gián đột nhiên lợi dụng sức bật của chi sau mạnh mẽ bắn người lên cao. Tình hình càng thêm nghiêm trọng, tốc độ và độ cao của những cú nhảy ấy chẳng khác nào bay. Ở đây mà gặp phải một đám côn trùng biết bay thì đúng là chẳng còn gì tệ hơn được nữa. Trác Mộc Cường Ba lập tức đưa ra quyết định: “Tản ra chạy!” Đoạn dẫn theo Đường Mẫn đột phá về phía phải.

Đây là kinh nghiệm họ rút ra được sau nhiều lần đụng độ với các quần thể sinh vật số lượng lớn. Một khi phân tán, số lượng truy binh phía sau cũng sẽ bị tản ra, mà thông thường bọn chúng cũng rất hiếm khi bay ra khỏi vòng lãnh địa của mình. Đồng thời, sau khi phân tán lại không lo lỡ tay làm bị thương người của mình, phiền phức cũng giảm đi đáng kể. Với trang bị vũ khí hiện giờ của họ, đã đủ để bảo đảm an toàn của cá nhân rồi, cộng với hệ thống thông tấn hiện đại, có thể nhanh chóng tìm được vị trí của những người khác, không sợ bị lạc trong rừng sâu.

Tám người tản ra tám hướng khác nhau, Nhạc Dương đi sâu vào rừng, Trương Lập thì xuôi theo dòng suối, lao thẳng vào chỗ bọ chó nhiều nhất, anh định dẫn dụ đám đông nhất theo mình. “Này, anh cẩn thận đấy! Trương Lập!” Nhạc Dương hét lên trong bộ đàm, nhưng anh cũng không dám khẳng định Trương Lập có nghe lọt lời mình không. Nhạc Dương rất lo Trương Lập vì cái chết của Sean mà nghĩ quẩn. Xa xa vang lên tiếng nổ “ầm ầm, ầm ầm”, Ba Tang đã bắt đầu ném lựu đạn ra rồi.

Lúc Trương Lập dừng lại, trên người đã có mấy chỗ bị cào rách, cánh tay hình như bị một con chẳng hiểu là gián hay bọ chó ấy móc vào, lòi cả thịt ra ngoài, nhưng cũng coi như đã thoát được sự truy đuổi của chúng. Thông qua thiết bị thông tấn, anh nhận ra, người ở xa nhất là Ba Tang, hai người cách nhau tới khoảng năm ki lô mét, còn người ở gần nhất là pháp sư Á La, có điều cũng cách tới khoảng 1,7 ki lô mét. Khi anh phát tín hiệu an toàn, ba người khác cũng đồng thời phát ra tín hiệu an toàn, chỉ có Lữ Cánh Nam, pháp sư Á La, đội trưởng Hồ Dương và Ba Tang là chưa xác định được vị trí an toàn, có điều bốn người bọn họ chắc đều biết làm thế nào để thoát khỏi lũ gián. Trương Lập phần nào yên tâm, lấy băng cấp cứu ra băng qua cánh tay bị thương, bắt đầu lần mò tiến lên phía trước.

Lội qua bờ suối bên trái, đi ngược dòng tiến lên phía trước, xuyên qua một vùng cỏ rậm rạp um tùm, rồi leo qua một con dốc đất và đá vụn, xương trắng đã thưa dần, tiếng suối nước vang lên rõ hẳn. “Chà chà.” Trương Lập bất giác than thầm một tiếng, đã đến đầu nguồn của con suối này rồi. Lại một thác nước, từ tầng bình đài thứ ba lẩn khuất trong sương mù chảy xuống, tựa như bị ngọn gió trên cao thổi tan, đến nơi đây chỉ còn một dòng nhỏ mong manh, chảy dọc theo những dây leo xanh biếc ngoằn ngoèo rỏ xuống, như thể một nàng tiên nữ đang gội đầu chải tóc. Cảnh đẹp như tranh, dường như khiến quả tim nặng nề co thắt lại của Trương Lập cũng thấy dần nhẹ nhõm.

Đá núi màu đỏ và cây rừng màu xanh xung quanh quây lại thành một hố trũng, bao bọc lấy một viên minh châu màu phỉ thúy, viên ngọc ấy cũng phản chiếu mọi cảnh vật xung quanh, gió thổi rì rào bên ngoài không thể nào cuốn vào trong. Nơi đây tựa như một cái chậu khổng lồ, những dòng khí lưu chầm chậm lưu động bên trong. Thế nhưng, đột nhiên, trong mắt Trương Lập, cảnh sắc tuyệt vời xung quanh đều nhòa đi không còn màu sắc, anh chàng trợn tròn mắt, há hốc miệng nhìn ra giữa hồ, thời gian dường như đứng lại, cả linh hồn bất giác cũng rời khỏi xác thân phàm tục bay ra ngoài.

Gặp gỡ Mã Cát

Trong hồ nước xanh biếc hoàn toàn thoát ly khỏi hiện thực ấy, một cô gái, không phải, một cô gái xinh đẹp tuyệt trần, cũng không phải, là một tiên nữ mới đúng, nàng tiên nữ ấy đang tắm! Cô xoay lưng về phía Trương Lập, chầm chậm đứng dậy trong làn nước. Mái tóc dài đen mượt mềm mại như tơ, giống như một tấm gấm lụa đen lớn khoác lên bờ vai nàng tiên nữ; làn da trắng muốt như dương chi bạch ngọc, chẳng khác nào một tác phẩm nghệ thuật tinh xảo hoàn mỹ, không thể tìm đâu ra một tì vết; những đường cong mềm mại quyến rũ, không biết bàn tay của vị thần nào đã phác nên những đường nét hoàn mỹ đến rung động lòng người như thế, khiến người ta chỉ thấy thật hết sức thích đáng, thêm một chút hay bớt một chút cũng đều không được.

Nàng tiên nữ khẽ lắc đầu, vô số hạt trân châu lóng lánh trong suốt bắn tung lên không trung. Mái tóc mượt, đôi mày ngài, chiếc mũi thon, làn môi đỏ thắm như chu sa, gương mặt lung linh, cùng đôi mắt sáng như hai vì sao rơi xuống, cặp lông mi hơi cong lên mang theo cả mấy hạt nước nhỏ li ti, toàn bộ đều lọt hết vào mắt Trương Lập. Tim anh ra sức đập dồn. “Thình thịch thình thịch thình thịch thình thịch thình thịch thình thịch...” Dẫu có đeo theo năm mươi ki lô gam đi liên tiếp không ngừng nghỉ hai mươi cây số, dù phải đối mặt với cả đàn gián vô số con, tim Trương Lập cũng chưa từng đập nhanh và mạnh đến thế lần nào. “Nếu được nhìn gần hơn một chút nữa thôi thì đời này chẳng còn gì hối hận nữa rồi. Nếu tiên nữ cùng mình chuyện trò một lúc thôi, thì dù sau đó có chết ngay lập tức cũng đáng lắm.” Trong đầu Trương Lập nghĩ thế, tự nhiên đưa tay lên gỡ thiết bị thông tấn gắn trước mắt xuống, chầm chậm nhích lên phía trước.

Hai tay tiên nữ khẽ giơ lên, cánh tay như ngó sen, mười ngón tay như mười cọng hành. Cô đứng yên, trời đất cũng như nhòa sắc, gió tự nhiên dịu dàng; cô cử động, động tác yêu kiều uyển chuyển mê hồn; cô hơi chau mày, cơn gió kia thổi làn nước biếc gợn lên những hàng sóng lăn tăn; đôi mắt cô sáng bừng, trời đất cũng như sáng bừng lên theo. Không cười cũng không giận, không hờn không dỗi, thế mà đôi mắt kia tựa như toát lên ngàn mối tơ tình. Trương Lập cách nàng tiên nữ mỗi lúc một gần hơn, càng nhìn càng thấy si mê, thậm chí nhất thời quên cả mình đang ở đâu, chân đứng không vững, “bịch bịch” một tiếng ngã lăn ra đất.

Mặt Trương Lập áp lên mặt đất lạnh lẽo, khóe miệng đã có máu rỉ ra, nhưng anh chẳng hề thấy đau chút nào, phản ứng đầu tiên của anh là, mình đang nằm mơ! Đúng vậy rồi, sau hơn một tháng trời quần thảo với các loại quái vật ở Shangri-la này, bỗng dưng lại gặp một đồng loại ở chốn đây, mà lại còn đẹp như thế này nữa, bất kể thế nào thì Trương Lập cũng không dám tin những gì trước mắt mình bây giờ là sự thực.

Thế nhưng, khi anh ngẩng đầu lên lần nữa, lại nhìn thấy nàng tiên đó đang khoan khoái vùng vẫy trong làn nước. Trương Lập bèn dụi mạnh hai mắt, rồi bấu mạnh vào má mình một cái, đau thật, cuối cùng cũng tin rằng mình đã trở thành nhân vật chính của một màn kỳ ngộ. Nhưng anh không hề phát hiện ra, ngay phía trên đầu mình, có một bóng đen khổng lồ đã lẳng lặng che phủ.

Đột nhiên, một làn hơi nóng phừng phả vào lưng Trương Lập, là gió sao? Trương Lập cảm giác không giống lắm.

Anh bèn ngoảnh đầu lại, hai mắt mở to, sém chút nữa là trợn lên chỉ còn tròng trắng. Một cái đầu to tướng gí sát trước mặt anh, cơ hồ mũi đã chạm vào mũi, cái đầu ấy, chắc trăm phần trăm không thể nhỏ hơn đầu một con voi châu Phi được. Cái gì vậy? Quái vật gì thế? Trương Lập nhảy dựng lên, ngã bổ ngửa về phía sau!

Lúc ngã ngửa ra, Trương Lập mới phát hiện, thì ra đó là một con thằn lằn cổ dài đã trưởng thành, họ đã gặp loài thú khổng lồ dài tới hơn ba chục mét này trong rừng rồi. Chúng là loài động vật hiền lành, chỉ ăn cỏ. Con thú khổng lồ tròn đôi mắt to tướng, tò mò quan sát kẻ lạ mặt. Trương Lập không biết lấy dũng khí ở đâu, vội đưa một ngón tay đặt lên môi, làm động tác ra hiệu không được lên tiếng. Nhưng cú ngã của anh đã làm kinh động đến nàng tiên nữ đang tắm trong hồ, chỉ nghe phía sau vang lên tiếng chất vấn. Trương Lập vội lén lút bò ra khỏi bãi cỏ như một con chuột. Bên tai còn loáng thoáng nghe thấy nàng tiên nữ ấy đang lớn tiếng nói gì đó, hình như đã nhìn thấy anh, nhưng đầu óc Trương Lập lúc này chỉ toàn những tiếng “ong ong ong”, máu trong cơ thể đều dồn cả lên đầu, tiếng gì cũng chẳng nghe rõ nữa rồi.

Trương Lập bò đến chỗ cách bờ hồ một khoảng khá xa, nơi này có lẽ an toàn rồi, chắc là không bị phát hiện đâu, anh thầm nhủ. Anh nằm lăn ra đất thở hồng hộc, nhịp tim vẫn chưa trở lại bình thường. Một đợt rung động nhè nhẹ bỗng làm Trương Lập giật bắn mình, giờ mới phát hiện ra đồng hồ nguyên tử đang rung lên, những người khác đã tìm đến đây rồi. Anh vội đeo lại thiết bị thông tấn, nhìn số liệu trên màn hình, họ đã đến rất gần rồi!

Trương Lập cuống hết cả lên, lòng dạ rối bời, không phải vì anh sợ mình bị phát hiện, mà là bởi trong cái đội này có quá nhiều “thành phần bất lương”, ngoài pháp sư Á La và hai cô gái, bốn người khác đều là phần tử nguy hiểm, đặc biệt là Cường Ba thiếu gia, Trương Lập đã liệt gã vào hạng phần tử khủng bố hàng đầu rồi.

“Trương Lập, không sao chứ? Sao lại gỡ thiết bị truyền tin xuống? Gọi mãi cũng không trả lời, còn tưởng anh bị quái thú ăn thịt mất rồi cơ đấy!” Giọng Nhạc Dương vang lên trong thiết bị. Trương Lập vừa bật thiết bị truyền tin lên, những người khác liền lập tức biết được vị trí của anh.

“Đâu... đâu có đâu! Tôi... tôi... tôi đang trinh sát!” Trương Lập bối rối đáp. Bấy giờ, bên dưới dốc đá hình tròn ấy đã thấy bóng dáng Trác Mộc Cường Ba xuất hiện. Trương Lập vội vàng xuống đón, anh chẳng mong muốn nàng tiên của mình bị bao nhiêu người nhìn thấy trong tình trạng đó.

“Cậu không sao chứ?” Thấy Trương Lập đi xuống, Trác Mộc Cường Ba mới yên tâm.

“Ối, tay anh bị thương rồi, có phải bị bọn gián kia làm bị thương không?” Đường Mẫn thoạt nhìn đã thấy vết thương chạy dài trên cánh tay Trương Lập.

“Hả? À, chắc là thế.” Chính Trương Lập cũng đã quên mất mình bị thương lúc nào, trong đầu lúc này chỉ nghĩ đến phía bên kia dốc, vừa liếc thấy Nhạc Dương đang định đi lên, vội vàng nói: “Đừng lên đó! Nguy hiểm!” Tuy rằng quan hệ của anh và Nhạc Dương xưa nay vốn rất tốt, có điều lúc này, Nhạc Dương tính ra cũng chỉ nguy hiểm kém Cường Ba thiếu gia một chút mà thôi.

“Sao thế? Trên đó có gì hả?” Nhạc Dương giật mình kinh ngạc, giọng nói cũng nhỏ hẳn đi.

Trương Lập giơ cánh tay bị thương lên cho Đường Mẫn kiểm tra, gương mặt lộ ra vẻ kinh hoảng: “Khủng khiếp lắm, đừng lên đó! Khủng khiếp lắm!”

Ba Tang và đội trưởng Hồ Dương gần như cùng lúc kiểm tra vũ khí trên tay, nếu có con quái thú nào bất ngờ xông ra, súng mà kẹt đạn thì cầm như chết chắc.

“Là thứ gì? Đáng sợ lắm à?” Lữ Cánh Nam nghiêm túc hỏi.

Đầu óc Trương Lập như một mớ bùng nhùng, chỉ biết hàm hồ đáp: “Tôi... tôi không biết, tóm lại là, đáng sợ lắm, khủng khiếp lắm!”

Mọi người đều biết, ở nơi này đích thực có rất nhiều loài quái thú không thể chỉ dùng một hai câu mà có thể hình dung được. Nhìn vẻ mặt hoảng hốt bấn loạn của Trương Lập, bọn Trác Mộc Cường Ba đã bắt đầu nghĩ xem có nên lùi lại đi vòng đường khác hay không rồi.

“Chẳng lẽ, còn kinh khủng hơn cả bọn thằn lằn khổng lồ à?” Trong trí nhớ của Nhạc Dương, lần gặp phải con thằn lằn khổng lồ đó rõ ràng là chuyện khủng khiếp nhất.

“Còn đáng sợ hơn cả trăm lần!” Trương Lập đã bắt đầu nói năng lung tung.

“Thế so với bọn muỗi kia thì sao?” Đối với Đường Mẫn, lũ muỗi cỡ đại tướng ấy mới là những sinh vật đáng sợ nhất, xấu xí nhất.

“Làm sao mà so sánh được!” Trương Lập thầm nhủ trong lòng, nhưng ngoài miệng lại nói: “Còn ghê hơn lũ muỗi ấy cả vạn lần!” Miệng thì nói vậy, trong đầu anh lại cứ nghĩ về cảnh tượng lúc nãy vừa mục kích, nói một hồi, bỗng cảm thấy có hai dòng chất lỏng nong nóng chảy phía trên môi.

“Ủa! Anh chảy máu mũi kìa!” Nhạc Dương chỉ vào mặt Trương Lập nói.

Trương Lập đưa ngón tay lên quẹt, máu trong người vẫn nóng phừng phừng, sôi sùng sục, đành nghiến răng nói bừa: “Lợi hại chưa, tôi mới chỉ nhìn một cái đã sợ đến chảy cả máu mũi rồi! Tôi thấy, tốt nhất cứ đi vòng qua thì hơn.” Nói thì nói vậy, nhưng trên mặt anh chàng lại lộ ra vẻ lưu luyến không nỡ rời đi.

Đột nhiên, Trương Lập bỗng cảm thấy không khí có gì đó không ổn lắm, đến cả Đường Mẫn cũng ngừng việc rửa vết thương lại, trong mắt những người khác hiện lên một vẻ kỳ quái mà mình không sao hiểu nổi, tuồng như trước là kinh ngạc, sau đó là chăm chăm nhìn mình với ánh mắt nghi hoặc, rồi tựa hồ sực ngộ ra đạo lý gì đó, cuối cùng thì những ánh mắt ấy đều lộ ra vẻ coi thường, giễu cợt.

Trương Lập nắc nỏm bất an ngoảnh đầu lại, lập tức hồn xiêu phách lạc, chỉ thấy nàng tiên đó đã mặc lại quần áo, đang đứng phía trên dốc đá nhìn họ với ánh mắt dò xét. Mái tóc búi lên kia vẫn còn nhỏ nước, quần áo mặc vội trong lúc cuống quýt vẫn chưa buộc gọn gàng, với sự tinh minh của đám người này, dẫu có dùng mông để suy luận, cũng biết rõ mười mươi vừa nãy Trương Lập đã làm gì.

“Hừ, đáng sợ hơn thằn lằn khổng lồ một trăm lần hả!” Lữ Cánh Nam hờ hững nói. Gương mặt Trương Lập tức thì biến thành một quả cà chua chín nục, cả hai tai đều nóng bừng lên như bị lửa đốt.

Chỉ nghe nàng tiên ấy cất tiếng hỏi: “Các vị là... người Hạ Qua Ba à?” Tiếng Tạng cổ tiêu chuẩn, giọng nói trong veo ấy làm người ta nghĩ đến những vụn băng ngày đầu xuân. Cô thầm nhủ: “Làm sao thế được nhỉ? Nhìn phục sức của họ, đích thực không phải kiểu của người Hạ Qua Ba, nhưng mà, trên lưng họ đeo gì thế nhỉ? Mình chưa bao giờ thấy kiểu gùi nào như thế. Vả lại, người Hạ Qua Ba không phải bị tiêu diệt hết rồi sao? Đã bao nhiêu năm rồi không có ai từ dưới đó lên nữa. Địch ô trong thôn nói, những người băng qua được rừng Xương Trắng, ai cũng đều là dũng sĩ cả.”

Lòng Trương Lập lúc này thật hoan hỉ không biết nên nói sao cho phải, không ngờ có thể nghe hiểu được! Không ngờ lại hiểu được lời tiên nữ ấy nói! Anh vội vội vàng vàng hấp tấp chạy vụt lên, lắp ba lắp bắp gượng gạo nói: “Chúng tôi... chúng tôi ở bên dưới lên.” Miệng thì nói, tay thì khua loạn xạ, trình độ tiếng Tạng cổ của anh cao nhất cũng chỉ đến mức ấy. Mặc dù pháp sư Á La có thể nói tiếng Tạng cổ rất lưu loát, nhưng Trương Lập không hề có ý định để ông lên tiếng một chút nào.

Nàng tiên ấy thoáng ngây ra, tựa như phải nghĩ ngợi giây lát mới lĩnh ngộ được những gì Trương Lập nói. Trương Lập vừa liếc thấy đám người bọn Trác Mộc Cường Ba đều tiến về phía này, lại vội vàng bổ sung thêm: “Cái này... cái kia... vừa nãy... bí mật! Bí mật!” Ấp a ấp úng mãi, mới tìm được từ ngữ muốn biểu đạt. Lần này thì nàng tiên kia có vẻ đã hiểu, nhìn anh chàng mặt mũi đỏ bừng bừng, tay chân luống cuống trước mặt, khuôn mặt cô cũng hơi ửng hồng, nhưng chỉ thoáng sau đã trở lại bình thường. Từ trên cao cô nhìn chằm chằm xuống mặt Trương Lập. Mặc dù không nói gì, nhưng vẻ mặt ấy đã rất rõ ràng: “Thì ra chính là anh!” Ánh mắt ấy của cô làm trống ngực Trương Lập cứ đập lên thình thịch.

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đã lại gần, nàng tiên đó liền hỏi lại câu vừa nãy Trương Lập vẫn chưa trả lời trực tiếp: “Người Hạ Qua Ba à?” Ánh mắt đầy vẻ nghi hoặc.

Pháp sư Á La chắp tay trước ngực đáp: “Chúng tôi từ bên ngoài tới. Bộ tộc Hạ Qua Ba mà cô nương nói, phải chăng là thôn làng hoang phế ở tầng bên dưới? Thật đáng tiếc, trong thôn đã không còn sinh linh nào nữa rồi?”

Đôi mắt trong veo như nước của nàng tiên ấy tức thời sáng bừng lên, hân hoan nói: “Ở bên ngoài? Các vị từ bên ngoài tới à!” Tiên nữ vừa nở nụ cười, Trương Lập bỗng cảm thấy trên cánh đồng hoang trong tâm hồn mình lập tức nở đầy những bông hoa nhỏ đủ sắc màu rực rỡ. Lữ CánhNam lấy làm kỳ lạ, cô bé này sao mà biết được sự khác biệt giữa bên trong và bên ngoài nhỉ?

“Con vật to quá! Bạn nuôi hả?” Tiếng Tạng cổ của Đường Mẫn rõ là giỏi hơn Trương Lập nhiều, cô là người đầu tiên trông thấy con thằn lằn cổ dài khổng lồ đang nằm phục phía sau nàng tiên đó. Mà sự thực là, người nào trong nhóm này cũng giỏi tiếng Tạng cổ hơn Trương Lập rất nhiều, ít nhất là muốn nói chuyện bình thường với Mã Cát cũng đều không có vấn đề gì.

“Chị hỏi Thủ hộ linh của em à? Nó tên là Cường Ba, Long Ba Cường Ba. Em tên là Mã Cát. Mọi người từ bên ngoài đến thật đấy à?” Vẻ mặt Mã Cát đầy vẻ ước ao chờ đợi.

“Sặc!” Nhạc Dương không nhịn được phải len lén phì cười. Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam cũng đều mím chặt môi. Thật không ngờ, con vật to bự đại tướng này cũng tên là Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba thì ngước mắt lên nhìn con thú khổng lồ, con Cường Ba này còn giống “Cường Ba” hơn gã nhiều. Chỉ có Trương Lập là trợn tròn mắt lên, lớn tiếng hỏi: “Mã... Mã... Mã Cát? Mã Cát A Mễ? Cô... cô tên là Mã Cát A Mễ hả?”

Mã Cát lộ vẻ kinh ngạc, rồi ngay sau đó trên gương mặt lập tức xuất hiện nét ngượng ngùng xấu hổ: “Sao... sao anh biết tên người ta?” Bộ mặt ngây thơ hoàn toàn không có chút gì giả tạo ấy khiến Đường Mẫn cũng phải cảm thấy hổ thẹn không bì được.

“Ừm, chúng ta vừa đi vừa nói được không. Mã Cát, cô sống ở gần đây à?”

Trò chuyện với Mã Cát, họ biết thêm rằng, thôn làng của cô tên là Công Nhật Lạp, hiển nhiên chính là ngôi làng Công Nhã Lạp trong bản dịch của pháp sư Á La. Như vậy có nghĩa là, họ đã đến vùng gần với trung tâm của tầng bình đài thứ hai. Hiện giờ thôn Công Nhật Lạp có khoảng hơn hai trăm hộ, sống nhờ chăn nuôi và trồng trọt. Phía Đông thôn làng vốn còn một làng khác tên là Cường Nhật, nhưng giờ đã bị bỏ hoang, Công Nhật Lạp nay trở thành thôn làng nằm gần rừng Xương Trắng nhất. Có lẽ trong tương lai không xa, họ cũng phải dời cả thôn làng, tránh xa khỏi khu rừng Xương Trắng nguy hiểm, nơi này rồi sẽ hoàn toàn trở thành lãnh địa của bọn quái thú. Còn các vấn đề lịch sử chẳng hạn như, tại sao trước đây trong rừng lại có nhiều thôn làng như thế, vì cớ gì mà giờ đã bỏ hoang gần hết, quan hệ giữa họ và bộ tộc Qua Ba như thế nào... thì Mã Cát đều không trả lời được. Nhưng theo lời cô, thì Địch ô đại nhân trong thôn chắc chắn có câu trả lời, bởi vì chuyện gì Địch ô đại nhân cũng biết hết.

Dọc đường, Mã Cát cũng hỏi rất nhiều chuyện về thế giới bên ngoài, tỷ như bên ngoài rộng lớn nhường nào, cảnh sắc ra sao, trời xanh mây trắng trông như thế nào, chuyện gì cô cũng thắc mắc.

Những câu hỏi này thực không dễ trả lời chút nào. Sự thực là, pháp sư Á La quen nói những lời thấm đẫm thiền cơ, một lời đa nghĩa. Nhưng lúc này lại phải miêu tả một thế giới rộng lớn bao la với bao điều kỳ lạ cho một thiếu nữ xưa nay vốn vẫn nhìn bầu trời qua miệng giếng như Mã Cát, vậy nên vai trò người đối thoại liền đổi sang cho Trương Lập nãy giờ vẫn mong ngóng từ lâu. Có điều, đối với Mã Cát, những câu trả lời ngọng nghịu, lắp ba lắp bắp của Trương Lập, đúng là càng dễ khiến cô gợi được nhiều liên tưởng hơn.

Trương Lập nhìn đôi mắt to tròn biết nói ấy, quả tim đập lạc cả nhịp, lúc nhanh lúc chậm. Được Lữ Cánh Nam gợi ý, Trương Lập mới hỏi Mã Cát, tại sao cô không hề ngạc nhiên khi gặp những người từ bên ngoài đến như bọn họ?

Câu trả lời của Mã Cát làm tất cả đều giật nảy mình: “Bởi vì thường hay có người bên ngoài đến mà.”

Người Lỗ Mặc

Nếu nói có chuyện gì khiến bọn Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên, thì câu trả lời của Mã Cát chắc chắn được xem là một trong số đó, dù bây giờ Bạc Ba La thần miếu có bất thình lình xuất hiện trước mặt cũng chẳng khiến họ ngạc nhiên đến thế được. Dẫu sao thì, từ khi bắt đầu công cuộc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu tới giờ, họ vẫn luôn cho rằng, mình là đội ngũ duy nhất thành công đặt chân đến Shangri-la này. Dù có gặp được thi thể của những nhà thám hiểm đi trước, họ cũng chỉ cho rằng đó chẳng qua chỉ là những kẻ thất bại, vừa đặt chân đến đây hoặc thậm chí là còn chưa đặt chân xuống đất đã chết tiệt hết cả rồi. Nhưng giờ nghe như Mã Cát nói, không chỉ có người hiện đại đến được nơi này mà vẫn còn sống, chẳng những vậy, còn khá thường xuyên nữa, chứng tỏ rằng những người đã đến đây cũng không phải là ít! Cảm giác vượt trội và niềm vui sướng ban đầu lập tức tan biến thành mây khói.

“Mã Cát, cô nói họ từ bên ngoài đến à, có chắc vậy không? Cô biết bên ngoài nghĩa là như thế nào chứ?” Lữ Cánh Nam không cam tâm hỏi.

“Ưm.” Đôi mắt biết nói ấy của Mã Cát lại một phen khiến Trương Lập hồn xiêu phách lạc. “Họ toàn tới bằng những cái nấm khổng lồ biết bay. Nhưng người leo từ tầng dưới lên, lại băng qua rừng Xương Trắng như mọi người thì đây mới là lần đầu tiên em gặp đấy.”

Pháp sư Á La nói: “Như chúng tôi thì cháu mới gặp lần đầu tiên, lẽ nào cháu đã gặp những người bên ngoài bay đến bằng cái nấm khổng lồ rồi?”

Mã Cát tỏ vẻ đắc ý, cười hì hì nói: “Đương nhiên, năm mười tuổi cháu đã gặp một chú đến từ bên ngoài kia rồi mà. Địch ô đại nhân trong thôn nói, chú Đa La bay đến bằng một cây nấm lớn, nhưng bị ngã gãy chân, chẳng đi đâu được cả. À, chú ấy cao lắm, cao như cái chú này này.” Mã Cát chỉ vào Trác Mộc Cường Ba, nói tiếp: “Nhưng tóc chú ấy màu vàng, mắt màu xanh, mũi nhọn hoắt, cháu còn tưởng người bên ngoài kia đều như vậy cơ. À, chú ấy nói không sõi như mọi người đâu, nhưng cháu vẫn hiểu được, giống như anh Trương Lập ấy.” Mặt Trương Lập lại đỏ bừng lên, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, tên của Cường Ba thiếu gia cô còn chẳng nhớ, vậy mà lại nhớ được tên của mình.

Về điểm này thì pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đều không có gì nghi hoặc, những người nghiên cứu Bạc Ba La thần miếu, ít nhiều đều có nghiên cứu về tiếng Tạng và tiếng Phạn cổ. Pháp sư Á La lại hỏi tiếp: “Thế người đó đã nói gì với cháu rồi?”

Mã Cát nói: “Cháu nhớ tên của chú Đa La đó rất cổ quái, cái gì mà Đa La Cách Phúc hay là Đa La Cách Ngúc gì đấy. Chuyện mà chú ấy nói nhiều nhất là, vương quốc của chú ấy sắp đưa một khối sắt to lên cao ơi là cao, đến gần cả mặt trăng ấy, hình như có một vương quốc nào đấy tên là... tên là... Ai Mê Ni Ca (America) cũng chưa làm được đâu. Chú ấy còn bảo, ở bên ngoài, chỉ cần trời không mưa thì ngày nào cũng có thể nhìn thấy mặt trăng, không giống như ở nơi này, có khi cách mấy tháng trời mặt trăng mới ló rạng một lần.” Nói tới đây, Mã Cát cụp hàng lông mi cong cong xuống. Trương Lập cảm tưởng như có quả chùy đập mạnh vào ngực mình, chỉ muốn nhào tới ôm Mã Cát vào lòng, nói với cô: anh có thể dẫn em ra ngoài kia ngày ngày ngắm trăng, đếm sao trời.

Pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn nhau, vậy là có thể xác định rồi, khoảng thập kỷ năm mươi sáu mươi của thế kỷ trước, người Liên Xô, có thể là cán bộ tình báo cấp cao, bằng không chắc không thể biết được chuyện vệ tinh sắp được phóng lên quỹ đạo. Lúc Mã Cát gặp ông ta, người đó chắc đã sống ở Shangri-la này hai ba chục năm rồi, tiếng Tạng cổ của ông ta có lẽ cũng là về sau này mới học.

“Mã Cát, vậy cô còn gặp những người đến từ bên ngoài khác không?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Mã Cát lắc lắc đầu đáp: “Hết rồi, có điều hồi nhỏ cháu nghe người lớn trong thôn nói, ở thôn Phá Nhật, thôn Thác Nhật, cả bên vương quốc Yaca nữa, đều có người bên ngoài đến cả.”

“Mã Cát, cô nói thêm về chú Đa La ấy được không, chúng tôi muốn biết thêm nhiều chuyện về chú ấy nữa.” Lữ Cánh Nam dịu dàng nói. Họ thực sự cần biết thêm thông tin về thực lực cũng như kết cục cuối cùng của những kẻ ngoại lai ấy. Tại sao lại không có một chút tin tức nào về những người đó? Chẳng lẽ toàn bộ bọn họ đều sống nốt quãng đời còn lại của mình ở Shangri-la này hay sao?

“À.” Trước khi nói gì, Mã Cát đều thích nghiêng đầu nghĩ ngợi, khi ấy đôi mắt cô đều sáng rỡ lạ thường. “Hồi trước em không biết chú Đa La là người ở bên ngoài tới, vì chú ấy bị thương nên suốt ngày chỉ ở trong nhà của Địch ô đại nhân, ít khi ra ngoài lắm. Em có đến gian phòng ấy rồi, lần nào cũng thấy chú Đa La làm gì đấy với một cái hộp vuông. Chú ấy dùng khoai tây, với một ít đất bùn và mấy mảnh sắt và dây sắt liền có thể làm rất nhiều thứ sáng bừng lên, lại còn kéo ra một sợi dây sắt dài ơi là dài nữa.”

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn nhau cười cười... thiết bị phát sóng điện, kết quả hiển nhiên là đã làm ông chú Đa La kia rất thất vọng. Nhưng việc lợi dụng các nguyên tố hiếm trong đất bùn và khoai tây cộng với sắt để phát điện thì rõ ràng đã khiến cô thiếu nữ này cảm thấy hết sức thần kỳ, vì vậy ấn tượng lưu lại trong cô cũng vô cùng sâu đậm.

Mã Cát tiếp tục nói: “Mỗi lần em đến, chú Đa La đều kể nhiều chuyện lắm, toàn là chuyện bên ngoài cả, có nhiều thứ em chẳng hiểu gì cả...” Kế đó, Mã Cát liền kể ra đủ thứ chuyện thần kỳ ở thế giới bên ngoài. Chắc rằng đây là điểm mà cô kính phục ông chú tên là Đa La đó nhất, nhưng những chuyện ly kỳ hấp dẫn mà cô kể, đối với đám người đến từ thế kỷ hai mươi mốt này, rõ ràng là đã quá lạc hậu mất rồi.

“Ừm, Mã Cát này...” Sau khi Mã Cát kể ra một loạt các kỹ thuật lạc hậu từ thập niên năm mươi sáu mươi của thế kỷ trước, cuối cùng pháp sư Á La cũng không kìm được cất tiếng ngắt lời cô: “Những chuyện thần kỳ ấy, chắc hẳn nhất thời cũng khó mà nói hết được đúng không.”

“Vâng ạ.” Mã Cát phấn khởi nói. “Chú Đa La kể nhiều chuyện lắm, nói mấy ngày cũng chẳng hết ấy chứ.”

“À, vậy thì, những chuyện ấy để lại sau mới kể được không? Có thể cho tôi biết, chú Đa La đó về sau đã đi đâu rồi không?” Pháp sư Á La nở một nụ cười hiền hậu, Trương Lập thì chỉ thấy lúc này pháp sư thật là giả dối hết sức.

“Ồ.” Sắc mặt Mã Cát liền trở nên ảm đạm, thầm nhủ, lúc trước khi mình kể chuyện này với các bạn nhỏ trong thôn làng, ai nấy cũng đều thích thú lắm cơ mà, sao những người này... à, phải rồi, họ cũng ở bên ngoài đến đây, trong mắt họ, những câu chuyện của mình cũng bình thường chẳng khác nào trâu bò ăn cỏ, Mã Cát ăn bánh bột mỳ Thanh Khoa vậy thôi.

Trương Lập thấy thế thì đau lòng lắm, thật chỉ muốn vươn tay ra vuốt ve gương mặt ấy để an ủi, mà sự thật là anh đã không tự chủ nổi mình, lập tức vươn tay ra vuốt khẽ lên má Mã Cát: “Không sao, anh... sau này... về sau... sẽ kể... kể cho em... nhiều nữa... bên ngoài... nhiều nữa...” Nói dứt lời, anh mới thấy kinh ngạc trước hành động của chính mình, tựa hồ cơ thể không còn chịu sự khống chế của bộ não nữa rồi vậy. Cũng may là những người khác dường như đều không để ý lắm. Mã Cát nghe lời hứa của Trương Lập cũng vui vẻ trở lại, có điều, ở trước mặt nhiều người, nên cũng không tiện reo lên, nhưng nụ cười bằng mắt ấy, Trương Lập có thể cảm nhận được.

“Chú Đa La luôn ở trong nhà Địch ô đại nhân, chú ấy và Địch ô đại nhân là bạn tốt của nhau. Về sau, khi biết thời gian của mình trên thế giới này không còn nhiều nữa, Địch ô đại nhân bèn hợp nhất linh hồn với chú Đa La, không bao lâu sau, họ đã phi thăng lên theo thang trời.” Mã Cát đã hồi phục tâm trạng vui vẻ thoải mái, tiếp tục kể.

“Hợp nhất linh hồn? Phi thăng? Đó là gì thế?” Bọn Trương Lập, Nhạc Dương đều thấy như đang nghe chuyện thần thoại. Riêng Trác Mộc Cường Ba thì cứ có cảm giác dường như đã nghe nói đến điều gì đó tương tự ở đâu rồi, nhưng ký ức của gã về chuyện này lại hết sức mơ hồ. Pháp sư Á La thầm nhủ: phi thăng thì dễ lý giải rồi, nhưng còn “hợp nhất linh hồn”, hình như không có điển tịch nào từng ghi chép về nghi thức này thì phải.

Mã Cát cũng lộ vẻ ngạc nhiên nhìn bọn họ, những người này chắc không đến nỗi không biết phi thăng là gì đấy chứ, người nào đến cuối cùng mà chẳng phi thăng, cả chuyện linh hồn hợp nhất cũng rất bình thường mà. Nghĩ đoạn, cô bèn giải thích: “Hợp nhất linh hồn, tức là, tức là chỉ Địch ô đại nhân và chú Đa La, trong người này có người kia, trong người kia lại có người này.”

“Trong người này có người kia, trong người kia lại có người này! Lẽ nào Địch ô là phụ nữ, hay là...” Nhạc Dương vẫn chưa hiểu lắm.

Nhìn ánh mắt có vẻ vẫn chưa hiểu của những người này, Mã Cát càng bối rối, lại giải thích tiếp: “Đơn giản lắm mà, tức là linh hồn của Địch ô đại nhân và chú Đa La, hợp nhất làm một, dung hợp lại với nhau ấy. Chỉ có những người bạn thân thiết nhất mới được như vậy thôi, sau khi hợp nhất linh hồn thì dù đi tới đâu họ cũng ở bên nhau, kể cả lúc phi thăng cũng thế.”

Những người khác vẫn chưa hiểu, nhưng Trác Mộc Cường Ba thì bỗng lộ vẻ kinh hoảng, gã đột nhiên nhớ lại một chuyện Sean kể với mình: “Những bộ tộc ăn thịt người sùng bái niềm tin linh hồn và nhục thể hợp nhất cho rằng... linh hồn con người mãi mãi gắn liền với thể xác, không thể nào tách lìa nhau được, khi ăn thịt một người, linh hồn người đó sẽ vĩnh viễn gắn liền với mình, vĩnh viễn ở bên mình. Vì vậy, khi họ coi anh là bạn, không muốn phân ly với bạn bè, vậy thì phương pháp tốt nhất, chính là xơi tái luôn người bạn ấy. Bọn họ cho rằng, đặt người bạn tốt nhất, tôn quý nhất vào bụng mình, đó mới là cách thể hiện cao nhất của tình bạn...” Lẽ nào nơi họ sắp tới đây lại là... Trác Mộc Cường Ba không dám nghĩ tiếp. Gã len lén dùng tiếng phổ thông hỏi Lữ Cánh Nam: “Có từng nghe nói đến những bộ tộc ăn thịt người sùng bái linh hồn và nhục thể hợp nhất không?”

Lữ Cánh Nam giật mình chấn động, cô đã hiểu ngay Trác Mộc Cường Ba muốn nói gì rồi. Cô lại chuyển lời ấy cho pháp sư Á La, pháp sư ngây ra mất khoảng hai giây, kế đó lại nói với đội trưởng Hồ Dương, đội trưởng Hồ Dương đang định báo cho Ba Tang biết, thì bỗng nghe trong rừng phía trước vang lên âm thanh tựa như tiếng tù và. Mã Cát tái mặt, vội nắm lấy vạt áo Trương Lập thốt lên: “Chạy mau lên, người Lỗ Mặc đấy!” “Người Lỗ Mặc?” Trương Lập và pháp sư Á La đều cảm thấy danh xưng này nghe rất quen thuộc. Mọi người còn chưa kịp phản ứng gì, Mã Cát vừa mới xoay người, đã thấy trong rừng có hai cái đầu ló ra, “Chúng ta đã bị bao vây rồi! Bọn chúng, bọn chúng đã xâm lấn đến tận đây rồi ư?”

Cái đầu mọc đầy vẩy, cặp mắt xanh ngọc ẩn bên dưới lông mày gồ cao, hàm răng nhọn hoắt lộ ra bên trong cái miệng khép hờ, đó đâu phải người ngợm gì, mà rõ ràng chính là bọn thằn lằn nhỏ hung dữ kia.

Trước mắt họ là hai con thằn lằn vận chuyển, cao khoảng từ một mét bảy đến hai mét, chiều dài cơ thể áng chừng từ hai mét rưỡi tới ba mét, chi trước nhỏ mà ngắn, chia làm ba ngón, chi sau to khỏe mạnh mẽ, sau lưng kéo theo một cái đuôi dài to tướng. Bỗng nhiên nhìn thấy nhiều người như vậy, hai con thằn lằn vận chuyển liền nhìn nhau một cái, miệng khẽ gầm gừ phát ra âm thanh như tiếng tù và, ánh mắt ấy rõ ràng không phải của loài dã thú.

Lữ Cánh Nam cả kinh thốt lên: “Bọn chúng đang trao đổi!”

Tám người nhích dần quây lại thành hình tròn, bảo vệ Mã Cát ở giữa. Nhạc Dương thấp giọng thì thào: “Sống quần cư, tay chân linh hoạt, anh Sean đã bảo rồi, bọn chúng đã tiến hóa không thua kém gì tổ tiên loài người một vạn năm trước đâu.” Những ngày này, để sinh tồn ở nơi đây, họ đều không dám lơ là việc nghiên cứu tìm hiểu thêm tư liệu về các loài sinh vật.

“Ùa gừm...” một con thằn lằn bỗng bất thình lình nhảy tót sang hướng khác. Ba Tang và đội trưởng Hồ Dương đều không chút nể nang nổ súng luôn, con thằn lằn vận chuyển ấy rơi bịch xuống từ trên không trung, làm dấy lên một màn bụi mù trước mắt họ.

“Ù...” lại một âm thanh tương tự như tiếng tù và, hai con thằn lằn vận chuyển xuất hiện trước mặt bọn Trác Mộc Cường Ba phát ra tiếng kêu cảnh cáo, rồi nhanh chóng rút lui vào rừng sâu. Liền ngay sau đó, cây cối ở các phía trái, phải, sau lưng cùng lúc lay động, chốc chốc lại có tiếng “tù và” cất lên chỗ này chỗ kia. Mã Cát khẽ run lên nhè nhẹ, rõ ràng là đang vô cùng sợ hãi.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Có vẻ chúng ta bị bao vây rồi, cẩn thận bọn thằn lằn lính đấy!”

Nhạc Dương thắc mắc: “Tại sao lại để một lối thoát phía trước nhỉ?”

Lữ Cánh Nam nói: “Bọn chúng muốn lùa chúng ta vào bẫy đó mà, hừ, đừng hòng được như ý! Lên cây!” Vừa dứt lời, cổ tay cô đã vung lên, dây móc bắn vút ra, Lữ CánhNam nhẹ nhàng đu người lên như cánh én chao liệng trong mưa xuân. Những người khác cũng đều lần lượt bắn dây móc, tản ra bốn phía. Mã Cát nhìn cảnh tượng ấy mà trợn tròn mắt, giọng nói trong trẻo cất lên: “Ồ, biết bay à!”

Trương Lập nhìn cô, cố nén trái tim đập loạn nhịp xuống, nói: “Anh đưa em bay lên nhé, có sợ không?”

“Ưm.” Mã Cát chớp chớp mắt nhìn chằm chằm vào Trương Lập, khẽ cắn môi dưới, rồi kiên định lắc đầu.

“Tốt lắm, vậy ôm chặt anh vào nhé, không được buông tay đâu đấy.” Trương Lập vốn muốn ôm eo Mã Cát, nhưng lại thoáng sợ rằng chiếc eo thon nhỏ nhắn ấy sẽ gãy liền, anh liền hơi nhún người xuống, để Mã Cát leo lên lưng mình. Mã Cát thẹn thùng nghiêng đầu dựa vào vai Trương Lập, hai tay ôm chặt cổ anh, cổ hai người áp sát vào nhau. Trương Lập vung lên, chạy đà mấy bước, rồi thân thể đu lên theo sợi dây móc vừa bắn ra.

Mắt Mã Cát mở to, miệng khẽ há ra như thể muốn kêu lên kinh hãi nhưng lại không dám thốt ra thành lời, tựa như không dám tin đây là sự thật. Không ngờ có một ngày mình có thể bay lên như vậy, tuy rằng không được cao lắm, nhưng cảm giác ấy, trải nghiệm ấy, sao có thể nào quên được.

Trương Lập ngoái đầu nhìn giai nhân, Mã Cát rất nhẹ, gần như không cảm giác được trọng lượng của cô. Được tiếp xúc với người trong mộng ở cự ly gần như thế, thực khiến anh chàng hân hoan muốn phát điên lên. Vừa khéo lúc ấy Mã Cát cũng đưa mắt sang, bốn mắt nhìn nhau, cô nhoẻn miệng cười thật tươi, cây cối và mãnh thú xung quanh tức thì tan biến vào không khí, trước mắt Trương Lập chỉ còn mỗi nụ cười ngọt ngào của Mã Cát. Anh cảm giác như thân thể mình đang lơ lửng trên mây, ở nơi mềm mại nhất trong cõi lòng, tựa hồ có một chú mèo nhỏ đang vươn bàn tay ra, khe khẽ gãi một cái, rồi lại gãi thêm cái nữa, cảm giác tê dại mà chấn động đó, suýt chút nữa khiến cả hai ngã bịch xuống đất.

“Trương Lập, hỏi xem thôn làng của cô ấy có an toàn không?” Câu hỏi của Lữ Cánh Nam kéo Trương Lập xuống khỏi tầng mây. Nguy hiểm quá, suýt chút nữa là đập thẳng mặt vào thân cây lớn rồi, anh vội thu ánh mắt khỏi nụ cười duyên dáng của Mã Cát, chuyên tâm vào sợi dây móc gắn ở tay.

“Mã Cát, lũ thằn lằn này, à không, những ‘người Lỗ Mặc’ này, bọn chúng có tấn công thôn làng của em không?” Trương Lập hỏi. Lúc này anh đã nhớ lại rồi, loài thằn lằn này, rất có thể chính là “người Lỗ Mặc” trong bản dịch của pháp sư Á La. Trong tư liệu tìm được ở thôn Công Bố có chép rằng, người Lỗ Mặc giống như một dạng quân du kỵ trong rừng, phạm vi săn bắt rất rộng, đi đâu cũng thành một nhóm lớn.

Mã Cát chỉ tròn mắt lên nhìn cây rừng đang giật lùi về phía sau, gió thổi vù vù vù vù bên tai, không nghe thấy Trương Lập nói gì. Mãi tới khi Trương Lập nhắc lại đến lần thứ ba, cô mới nói: “Làm gì có chứ, quanh thôn làng đều có cạm bẫy chuyên dùng để đối phó với chúng đấy.”

“An toàn, có bố trí bẫy bắt thú.” Trương Lập trả lời.

“Bảo Mã Cát dẫn chúng ta về làng, cậu đi trước dẫn đường, chúng tôi theo sau. Cẩn thận đấy! Đừng sướng quá mà quên hết mọi sự trên đời!” Giọng Lữ Cánh Nam nghiêm lạnh, nhưng Trương Lập nghe mà mừng thầm trong bụng, rõ ràng là giáo quan đang cổ vũ mình.

“Đàn thằn lằn này có khoảng ba chục đến bốn chục con, bọn chúng đuổi phía sau rát lắm, có cần tiêu diệt không?” Nhạc Dương hỏi.

Lữ Cánh Nam đáp lại: “Cố gắng tiết kiệm đạn dược, đối phó với bọn này chỉ cần dùng bẫy là đủ rồi.”

“Đã hiểu.”

“Mã Cát, bọn chúng cũng giống Thủ hộ linh của em mà, sao lại gọi là ‘người Lỗ Mặc’?” Trương Lập không sao kìm nén nổi cảm giác cứ muốn nói gì đó với Mã Cát.

“Người Lỗ Mặc thì là người Lỗ Mặc mà, chúng là người Lỗ Mặc có chân, người Hạ Qua Ba đều gọi chúng như thế mà. Vả lại, người Hạ Qua Ba còn nói, những động vật khác mỗi loài ở một nơi trong rừng, chỉ có người Lỗ Mặc là đi khắp nơi, từ phía Đông sang phía Tây, tới chỗ nào là ăn ở chỗ đó, rất nhiều thôn làng đã bị chúng tấn công súc vật rồi đấy.” Hơi thở Mã Cát phả vào bên tai thơm như mùi hoa lan, Trương Lập hân hoan hưởng thụ cảm giác ấy.

Trác Mộc Cường Ba nói với Trương Lập: “Lỗ Mặc là một loại tinh linh đầu người mình rắn trong Mật giáo, trong giáo lý Mật giáo, chúng là chúa tể của mọi động vật, bọn thằn lằn ấy ngoài hai cái chân ra, thì trông cũng khá giống đầu người mình rắn mà, hiểu chưa hả?”

“Ồ.” Trương Lập rốt cuộc cũng hiểu được phần nào, rồi ngay tức thì lại nhớ ra gì đó, giở giọng trách móc Mã Cát: “Làng ở xa cái hồ đó như vậy, sao em lại một mình chạy đến chỗ ấy làm gì chứ! Em không sợ đám ‘người Lỗ Mặc’ kia à?”

Mã Cát lúng búng đáp: “Hồi trước làm gì có người Lỗ Mặc đến chứ, người ta vẫn thường ra đó, có bao giờ thấy quái thú nào đâu, mỗi lần này gặp phải anh thôi.” Nói đến phía cuối, giọng cô đã nhỏ như tiếng muỗi, bất giác lại nhớ tới lời tiên đoán của Địch ô đại nhân dành cho mình: “Người trong số mạng cô sẽ xuất hiện nơi có nước...”

“Sau này không được tự đi đến đó nữa đâu đấy...” Trương Lập đã coi Mã Cát như em gái mình, hết sức tự nhiên nói ra như thế.

“Người ta biết rồi.” Mã Cát dường như rất nghe lời.

Trương Lập còn đang định nói gì đó nữa, bỗng nghe Nhạc Dương hỏi: “Mã Cát có nói đến người Hạ Qua Ba, có thể cô ấy đã gặp họ rồi. Thử hỏi về người Hạ Qua Ba xem.” Miệng Mã Cát rất gần microphone trên thiết bị thông tấn, nên những người khác đều có thể nghe thấy.

Trương Lập thầm mắng Nhạc Dương không biết chọn thời điểm, nhưng vẫn hỏi: “Mã Cát, em đã gặp người Hạ Qua Ba bao giờ chưa?”

“Ưm, hồi nhỏ em gặp rồi. Người Hạ Qua Ba giống như là Thủ hộ linh của các thôn làng vậy, họ thường xuyên băng qua tất cả rừng rậm trên tầng thứ hai này, hình như đang tìm thứ gì đó, về sau rất hay đến làng em. Mãi cho đến hai năm trước, lúc ấy họ đã không ghé qua làng em ba bốn năm rồi, mới có tin lan đến bảo rằng, người Hạ Qua Ba chọc giận người Thượng Qua Ba, bị tiêu diệt cả tộc rồi.”

“Cái gì? Người Thượng Qua Ba?” Lần này là do Trương Lập không nén nổi tò mò hỏi tiếp, chắc hẳn là chỉ người Qua Ba sống trên tầng bình đài thứ ba kia rồi.

Mã Cát khe khẽ đáp bên tai Trương Lập: “Ưm.”

“Sao, sao lại có người Thượng Qua Ba nữa? Họ là ai thế?”

Mã Cát nhoẻn miệng cười tươi tắn đáp: “Anh Trương Lập ngốc thật đấy, có người Hạ Qua Ba, thì dĩ nhiên phải có người Thượng Qua Ba rồi. Người Hạ Qua Ba sống ở tầng thấp nhất, người Thượng Qua Ba sống ở tầng cao nhất. Truyền thuyết kể rằng, họ sống ở hai đầu Thánh vực, không cho ai vào mà cũng chẳng cho ai ra, dường như là đang bảo vệ thứ gì đấy, hay là như đang đợi gì đó vậy.”

Trương Lập đang định thăm dò thêm thông tin về người Thượng Qua Ba với Hạ Qua Ba, dù sao thì chuyện này cũng quan hệ đến mục đích chuyến đi này của họ, nhưng Mã Cát đã vỗ vỗ lên lưng anh nói: “Đến rồi, đến rồi, bỏ em xuống, mau cho em xuống!”

Trương Lập chỉ thấy xung quanh rõ ràng vẫn là một vùng rừng rậm cây cối um tùm, nào có thấy bóng thôn làng gì, sao bảo đã đến được rồi? Có điều giọng nói rối rít của Mã Cát khiến anh căng thẳng hơn mọi việc trên đời, vội vàng thu dây về, chẳng ngờ lại không khống chế được đà lao. Mắt thấy Mã Cát sắp đập vào tảng đá dưới đất, Trương Lập vội bất chấp tất cả, lộn người trên không trung, hai tay nâng móc lên, còn mình thì đập lưng xuống đất một cú rõ mạnh, đau đến điếng người.

“Anh không sao chứ, anh Trương Lập!” Ánh mắt Mã Cát đầy sự quan thiết. Trương Lập dẫu có gãy xương đứt gân, lúc này cũng chẳng còn thấy đau đớn gì nữa, khí khái nam nhi bốc lên ngùn ngụt: “Anh không sao!” Chợt nhận ra, ối trời, tay mình đang để vào chỗ nào của Mã Cát vậy?! Anh vội vàng buông tay ra, vậy là cả người cô liền đè sát lên người Trương Lập, cái miệng nhỏ không kịp tránh, cũng vừa khéo ép lên môi Trương Lập. Cảm giác mềm mại truyền qua, khiến thần hồn Trương Lập bay vút lên tận mây cao, đầu óc hoàn toàn trống rỗng, cảm giác phiêu phiêu lâng lâng ấy bao phủ khắp toàn thân đổ từ gót chân lên tới đỉnh đầu. Bất ngờ quá, điều ao ước bấy lâu nay bỗng nhiên xảy ra, đúng là một kỳ tích!

Thôn Công Nhật Lạp

Mã Cát cuống quýt đứng dậy, trên gương mặt hiện lên hai ráng mây ửng hồng, bộ dạng nửa muốn từ chối nửa không, vừa bất an lại vừa thích thú đó khiến quả tim Trương Lập như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, nhất thời còn chẳng có cả sức lực đứng lên. Mã Cát bối rối đưa mắt nhìn quanh, cũng may là không có ai, nhưng cô nào có biết, toàn bộ cảnh tượng ban nãy đều đã được thiết bị thông tin liên lạc gắn trên mắt Trương Lập truyền tới tất cả những người khác không sót một chi tiết nhỏ nào rồi.

Nhạc Dương bất mãn kêu lên: “Vậy cũng được à! Cường Ba thiếu gia, tay Trương Lập này thật là quá đáng hết mức!”

“Cái gì? À? Ờ.” Trác Mộc Cường Ba vẫn đang hồi tưởng lại những ngày đồng hành với Sean trong rừng rậm ở châu Mỹ.

Đường Mẫn cười hì hì nói: “Thế thì sao đâu chứ, Trương Lập giỏi đấy. Nhạc Dương, anh cũng phải cố lên đó.”

“Hừ, thế thì có gì khó?” Nhạc Dương thầm nhủ, từ lâu đã nghe nói Tây Tạng có rất nhiều truyền thuyết về Mỹ nhân tộc, Mỹ nhân cốc gì gì đó, nguyên một làng chỉ toàn là mỹ nữ, chủ yếu là vì vùng này có địa thế tốt, chất nước tốt... vùng đất Shangri-la này tuy là hơi nhiều quái thú một chút, nhưng xét về cảnh sắc sơn thủy thì đúng là chẳng cần phải nói rồi. Biết đâu làng của Mã Cát lại chính là một “ngôi làng mỹ nhân” đúng tiêu chuẩn trong truyền thuyết thì sao. Vả lại, với tầm nhìn hạn hẹp của họ, nói không chừng chỉ cần một cái đèn pin hay vài viên bi thủy tinh gì gì đó là đã đổ ràn rạt hết cả rồi cũng nên.

Chỉ thấy Mã Cát chỉnh trang lại quần áo, bước tới bên cạnh một cây không cao lắm trong rừng, cung kính chào: “Chú Lang Ca, chú vẫn khỏe chứ ạ? Mã Cát về rồi.” Nói đoạn, cô đưa tay lên vuốt khẽ lên thân cây. Gió thổi cây lay, tán lá kêu rì rào rì rào.

Trương Lập đã ngồi dậy, thấy vậy bèn thầm nhủ, lại trò gì nữa đây? Nghi thức trước khi về làng sao? Chỉ thấy Mã Cát đã quay mặt về phía mình, lại nói tiếp: “Chú Lang Ca, đây là anh Trương Lập, bọn họ là người từ bên ngoài đến đó, Mã Cát chuẩn bị đưa họ về làng đây.” Nhìn bộ dạng cô như thể đang giới thiệu Trương Lập với ai đó vậy, nhưng trước mặt Mã Cát rõ ràng là một cái cây chứ chẳng có ai hết. Kế đó, Mã Cát lại trịnh trọng giới thiệu với Trương Lập: “Anh Trương Lập, đây là chú Lang Ca, trước đây chú ấy yêu quý Mã Cát lắm đó.”

Trương Lập nghe thấy hai chữ “yêu quý”, tức thời cảm thấy bàn tay đang vuốt ve lên thân cây của Mã Cát cũng khá giống như đang vuốt ve gương mặt người tình, đầu anh như muốn nổ tung... Đó rõ rành rành là một cái cây mà, chẳng lẽ nàng tiên Mã Cát này... Cô... trí lực của cô có vấn đề hay sao? Lúc này, những người khác cũng đều đã đến nơi, lần lượt hạ xuống khoảng đất trống. Mã Cát lại giới thiệu ông chú Lang Ca đó với từng người một, giống như thể giới thiệu một người thân rất quan trọng của mình vậy. Nét mặt mọi người đều giống như Trương Lập, cũng cảm thấy không hiểu Mã Cát có vấn đề ở đâu đó hay không, chỉ có mình pháp sư Á La là nghiêm nghị bước đến gần, quan sát thân cây không lớn lắm đó một cách kỹ lưỡng.

Cái cây đó đã cao chừng ba mét, lá cây chĩa ra các phía, đường kính thân cây chỉ khoảng nửa mét, phần dưới thân cây có mấy chỗ gồ lên như những con rắn quấn vào thân cây. Pháp sư Á La dè dặt hỏi: “Vì sao mà chú Lang Ca này lại bị trồng ở đây vậy?”

Mã Cát thoáng lộ nét u buồn, đáp: “Chú Lang Ca chẳng làm gì sai cả, là Đại Địch ô của vương quốc nói con trai chú ấy đã đầu hàng quân địch, vì vậy, chú ấy bị trồng ở đây. Trước khi chú Lang Ca hoàn toàn thụ hóa, ngày nào cháu cũng mang thức ăn ngon cho chú ấy ăn đó. Hồi nhỏ chú Lang Ca tốt với cháu lắm mà...” Kể tới đây, Mã Cát lắc đầu thật mạnh, tựa hồ muốn hất những chuyện thương tâm đó ra khỏi ký ức, rồi cô nói nhanh: “Thôn làng ở ngay phía trước đây thôi, để cháu dẫn mọi người vào nhé, cẩn thận có bẫy đấy.”

Trương Lập đứng lên mới phát hiện vết thương trên cánh tay có máu rỉ ra, chắc là lúc nãy khi chạm đất vết thương lại bị toác ra nữa. Anh cứ mặc kệ đó, bước tới sau lưng Mã Cát hỏi: “Chú... chú Lang Ca ấy, là người hả?” Mã Cát ngừng bước, gật gật đầu, rồi lại tiếp tục đi trước dẫn đường.

Đằng sau, Nhạc Dương cũng đang hỏi pháp sư Á La: “Pháp sư, cái cây đó là thế nào vậy?”

Pháp sư Á La chăm chú nhìn vào thân cây, đáp: “Thụ nhân trong truyền thuyết đó, không ngờ lại là sự thật.”

Nhạc Dương thắc mắc: “Thụ nhân trong truyền thuyết?”

Pháp sư gật đầu đáp: “Ừm, trong các điển tịch cổ có ghi chép, có thể xem như là một loại cổ độc vậy. Theo những gì viết trong kinh thư, người ta sẽ cấy một loại hạt giống thực vật vào cơ thể nạn nhân, hạt giống ấy sẽ hút hết chất dinh dưỡng trong máu để sinh trưởng, sau đó từ từ biến người trúng cổ độc thành một cái cây. Tuy chưa từng được thấy loại cổ độc trong truyền thuyết ấy, nhưng từ lúc đội trưởng Hồ Dương ngồi gãy khúc rễ cây đó, tôi đã nghi nghi rồi.”

Đường Mẫn bước theo sau, cất tiếng hỏi: “Hạt giống sinh trưởng bên trong cơ thể người, làm sao được chứ?”

Pháp sư Á La giải thích: “Ở Tây Tạng có một loại đông trùng hạ thảo rất nổi tiếng, chắc mọi người đều nghe nói đến rồi phải không?”

Đông trùng hạ thảo thì chẳng ai lạ lẫm gì, mùa đông là côn trùng, bị nấm và vi khuẩn tấn công, nó sẽ chôn mình xuống dưới đất, sang năm sau, trên đỉnh đầu con côn trùng ấy sẽ mọc lên một loại thực vật họ cỏ, thân thể côn trùng chỉ giữ lại vẻ bề ngoài, còn về cơ bản đã bị thực vật hóa cả rồi. Đội trưởng Hồ Dương lại hỏi tiếp: “Nhưng mà, dù sao cũng là nấm khuẩn... đây... đây là cả một cái cây to cơ mà?”

Pháp sư Á La nói: “Thì cũng có thể coi cái cây này như một loại nấm khuẩn khổng lồ. Phải biết rằng, ở tầng dưới kia chúng ta đã gặp những thực vật họ dương xỉ cao tới cả trăm mét, chúng cũng lớn lên từ những bào tử nhỏ bé thôi. Thế giới bao la, điều kỳ lạ nào mà chẳng có thể xảy ra chứ.”

Mã Cát đi đằng trước không ngừng nhắc nhở Trương Lập: “Đừng đi sang bên trái đấy!” “Giới hạn là cái cây bên phải kia kìa, không được vượt qua đó đâu nhé!” “Nhìn thấy cái dấu trên thân cây kia chưa, nghĩa là tuyệt đối không được lại gần đấy!”

Những câu trả lời của Trương Lập càng khiến Mã Cát kinh ngạc hơn: “À, bên trái là hố bẫy đúng không, bên trong chắc là có cọc gỗ chứ gì?” “Đằng sau cái cây bên phải ấy có lưới à? Trên lưới có gắn thêm lưỡi đao nữa không?” “Thấy dấu hiệu rồi, khì khì, bước lại gần đó đạp trúng chốt bẫy, thì cọc gỗ nhọn giấu trên thân cây sẽ sập xuống, đúng không?”

Mỗi lần nghe trả lời, Mã Cát đều mở to đôi mắt ra, thốt lên: “Chà, sao anh biết vậy?”

Trương Lập thầm thấy tức cười, những loại bẫy này chỉ dùng để đối phó với bọn thú hoang, tất nhiên là chỉ cần nhìn thoáng một cái đã nhận ra rồi. Có điều, cũng phải nhờ đến giáo quan huấn luyện, coi như không uổng công hai năm trời vất vả.

Vừa đi vừa nói chuyện, cuối cùng đã đến thôn Công Nhật Lạp, ai nấy đều nhất loạt phát ra một tiếng kêu đầy kinh ngạc. Sự thần kỳ của thiên nhiên vĩ đại, thực đúng là dẫu rằng có nhìn ngắm bao nhiêu cũng không thể nào thưởng thức hết cho được. Chắc là do núi lửa làm lòng núi nứt vỡ sụt xuống, những khối nham thạch khổng lồ nhô ra tua tủa, trước mặt bọn Trác Mộc Cường Ba hiện ra một cái đỉnh ba chân khổng lồ. Chân đỉnh cao khoảng chừng hai ba trăm mét, khoảng cách giữa các chân lên đến hơn nghìn mét, thân đỉnh có hình dáng như một chiếc khay tròn, phần đáy ít nhất cũng phải rộng bằng mười mấy cái sân bóng đá gộp lại. Một dòng thác lớn cuồn cuộn chảy từ tầng bình đài thứ ba, đổ vào trong đỉnh, rồi xuôi theo các chân đỉnh ngoằn ngoèo chảy xuống. Thoạt nhìn, trông như thể phần dưới của tòa tháp Đông Phương Minh Châu ở Thượng Hải được phóng to lên vô số lần, hoặc bảo là một tòa kim tự tháp bị khoét rỗng ruột, chỉ còn lại phần khung giá cũng không sai cho lắm. Mã Cát nói, thôn làng của họ ở ngay bên dưới cái đỉnh đá khổng lồ này.

Phòng ngự ngoại vi của ngôi làng này về đại thể cũng giống như thôn Công Bố, đều bọc quanh bằng tường đất nện, bên trên cắm đầy chông nhọn hoắt, chỉ khác một chút là, ở chân tường và một số khoảng trống có bố trí thêm một tầng lưới sắt gắn móc câu ngược, có vẻ như để phòng ngừa một số loài động vật cỡ nhỏ, như lũ gián kia chẳng hạn.

Vừa vòng qua bức tường đất, lại có thêm mấy tiếng kêu kinh ngạc nữa. Vẻ đẹp thanh bình tĩnh lặng của ngôi làng, và hiểm nguy bốn bề trong rừng sâu, thật là một sự đối lập mạnh mẽ chẳng khác nào thiên đường và địa ngục.

Cả thôn Công Nhật Lạp rộng khoảng ba trăm héc ta, địa thế bằng phẳng thông thoáng, từ đầu thôn có thể nhìn thẳng tới cuối thôn, sắc xanh phủ kín cả tầm mắt, một dòng sông nhỏ uốn theo hình chữ “S” chảy từ trên xuống dưới, vòng qua bốn năm khúc quanh chảy qua thôn làng. Nhưng điều làm bọn Trác Mộc Cường Ba phải trầm trồ kinh ngạc, chính là những căn nhà ở đây. Những ngôi nhà lặng lẽ nằm tản mác giữa một vùng xanh ngắt, vừa lộn xộn nhưng cũng rất có trật tự ngay ngắn, hòa thành một thể thống nhất với đồng cỏ xanh tươi mát mắt, hoàn toàn trọn vẹn. Những ngôi nhà thấp hơn một chút, thì giống như nơi ở của giống loài tinh linh trong thần thoại phương Tây, có mái tròn nhọn hoắt và thân nhà hình trụ; những ngôi cao hơn, thì như các cối xay gió trên thảo nguyên Hà Lan vậy, trước nhà có ba bốn cây cao lớn, sau nhà có vườn hoa, nhìn rộng hơn nữa, bốn bề là một vùng thảo nguyên ngút ngàn xanh ngắt. Càng khó tin hơn nữa là, tất cả nhà ở đây đều không hề có dấu vết gì của bàn tay con người, những đường nét cổ phác đơn sơ đó, trông như thể gió thiên nhiên đã bào mòn nhào nặn đá núi mà ra vậy.

Nhất thời, tất cả mọi người đều liên hệ vẻ đẹp ấy với Mã Cát, chắc cũng chỉ ở một nơi thế này, mới có thể sinh ra được một nàng tiên ngây thơ trong sáng như cô mà thôi. Đội trưởng Hồ Dương còn thất thanh thốt lên kinh ngạc: “Ống khói tinh linh! Ống khói tinh linh(1)!”

“Đó là cái gì vậy?” Nhạc Dương tò mò hỏi.

Đội trưởng Hồ Dương hưng phấn giải thích: “Là một loại địa mạo núi lửa, khi dung nham lạnh đi, do chịu nhiệt không đều và tác dụng của ngoại lực mà rạn nứt thành dạng trụ, tác dụng của gió trong suốt hàng triệu hoặc hàng trăm triệu năm đã mài giũa chúng thành hình dạng như cây nấm. Tùy theo mức độ kiên cố của nham thạch, nhiều chỗ có thể trực tiếp đục thành những căn phòng đá ở bên dưới, tạo thành một nơi ở thiên nhiên. Có thể nói, đây là những căn nhà kỳ diệu mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người.”

Đi qua cổng thôn làng, liền thấy một tấm bia đá, nét chữ bên trên đã mờ tịt, gắng gượng lắm cũng chỉ nhận ra được mấy chữ như ‘tân nghiêu, nguyệt huy...’ gì gì đó. Theo suy đoán của pháp sư Á La, ngôi làng này đã tiến vào Shangri-la ẩn cư từ khoảng năm 647 sau Công nguyên, dựa theo ghi chép trên văn bia, họ là một nhánh của bộ tộc Vi Đạt của nước Đại Bằng. Theo đó suy ra, tổ tiên của họ chắc hẳn thuộc nhóm những người không chịu quy thuận sau khi Tượng Hùng bị Thổ Phồn đánh bại.

Mã Cát nghe bọn họ bàn luận mà lấy làm mê hoặc, tới khi Trương Lập lắp bắp dùng tiếng Tạng cổ giải thích xong, cô liền kinh ngạc kêu lên: “Mọi người... mọi người... nhận ra được những văn tự trên đó sao? Trời ơi, những chữ này đến cả Địch ô đại nhân cũng không đọc được nữa đó!” Thì ra, người trong thôn làng của Mã Cát đều nói tiếng Tạng cổ, nhưng lại chẳng có ai biết chữ Tạng cổ cả.

Ba Tang thì lại dồn sự chú ý vào một cái đỉnh lớn cạnh cổng làng, hoặc có thể nói là một thứ bằng kim loại trông hơi giống cái vạc lớn. Vật này cao khoảng gấp đôi người bình thường, có bốn chân, bụng tròn, phần thân như một cái nồi cỡ đại, dưới đáy cũng có dấu vết ám khói. Nhưng dùng cái nồi cỡ đại này để nấu cái gì chứ nhỉ? Dùng nồi kiểu này, sợ rằng cả làng ra ăn cũng chẳng hết.

Trương Lập cũng tò mò không biết cái nồi lớn ấy dùng để làm gì. Mã Cát nói, dùng trong tế lễ, sau buổi lễ, thức ăn trong đó đúng là được phân phát cho cả làng cùng ăn. Nói tới đây, cô bỗng nheo mắt cười cười nhìn Trương Lập, bảo: “Có điều, nó còn một tác dụng khác nữa cơ.” Khi Trương Lập hỏi là gì, Mã Cát dường như nghĩ tới điều gì đó, sắc mặt đỏ ửng lên, dẫn cả bọn vào trong làng, miệng lí nhí đáp: “Sau này mới cho anh biết.”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn quanh thôn làng, quanh quanh đó áng chừng có khoảng năm ba chục nếp nhà, mỗi nhà đều có chuồng nuôi gia súc, có khoảnh đất ruộng khá lớn, có điều, những người gã trông thấy chỉ toàn là người già cùng với đàn bà trẻ con.

Đàn ông đàn bà ở đây đều chít khăn trên đầu. Nhìn kiểu buộc khăn, rõ ràng họ thường dùng đầu để đội hàng hóa vật dụng. Bên trên họ khoác một loại áo cộc không cổ, không móc cài, phía dưới mặc một thứ khá giống váy quây, có người già khoác một dạng giống áo gi lê, lại có người khoác tấm áo rộng một mét, dài hai ba mét, quấn lại trước ngực rồi hất ra phía sau; các bé gái đều đeo hoa tai, chừng như bằng gỗ hoặc bằng tre gì đấy, trước ngực có trang sức bằng bạc, mặc áo hoa chiết eo và váy ống dài; bé trai thì bên hông phải giắt một con dao nhỏ, nhét trong vỏ bằng gỗ, trên vỏ buộc chằng chịt các loại dây vải đủ màu.

Những người già, đàn bà và trẻ nhỏ ấy đều tò mò quan sát đám khách lạ qua ô cửa sổ gỗ, từ phía sau cánh cửa, hoặc từ những khe hở nhỏ trên bức tường thấp lè tè.

Người ở đây đen, gầy, ai nấy đều toát lên một vẻ mệt mỏi như người mới bình phục sau trận ốm nặng lâu ngày. Da dẻ người già hệt như mặt đất bị hạn hán làm cho khô khốc, để lộ ra những vết rạn nứt chằng chịt trên mặt và cánh tay; lũ trẻ con thì đầu to thân nhỏ, nấp sau lưng người lớn, len lén dòm qua, đôi mắt to tròn, đen láy. Không hiểu vì sao, khi nhìn thấy những người này, trong lòng bọn Trác Mộc Cường Ba đều chợt thấy trào lên một niềm thương cảm, như thể gặp phải một đám người đói khát thảm hại trong ốc đảo xanh trên hoang mạc, trông thật không hài hòa, khiến cho ngôi làng vốn đẹp như tranh ấy lại bị phủ lên một cảm giác tang thương của một tòa thành đổ nát trên sa mạc vào buổi hoàng hôn u ám.

Rồi cả ánh mắt của những dân làng đó nữa, người già thì lạnh lùng, cảnh giác, trẻ con thì yếu ớt, khẩn nài. Ở một nơi hoàn toàn xa lạ, bị những ánh mắt phức tạp ấy nhìn chằm chằm vào vốn không phải chuyện hay ho gì, cảm giác như thể mình là một con quái vật bị người ta soi xét vậy, khiến cho đến bước đi cũng trở nên cẩn trọng nhẹ nhàng hơn rất nhiều.

Cũng không hiểu có phải vì cảm giác bị một đám người nhìn chăm chú quá đỗi khó chịu, hay là vì thấy đám trẻ giống như trẻ con chết đói ở châu Phi đó quá đáng thương, Mẫn Mẫn định xoa dịu bầu không khí ấy đi một chút, bèn lấy một miếng lương khô hàm lượng calorie cao trong túi ra, vẫy vẫy tay với đứa trẻ đứng gần mình nhất, nở một nụ cười thân thiết rồi nói bằng tiếng Tạng cổ: “Tới đây, tới đây!”

Đứa bé gầy gò vàng vọt ấy trợn tròn cặp mắt to đầy sợ hãi, chẳng những không dám lại gần, ngược lại còn nấp ra sau lưng một bà già, chỉ để lộ nửa gương mặt nhỏ nhắn nhìn Mẫn Mẫn với vẻ dò xét.

Tới khi Mã Cát dang rộng hai cánh tay, đứa bé mới hân hoan chạy ra từ phía sau lưng bà già, ào đến dụi đầu vào lòng cô. Mã Cát bế đứa bé lên, nói với bọn Trác Mộc Cường Ba, vì chiến tranh, tráng niên trong làng hầu hết đều đã tử trận hoặc bị sung vào làm quân cận vệ của vương quốc, hiện giờ ở đây chỉ còn lại người già và trẻ con. Vì người Hạ Qua Ba đã bị tiêu diệt, vậy nên mỗi khi đói kém, cũng chẳng có người mang hạt giống đến tặng như trước đây nữa. Bây giờ, lương thực trong thôn lúc nào cũng thiếu thốn, những người già buộc phải liều mình vào rừng bắt dã thú hoặc hái quả về ăn.

Pháp sư Á La liền hỏi: “Không phải trận chiến mười tám năm trước đã kết thúc rồi à? Sao mà...”

Lúc này, đứa bé trong lòng Mã Cát vừa được cô khích lệ, đã đưa tay nhận lấy thức ăn của Mẫn Mẫn đưa cho. Mẫn Mẫn đang dạy nó cách bóc lớp giấy bọc bên ngoài. Mã Cát mở to mắt đáp lời pháp sư: “Trận chiến mười tám năm trước thì kết thúc từ lâu rồi, nhưng sáu năm trước lại đánh nhau với Yaca một bận nữa, đánh suốt ba năm mới ngừng đó ạ.”

Pháp sư Á La sực hiểu ra, vào thời điểm đó, trong Nhật ký thôn Công Bố có ghi chép về việc Thứ Tháp Nhĩ gây ra họa gì đó, họ còn đang lo cho mình chẳng xong, làm gì có ai ra khỏi thôn làng, đương nhiên cũng không thể nào có ghi chép về trận chiến tranh sáu năm về trước được.

“Trận chiến sáu năm trước, có thể xem như là kéo dài của cuộc chiến tranh mười tám năm về trước...” Dường như nhớ lại những điều thương tâm trong quá khứ, sắc mặt Mã Cát bỗng trở nên ảm đạm hẳn đi, làm Trương Lập nhìn mà thấy nhói đau trong lòng. Nghe Mã Cát thủ thỉ kể lại, bọn Trác Mộc Cường Ba đã có nhận thức rõ ràng hơn về cuộc chiến tranh nổ ra vào mười tám năm trước. Trận chiến ấy, là do vương quốc Langbu ở bên bờ biển Sinh Mệnh khởi xướng, nguyên nhân tại sao thì Mã Cát không rõ lắm, nhưng kết quả, thì phe gây chiến Langbu đã bị đánh bại, quân đội Yaca băng qua biển Sinh Mệnh, cả một vùng thôn trang lớn của vương quốc Langbu bị đại quân Yaca quét sạch, cha mẹ của Mã Cát cũng đã qua đời trong cuộc chiến ấy.

Trong lúc Mã Cát kể chuyện, đứa bé trong lòng cô lần đầu tiên được nếm thứ thực phẩm dinh dưỡng cao của Đường Mẫn đưa cho, sung sướng reo lên thích thú. Mẫn Mẫn cũng thử tiến thêm một bước tiếp xúc với nó, dang tay đón lấy đứa trẻ từ tay Mã Cát. Những đứa bé khác đang vây xung quanh cũng dần bớt cảnh giác, lần lượt quây lại gần, xin Mẫn Mẫn phát cho chúng món đồ ăn lạ kia.

Mẫn Mẫn bị quây chặt kín không sao thoát thân nổi, ánh mắt lũ trẻ lại hướng về phía Lữ Cánh Nam. Có lẽ do bản tính thiên bẩm của phụ nữ, Lữ Cánh Nam cũng bắt đầu phân phát thức ăn cho đám trẻ cùng với Mẫn Mẫn. Lại thấy hầu hết những đứa trẻ này đều suy dinh dưỡng hoặc khắp người đầy những vết thương nhỏ, nếu không xử lý tiêu độc sát trùng, e rằng rất dễ nhiễm bệnh, cô bèn vừa phát thức ăn, vừa giúp những đứa trẻ bệnh tật gầy gò xử lý vết thương. Lũ trẻ có thức ăn, chỗ nào bị thương được những cái bình nhỏ kỳ lạ xịt vào một cái là hết đau luôn, liền chạy đi khắp nơi thông báo. Tin tức vừa lan đi, Lữ Cánh Nam và Mẫn Mẫn lập tức bị dân làng vây kín không nhúc nhích nổi. Mấy người hội đội trưởng Hồ Dương cũng muốn lại giúp một tay, nhưng dân làng thấy một đám đàn ông râu ria xồm xoàm thì chẳng ai chịu tin cả.

Pháp sư Á La thì chỉ muốn mau mau chóng chóng gặp được Địch ô đại nhân của thôn làng. Xét cho cùng, họ đã quá khao khát được biết rốt cuộc đây là nơi như thế nào, cũng có quá nhiều thắc mắc cần một lời giải đáp.


Chú thích:

1. (Fairy Chimmneys) Hay còn gọi là hoodoo, lều đá, kim tự tháp đất...

Địch ô An Cát Mẫu

Căn nhà của Địch ô An Cát Mẫu ở trung tâm thôn làng, thân nhà hình tròn, nhìn các cửa sổ thì ít nhất cũng chia làm ba tầng, bốn góc có kinh phướn, phía dưới có rất nhiều tượng quỷ thần điêu khắc bằng gỗ, pháp sư Á La kiến văn quảng bác như thế mà cũng không nói được đó là những tượng gì. Mã Cát vừa vào cửa đã lớn tiếng gọi ầm ĩ: “Địch ô đại nhân, Địch ô đại nhân, con tìm được cho ông người đọc được chữ Mã Nhĩ rồi này!”

“Kha kha, A Mễ về đấy hả, sao lớn tiếng thế, lại gây họa gì bên ngoài rồi phải không?”

Mã Cát vừa xấu hổ vừa bối rối, vội nói: “Địch ô đại nhân nói bừa nhé, có khách quý đến đây nè.”

“Ủa.” Lúc này ông già kia mới quay người lại, chú ý đến bọn Trác Mộc Cường Ba: “Người Hạ Qua Ba à? Sao có thể được?” Địch ô An Cát Mẫu khoảng tầm sáu mươi đến bảy mươi tuổi, trông vẻ bề ngoài còn già nua hơn pháp sư Á La, gương mặt đầy những nếp nhăn sâu hõm, trên đầu chít khăn, nhưng không để tóc, mà chỉ có hai hàng râu dài bên mép và chòm râu dưới cằm tụ lại một chỗ.

Mã Cát cười cười nói: “Địch ô cũng có lúc không linh rồi nhé! Họ không phải người Hạ Qua Ba đâu, họ là quý khách từ bên ngoài tới đấy!” Tiếp đó, cô lần lượt giới thiệu từng người trong bọn Trác Mộc Cường Ba, rồi tự tiện lấy trong phòng trong của Địch ô đại nhân ra rất nhiều nệm cho mọi người ngồi xuống.

Sau khi biết được thân phận của mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba, vị Địch ô đại nhân ấy liền thẳng thừng nói luôn: “Nói mục đích của các vị đi, những vị khách phương xa.”

Pháp sư Á La nói: “Chúng tôi tìm kiếm vết chân của Bạc Ba La quang vinh, đến vùng đất này, chúng tôi...”

“A!” Tuy biết rằng làm vậy là rất thiếu lễ độ, nhưng vị Địch ô An Cát Mẫu vẫn không sao nén nổi cất tiếng ngắt lời: “Người Qua Ba! Bạc Ba La thần miếu! Tôi hiểu rồi.” Ông đứng dậy, bất an đi đi lại lại mấy bước, đoạn nói: “Hình như tất cả những người từ bên ngoài đến, đều vì Bạc Ba La thần miếu cả. Nơi đó không dễ gì đến được đâu.” Ông đưa mắt liếc sang phía Mã Cát, rồi thở dài nói tiếp: “Thôi được, tôi có thể nói cho các vị biết chuyện về Bạc Ba La thần miếu và bộ tộc Qua Ba. Chỉ hiềm nỗi, những điều tôi biết cũng chẳng nhiều nhặn gì.”

Ông già vuốt vuốt lại vạt áo, ngồi trở xuống, chầm chậm cất tiếng: “Người Vi Đạt chúng tôi đã đến định cư ở nơi này từ rất sớm, rất sớm, chỉ hơi muộn hơn so với người ở hang và người núi tuyết thôi.”

“Người núi tuyết!” Nhạc Dương vừa nghe thấy cách phát âm đó đã kinh ngạc thốt lên. Cách phát âm chữ “người núi tuyết” của Địch ô An Cát Mẫu gần giống với “sa tư mã tang mễ” hoặc “cáp tư khoa ngưỡng hĩ”, còn khi Nhạc Dương ghép các âm “núi tuyết” và “người” trong tiếng Tạng cổ vào, thì lại nhận ra phát âm không giống thế. Pháp sư Á La bèn giải thích, cách phát âm “người núi tuyết” chắc là của tiếng Tượng Hùng, hoặc một loại ngôn ngữ cổ còn sớm hơn cả tiếng Tượng Hùng và vẫn được lưu giữ đến tận ngày nay, vì vậy không thể dùng tiếng Tạng cổ để ghép âm lại được.

Địch ô An Cát Mẫu dừng lại, Nhạc Dương ngại ngùng giải thích: “Tôi... tôi muốn nói, không biết Địch ô đại nhân có thể kể về người núi tuyết trong truyền thuyết của các vị được không.” Từ sau khi pháp sư Á La nhắc đến người núi tuyết, Nhạc Dương đã tra tìm trong kho dữ liệu của giáo sư Phương Tân các tư liệu về người tuyết Tây Tạng. Không tra thì không biết, tra ra liền không khỏi giật mình, từ cuối thế kỷ mười chín cho đến ngày nay, số lượng các ghi chép chính thức về việc tìm kiếm người tuyết ở dãy Himalaya và vùng phụ cận phải lên đến hơn nghìn, số lần các đoàn khảo sát tiến vào rặng núi với danh nghĩa tìm kiếm người tuyết, so với số lần khảo sát đỉnh Chomolungma còn nhiều hơn gấp bội.

Hơn nữa, bọn họ còn phát hiện ra rất nhiều thứ thú vị. Chẳng hạn, có nhà khoa học cho rằng, con người và người tuyết có cùng một tổ tiên. Hai triệu năm trước, Vượn người Phương Nam(1) bắt đầu từ trên cây xuống đất, mở ra một phương thức sinh tồn hoàn toàn mới. Vượn người PhươngNam có thân thể cao lớn, trong đó có một bộ phận tiến hóa thành người, còn một bộ phận khác thì phân hóa thành loại nhỏ bé, loại cao lớn và người nguyên thủy Paranthropus Boisei. Ban đầu, Vượn người phương Nam tiến hóa thành người khéo léo Homo habilis, cũng chính là những tổ tiên có thể chế tạo ra các công cụ bằng đá đơn giản, mở ra thời kỳ Đồ đá cũ của loài người.

Một triệu năm trước, băng hà bao phủ trái đất, tiến trình hoang mạc hóa ở châu Phi tăng tốc, một nhóm người Homo habilis ở châu Phi lại tiến hóa thành người đứng thẳng Homo erectus, họ học cách sử dụng lửa, ngôn ngữ cũng rõ ràng hơn. Đất đai châu Phi bị sa mạc hóa mỗi lúc một nhiều, khiến người đứng thẳng Homo erectus không thể không rời bỏ châu lục này, di cư đi khắp thế giới. Người vượn Bắc Kinh, người Nguyên Mưu, người Lam Điền rất nổi tiếng ở Trung Quốc, đều thuộc nhánh người đứng thẳng Homo erectus này cả; người Homo erectus đến châu Âu muộn hơn một chút, ở đây, họ tiến hóa thành người Homo neanderthalensis.

Khoảng hai trăm năm mươi nghìn năm trước, môi trường châu Phi càng trở nên khắc nghiệt, một nhóm người đứng thẳng Homo erectus ở đây đã tiến hóa thành người có trí tuệ Homo sapiens, người Homo sapiens bắt đầu cuộc đại di cư toàn cầu lần thứ hai. Những người đứng thẳng Homo erectus ở những nơi khác cũng có sự tiến hóa với mức độ khác nhau, họ đã sống chung với người Homo sapiens trong một thời kỳ rất dài. Mãi đến khoảng sáu mươi nghìn năm trước, lại một đợt băng hà nữa phủ khắp địa cầu, môi trường sinh tồn trên cả trái đất đều trở nên khắc nghiệt, người Homo sapiens không ngừng tiến hóa trong lao động, cuối cùng đã trở thành người Homo sapiens kỳ cuối, hoặc gọi là người mới, người hiện đại, về ngoại hình và dung lượng bộ não gần như tương đương với con người ngày nay, và đồng thời dần dần thay thế người đứng thẳng Homo erectus vẫn chưa thể tiến hóa được. Người ta chia người Homo sapiens kỳ cuối ra làm bốn đại chủng: Trung Quốc, Đông Á, người Indian ở châu Mỹ chủng da vàng, gọi là người Mongoloid hay người Mông Cổ; người châu Âu, Bắc Phi, Nam Á thuộc chủng da trắng, hay gọi là người Oropeoit hay người Caucasoid; ngoài ra còn có chủng da đen ở châu Phi, da nâu ở châu Úc, từ đó hình thành cách cục của nhân loại ngày nay.

Điều khiến các nhà nhân loại học và nhà nghiên cứu Tây Tạng thấy thú vị là, có rất nhiều truyền thuyết viễn cổ của Tây Tạng có những điểm tương đồng đến đáng ngạc nhiên với lịch sử tiến hóa của loài người; chẳng hạn như truyền thuyết về nguồn gốc loài người của dân tộc Tạng cho rằng, con người từ loài vượn tiến hóa nên; còn cả truyền thuyết về cuộc chiến giữa người núi tuyết và người ở hang, gần như chính là một phiên bản của sự cạnh tranh giữa người Homo erectus và người Homo sapiens; thậm chí cả từ “người núi tuyết” cũng ngầm ám chỉ đến thời kỳ băng hà. Vì vậy, những nhà nhân loại học ấy suy đoán, người tuyết mà ngày nay vẫn được đồn đại lưu truyền trong vô số các câu chuyện, cũng như được rất nhiều người tận mắt trông thấy đó, rất có thể là một chủng người Homo erectus đã tiến hóa để thích nghi với sự sinh tồn vùng sông băng trong cuộc chiến giữa người Homo erectus với người Homo sapiens. Vì sông băng tan chảy, đa phần không gian sinh tồn còn lại đều bị người Homo sapiens chiếm cứ, duy nhất chỉ có cao nguyên núi tuyết trên nóc nhà thế giới này là vẫn còn giữ lại một mảng không gian thích hợp để người tuyết sinh tồn mà thôi.

Hơn nữa, thông qua nghiên cứu các tư liệu, Nhạc Dương và Trương Lập còn phát hiện, cả quá trình tiến hóa của loài người, cực kỳ tương đồng với quá trình sản sinh ra Lang vương mà giáo sư Phương Tân đã nói, gần như có thể nói là đồng nhất. Cũng có nghĩa là, dù là chủng loại nào, cũng đều phải trải qua một quá trình giống nhau, mới có thể tiến hóa nên đủ trí tuệ. Khi sự thay đổi khắc nghiệt của môi trường sống, cuộc sống lao động tập thể, những cuộc thiên di không ngừng, số lượng quần thể và năng lực chống lại môi trường đều đạt đến mức độ nhất định, thì bắt đầu định cư, trải qua nghìn vạn năm tích lũy, rồi mới từ từ thay đổi được.

Địch ô An Cát Mẫu không có những tri thức khoa học phổ thông này, nhưng ông được nghe những truyền thuyết từ đời cha ông, ông nội ông, cụ kỵ ông kể lại. Ông nói: “Người núi tuyết là một trong những cư dân sớm nhất của nơi này, tất cả các truyền thuyết đều nói như vậy. Chiều cao của họ ít nhất cũng gấp đôi người bình thường chúng ta, tương truyền rằng, người núi tuyết có lớp lông rất dày, đi lại dễ dàng trên núi tuyết, không hề sợ đóng băng và giá lạnh; dùng tay không có thể đánh ngã được bò rừng và báo tuyết; họ cũng có bộ lạc, có công cụ sản xuất của riêng mình, có điều so với công cụ của chúng ta thì hơi kém một chút. Hầu hết đều bằng đá, cũng có một ít chế phẩm kim loại. Nhưng truyền thuyết về họ rất ít, dù sao thì trong chúng tôi cũng chưa ai từng thấy họ cả, mà có rất nhiều truyền thuyết còn do người Hạ Qua Ba kể lại cho chúng ta nữa.”

Thấy phần nội dung truyền thuyết mà Địch ô An Cát Mẫu kể ra quá ít, Nhạc Dương không khỏi chau mày lại, thoáng nheo mắt, anh liền thấy pháp sư Á La đang nhìn mình chằm chằm, ý chừng muốn nhắc anh đừng tùy tiện ngắt lời Địch ô An Cát Mẫu nữa.

Địch ô An Cát Mẫu thấy Nhạc Dương không còn câu hỏi nào khác, mới tiếp tục nói: “Thực ra, tổ tiên chúng tôi tới vùng đất này là để tránh chiến tranh loạn lạc, những người tới đây gần như đều có cùng một mục đích ấy. Người Qua Ba là nhóm cuối cùng thiên di tới chốn này, nhưng lại là những người mạnh mẽ nhất, tuy họ cũng giống như chúng ta, đều được gọi là hậu nhân của người ở hang, nhưng niên đại cách nhau quá xa, nên giữa hai bộ tộc có những khác biệt rất lớn. Bọn họ chiếm cứ tầng cao nhất vốn thuộc địa bàn của người núi tuyết, đồng thời điều động nhân thủ ở Thánh vực xây dựng nên Bạc Ba La thần miếu, không có bộ tộc nào dám phản kháng cả.”

“Tại sao lại chọn tầng cao nhất?” Đội trưởng Hồ Dương buột miệng hỏi. Tầng bình đài thứ hai này ước chừng ở độ cao khoảng bốn nghìn mét so với mực nước biển, còn tầng thứ ba thì xấp xỉ đạt sáu nghìn mét, gần đến lằn ranh tuyết, mà độ cao quá năm nghìn mét so với mực nước biển không thích hợp cho con người sinh sống, đây là thường thức hiển nhiên.

Địch ô đại nhân đáp: “Tại sao ư? Có thể vì người ở trên đó ít nhất. Trước khi người Qua Ba tới đây, tầng bình đài thứ ba hầu như chỉ có người núi tuyết, môi trường trên đó không thích hợp lắm cho các bộ tộc khác sinh sống, nhưng khi người Qua Ba cưỡng chiếm nơi đó, những người núi tuyết phản kháng hoặc bị giết, hoặc đều bỏ trốn cả. Về sau mới có truyền thuyết kể rằng, bộ tộc Qua Ba tìm được một nơi gần như hoàn mỹ, vì chỗ đó lúc nào cũng có băng tuyết và sương mù bao phủ, nên chưa từng được phát hiện bao giờ. Tương truyền rằng, nơi ấy có một vùng đất rộng lớn, không có thời tiết biến đổi, không có những khu rừng Xương Trắng và lũ ác thú khủng khiếp, lại rất gần núi Thần. Ở nơi ấy, đồng cỏ mãi mãi một màu xanh, mãi mãi ấm áp, mây mãi mãi giữ một màu trắng, từ đầu năm tới cuối năm đều là mùa xuân. Cũng có truyền thuyết nói rằng, người Qua Ba đã tạo nên tất cả những thứ ấy, tóm lại là, trong truyền thuyết, người Qua Ba thực sự rất lớn mạnh, họ có những loại vũ khí mạnh nhất, có vu sư mạnh nhất, có quân đội mạnh nhất, kỹ nghệ của họ khiến người ta phải kinh ngạc, trí tuệ của họ lại càng cao tuyệt. Họ không sử dụng chữ Mã Nhĩ nữa, mà dùng một loại văn tự khác, lại còn phát minh ra thứ dùng để viết chữ, không cần viết trên vỏ cây nữa. Chẳng những thế, họ còn có thần thông thao túng được cả ngọn lửa, khiến khúc cây tự động di chuyển...” Nói tới đây, Địch ô An Cát Mẫu ngừng lại, mỗi lần nghe thấy các thông tin này, những người từ bên ngoài đến thông thường đều hết sức kinh ngạc.

Có điều, mấy người này hình như chẳng hề ngạc nhiên một chút nào, mà chỉ tiếp tục hỏi: “Về sau thì sao? Sau khi người Qua Ba chiếm lĩnh tầng bình đài thứ ba thì thế nào?”

“Về sau...” Địch ô đại nhân lục tìm trong ký ức, “truyền thuyết kể rằng họ đã xây dựng rất nhiều tòa thành đá trên tầng bình đài thứ ba, đến cả những người thợ xây bị chiêu mộ cũng phải thừa nhận đó là một kỳ tích, là điềm lành do thần ưng trên trời đưa tới, những truyền thuyết tôi vừa kể cho mọi người đó cũng là do họ mang về. Nhưng về sau người Qua Ba đã bảo vệ rất chặt những tòa thành ấy, họ đuổi hết những người khác xuống các tầng dưới, mọi bộ tộc khác đều không được phép đặt một chân lên tầng thứ ba này, vì thế, những chuyện xảy ra sau đó, chúng tôi cũng không thể nào biết được. Cũng từng có người thử tìm cách lén lên tầng thứ ba, nhưng nghe nói những người Thượng Qua Ba ở trên đó đều không chút nương tình mà giết sạch tất cả những kẻ nào dám đặt chân lên đất cấm của họ.”

“A, sao lại thế?” Mã Cát không kìm được buột miệng thốt lên. Kể cả pháp sư Á La, tất cả những người khác đều cảm thấy thật khó tin.

“Nếu những người lên đó đều bị giết chết, vậy làm sao tin tức lan truyền xuống dưới đây được?” Nhạc Dương thắc mắc.

Địch ô đại nhân đáp: “Thì cũng có những dũng sĩ liều chết lên tầng bình đài thứ ba và may mắn chạy thoát trở về. Trước đây, người Thượng Qua Ba về đại thể cũng giống như chúng tôi, phân bố khắp nơi, chủ yếu sống thành các bộ lạc, mà giữa các bộ lạc cũng có tranh đấu, hiềm khích, vì vậy, chỉ cần ở trên đó cẩn thận không để gặp phải bọn họ thì cũng vẫn còn cơ may sống sót trở về. Đương nhiên, những tin tức này cũng mới lan truyền đi từ một hai trăm năm gần đây. Theo các truyền thuyết xa xưa của bộ tộc, vào khoảng mấy trăm năm trước, những người lên tầng bình đài thứ ba đó đều tuyệt đối không có bất cứ cơ hội nào để sống sót trở về, nhất loạt đều ra đi rồi biến mất vĩnh viễn.”

Đám Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn nhau ngơ ngác. Không đúng rồi, cách nói này hoàn toàn không khớp với những gì họ đã biết. Bộ tộc Qua Ba chính là Đạo quân Ánh Sáng, đó là một cánh quân hoàn chỉnh, sao lại có thể phân chia thành các bộ lạc khác nhau được? Lẽ nào vì thời gian quá lâu, Đạo quân Ánh Sáng cũng bị phân chia thành từng nhóm nhỏ, rồi tranh đấu với nhau để giành được quyền thống trị tối cao? Còn pháp sư Á La thì lại càng thầm khẳng định, tuyệt đối không thể nào, nhất định là có sai sót gì ở đâu đó? Truyền thuyết sai ư? Hay là những người tự xưng đã lên tầng thứ ba ấy, căn bản chưa từng đặt chân lên đó, chẳng qua chỉ bịa tạc ra để lòe bịp mọi người mà thôi?

“Họ lên đó làm gì vậy?” Nhạc Dương thắc mắc.

“Làm gì ư?” Địch ô An Cát Mẫu cười khổ đáp: “Tại sao các vị lại không ngại đường xa ngàn dặm, không sợ bao hiểm nguy gian khó trùng trùng trên đường để tới tận nơi này? Tại sao khi đồng bạn tử thương vô số, các vị cũng vẫn không chịu quay đầu? Đừng nói vói tôi rằng, các vị đến được đây mà không hề thương vong gì. Vậy thử hỏi, các vị vì điều gì mà nhất định phải lên tầng bình đài thứ ba ấy?” Nhạc Dương toan mở miệng, Địch ô An Cát Mẫu lại tiếp lời: “Chúng tôi, cũng giống như các vị thôi, nghe nói phía trên đó có vùng đất được thần linh ban phước, có thức ăn không bao giờ cạn kiệt, không có thiên địch và dã thú xâm hại, có ai mà không muốn tận mắt nhìn thấy một lần trong đời chứ? Tình trạng của chúng tôi ở đây thế nào, các vị cũng đều đã thấy cả rồi, chiến tranh, bệnh dịch, dã thú đầy rẫy khắp nơi, mỗi ngày chúng tôi đều phải vật lộn vùng vẫy trên lằn ranh sinh tử, mỗi năm đều bị cái đói và bệnh tật cướp đi không biết bao nhiêu sinh mạng. Càng huống hồ, những năm gần đây, những người ‘giáp mễ’ từ bên ngoài đến như các vị mỗi lúc một nhiều, từ nơi bọn họ, chúng tôi biết được rằng ở bên ngoài có một thế giới hoàn toàn khác với nơi đây, một thế giới rộng lớn vô cùng. Một thế giới, nếu đi bộ thì tốn mười năm cũng chẳng thể đi hết. Những người ấy có màu da khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, lại còn phát minh ra những thứ dẫu có trong mơ chúng tôi cũng không thể tưởng tượng ra nổi nữa. Thử hỏi, các vị có biết rằng, những người sống ở đây khát khao được rời khỏi chốn này thế nào hay không? Họ khát khao được ra xem thế giới bên ngoài ấy, tận mắt nhìn thấy con chim sắt biết bay trong truyền thuyết, nhìn thấy những con sâu sắt khổng lồ có bánh, không cần sức người sức ngựa cũng có thể lao như bay về phía trước...”

Cứ nói, nói mãi, khóe mắt Địch ô đại nhân cũng hơi ươn ướt: “Thế nhưng, người Qua Ba đã xây nên một rào chắn không thể nào vượt qua ở phía trên đó, họ khiến người bên ngoài không thể tìm được nơi này, đồng thời cũng khiến người ở trong đây không thể ra thế giới rộng lớn ngoài kia. Nhiều lúc, những người dân bình thường có thể sẽ cho rằng, những dũng sĩ đã lên trên ấy và không bao giờ trở về nữa, chắc hẳn đã tìm được lối ra, và rời khỏi nơi đây rồi cũng nên. Tuy rằng biết rõ là không thể nào thế được, nhưng họ vẫn không sao kìm nén được suy nghĩ ấy. Càng huống hồ, rất nhiều lúc, chúng tôi còn buộc phải lên trên đó nữa.”

Địch ô An Cát Mẫu lại đổi giọng, chầm chậm thở dài nói: “Như các vị đã thấy đấy, ở tầng thứ hai này thời tiết biến đổi rất đa đoan, có lúc chỉ cần một trận thiên tai thôi cũng đủ khiến cả một bộ lạc mất hết mùa màng rồi. Ví như mấy bộ lạc ở phương Bắc chẳng hạn, gặp một trận lụt lớn, vậy là chẳng thu hoạch được một hạt lương thực nào. Mà người Hạ Qua Ba thì cũng không phải năm nào cũng xuất hiện, có khi mấy chục năm họ mới xuất hiện một lần cũng không chừng. Để bộ lạc có thể tiếp tục sinh tồn, các dũng sĩ của Yaca buộc phải liều chết lên tầng thứ ba ăn trộm hạt giống, còn dũng sĩ của Langbu chúng tôi thì phải vượt qua rừng Xương Trắng xuống chỗ của người Hạ Qua Ba bên dưới. Lương thực của người Hạ Qua Ba lúc nào cũng sung túc dồi dào, nếu gặp may, thì thường thường cũng có dũng sĩ mang được hạt giống trở về. Có điều, đến giờ thì e rằng phía Yaca khó lòng mà trộm được hạt giống của họ nữa rồi, chỉ mong các bộ lạc bên đó vẫn có thể tiếp tục cầm cự được.”

“Tại sao thế?”

“Ba năm trước, các dũng sĩ đi trộm lương thực, kết quả là bị tiêu diệt toàn bộ, chỉ có một người chỉ còn một tay một chân bò về được đến Côn Ba Thoát, người đó mang về một tin tức, nói rằng, người Qua Ba đã có vương của họ rồi.”

Nhìn những ánh mắt có vẻ không hiểu lắm của những vị khách phương xa, Địch ô An Cát Mẫu giải thích: “Người Qua Ba vốn cũng giống như các bộ lạc ở tầng thứ hai này, họ phân tán ra sống ở các khu vực khác nhau theo từng bộ lạc, giữa các bộ lạc ấy thường có khoảng cách, dường như cũng không hòa bình gì cho lắm. Thế nhưng, một khi họ đã có vương, vậy thì tình hình sẽ hoàn toàn khác. Có nghĩa là, toàn bộ người Thượng Qua Ba trên tầng thứ ba đều đã được thống nhất thành một mối. Giờ thì chỉ biết hy vọng, bọn họ sẽ không tiêu diệt hết các bộ lạc như chúng tôi mà thôi.”

Pháp sư Á La lại hỏi: “Vậy còn Hạ Qua Ba tộc? Hạ Qua Ba tộc là như thế nào?”

Địch ô đại nhân gật đầu, nói: “Sự thực là, trong các truyền thuyết của đời trước lưu truyền lại, có một khoảng thời gian rất dài chúng tôi không hề biết về sự tồn tại của người Hạ Qua Ba. Khoảng chừng hơn trăm năm sau khi người Thượng Qua Ba xuất hiện, chúng tôi mới biết rằng còn có người Hạ Qua Ba nữa. Bọn họ nói rằng, họ và người Thượng Qua Ba cùng đến vùng đất này, nhưng không hiểu vì nguyên do gì, họ lại ở phía bên dưới mà không tiếp tục đi lên trên cao.”

“Vậy tại sao họ lại bị tiêu diệt thế?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Địch ô An Cát Mẫu cười khổ, lắc đầu: “Làm sao tôi biết được? Nhưng chắc đến quá nửa là có liên quan đến người Thượng Qua Ba rồi. Một hai trăm năm gần đây, những thôn làng bị tiêu diệt đa phần đều có liên quan đến người Thượng Qua Ba. Các thôn làng bên Yaca còn bị tiêu diệt nhiều hơn, ví như trộm lương thực bị phát hiện, là phải chuẩn bị tâm lý đón nhận kết cuộc ấy rồi.”

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: “Sao có thể vậy được!” Rất rõ ràng, những hạt giống ấy có lẽ chính là “lương thực vàng” mà đội trưởng Hồ Dương nói tới. Lẽ nào vì chất đất hay nguyên nhân nào đó khác, khiến cho sản lượng của “lương thực vàng” trồng trên tầng bình đài thứ hai này sau mấy đời liền giảm xuống? Mà dù có thế chăng nữa, những người Thượng Qua Ba kia có nhiều lương thực đến độ ăn chẳng hết, chia một phần cho cư dân ở tầng thứ hai này thì có làm sao? Lại còn cấm cửa người ta, một khi phát hiện kẻ nào xâm phạm, liền tiêu diệt toàn bộ thôn làng bộ lạc của họ, đây là đạo lý gì chứ? Còn người Hạ Qua Ba nữa, sao họ lại kinh động đến người Thượng Qua Ba? Ruộng của họ cũng có “lương thực vàng”, có thiếu thốn gì nữa đâu?

Pháp sư Á La đưa tay ngăn Trác Mộc Cường Ba lại, tiếp tục hỏi: “Chuyện người Hạ Qua Ba bị tiêu diệt xảy ra vào lúc nào vậy?”

Địch ô đại nhân đáp: “Ừm, chắc khoảng bốn năm trước gì đó, lúc đó cả thôn Côn Ba Thoát và Thư Đội Công Nhật đều bị kinh động, vì có cả một nhóm lớn người Thượng Qua Ba đi qua khu vực gần thôn làng bọn họ. Họ còn tưởng rằng làng mình sắp bị đồ sát nữa cơ.”

“Bốn năm trước, cũng chính vào khoảng thời gian đó, người Qua Ba điên ấy thoát ra khỏi nơi này. Nếu là vậy, nếu là vậy thì thời gian đã gắn kết với nhau rồi. Thì ra ngôi làng bên dưới bị người Thượng Qua Ba tiêu diệt, thang trời và bánh xe nước cũng bị người Thượng Qua Ba phá hoại. Nhưng mà, kết quả khám nghiệm thi thể cho thấy, những vết thương đó đều không phải do vũ khí của con người tạo nên, việc này thì giải thích thế nào đây nhỉ? Đúng rồi, Thủ hộ linh! Nhất định là thế rồi!” Nhạc Dương đã sắp xếp lại toàn bộ các đầu mối thành một đường liền mạch trong óc.

Nói tới đây, Địch ô An Cát Mẫu đã đứng lên, đảo mắt nhìn những vị khách lạ, đoạn tiếp lời: “Được rồi, đó là rất cả những gì tôi biết, nhiều chuyện bản thân tôi cũng không hiểu rõ cho lắm. Nếu các vị còn muốn tìm hiểu thêm nữa, hay là đến Tước Mẫu tìm Đại Địch ô Thứ Kiệt đại nhân của vương quốc Langbu chúng tôi đi, ông ấy biết rất nhiều bí mật. Vả lại, rất nhiều truyền thuyết tôi biết, đều là nghe ông ấy truyền lại cả.”

Thấy Địch ô đại nhân hơi cúi người, bọn Trác Mộc Cường Ba vội vàng đứng dậy nói: “Được Địch ô đại nhân cho biết nhiều điều như vậy, chúng tôi thực sự vô cùng biết ơn. Cũng làm phiền ngài lâu quá rồi, thật xin lỗi. Vậy, vậy chúng tôi, xin phép được cáo từ ở đây.”

Mã Cát đứng bên cạnh bèn cất lời mời: “Đến nhà em đi, nhà em ở ngay phía trước đây thôi...”

Địch ô đại nhân mỉm cười nói: “Có gì đâu, vừa nãy nghe nói có người Hạ Qua Ba đang phân phát thức ăn, lại còn trị bệnh cho người trong thôn chúng tôi nữa, tôi phải cảm ơn các vị mới đúng. À, đợi đã... Cường Ba!”

Trác Mộc Cường Ba vừa bước ra đến cửa, ánh sáng của Shangri-la đang chiếu lên người gã. Gã quay người lại, thấy Địch ô đại nhân đang nhìn mình với ánh mắt kỳ lạ rồi cất tiếng hỏi: “Tôi có thể xem mắt của anh được không? Trác Mộc Cường Ba?”

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu. Địch ô đại nhân bèn đưa hai cánh tay gầy guộc khô héo ra, kéo mí mắt gã xuống, chỉ thấy bên dưới và hai bên nhãn cầu, có khá nhiều sợi tơ máu màu xanh rất khó nhận ra, thậm chí có sợi đã chuyển sang màu đen, thoạt trông giống như con sâu nhỏ màu đen đang bò theo nhãn cầu vươn thẳng vào trong xương sọ.

Địch ô An Cát Mẫu lùi lại một bước, hít sâu rồi thở hắt ra: “Không ngờ lại là nó.”

Bọn Trác Mộc Cường Ba dường như cũng biết Địch ô An Cát Mẫu nói đến thứ gì, pháp sư Á La kinh ngạc hỏi: “Địch ô nhận ra ư?”

Địch ô An Cát Mẫu đáp: “Ừm, Đại Thanh Liên cổ trong Địa Ngục Bát Đại Cổ Độc, thì ra các vị cũng biết, bao nhiêu lâu rồi?”

Trác Mộc Cường Ba không sao kìm nén được cảm giác vui sướng dâng trào lên trong tâm khảm, không ngờ chưa cần đến Bạc Ba La thần miếu, mới tới thôn làng đầu tiên ở Shangri-la đã có người nhận ra được loại cổ độc này rồi, thử hỏi gã làm sao mà không vui mừng ra mặt cho được. Gã nôn nóng nói: “Tôi, tôi vẫn còn ba tháng thời gian, Địch ô đại nhân, tôi... tôi... có thể trị được không vậy?”

Pháp sư Á La đứng bên cạnh bổ sung thêm: “Đây cũng là một mục đích tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu của chúng tôi.”

Địch ô An Cát Mẫu nhìn pháp sư Á La với ánh mắt ngờ vực, tựa như rất khó tin Bạc Ba La thần miếu lại có phương pháp trị liệu cổ độc, ông vân vê chòm râu dài, rồi khe khẽ lắc đầu: “Ừm, Đại Thanh Liên, không ngờ trong những năm còn sống trên đời này, tôi lại có thể thấy nó lần nữa. Tôi không biết cách giải, nhưng vẫn một câu nói đó thôi, hãy đi tìm Đại Địch ô Thứ Kiệt đại nhân. Trước đây, tôi từng thấy Đại Thanh Liên cổ một lần, chính là do ông ấy sử dụng.” Cả bọn đều hiểu ý của Địch ô An Cát Mẫu, nếu đã có thể sử dụng, vậy thì quá bán là cũng có thể giải trừ loại cổ độc này.

“Có điều...” Địch ô An Cát Mẫu lại bổ sung thêm, “tốt nhất các vị nên cẩn trọng, Thứ Kiệt đại nhân không dễ nói chuyện như tôi đâu.”

“Vậy thế, từ đây đến Tước Mẫu cần bao nhiêu thời gian vậy?” Nhạc Dương hỏi thêm.

Địch ô đại nhân đáp: “Nếu không xảy ra chuyện gì, khoảng ba ngày đi bộ là tới nơi rồi.”

“Cám ơn, thật vô cùng cám ơn ngài!” “Cám ơn ngài lắm, Địch ô đại nhân.” Mỗi người đều bày tỏ sự cảm kích của mình với Địch ô An Cát Mẫu.

Rời khỏi căn nhà của Địch ô An Cát Mẫu, chỉ thấy Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam đã bị một đám đông vây kín. Hai cô đang khám bệnh cứu người, phân phát các thứ cần thiết cho cuộc sống, bận đến không ngơi tay ngơi chân ra được giây phút nào.

“Giáo quan!” “Cô Mẫn Mẫn!” Trương Lập và Nhạc Dương từ đằng xa đã ngoác miệng hét lên, họ đều nôn nóng muốn báo tin này cho hai người. Cường Ba thiếu gia được cứu rồi, đây là tin mừng tày trời chứ chẳng chơi!

Nghe thấy tin tức khiến lòng người phấn chấn ấy, Mẫn Mẫn hạnh phúc gục đầu vào vai Trác Mộc Cường Ba, kích động nói trong nước mắt: “Anh Cường Ba, đúng là người tốt sẽ có phúc, em biết là anh sẽ không sao mà.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Phải rồi, phải rồi, anh sẽ không sao đâu. Được rồi, đừng khóc nữa, bao nhiêu người đang nhìn kìa. Bọn Trương Lập, Nhạc Dương cũng sẽ cười em nữa đó.”

Lữ Cánh Nam đứng một bên, nét mặt cũng lộ vẻ hân hoan mừng rỡ. Cô liếc nhìn đám người đang chen chúc, vội gọi đội trưởng Hồ Dương và pháp sư Á La: “Mọi người, mau giúp tôi phân phát các thứ này.”

Nhạc Dương cảm thấy hơi tiêng tiếc, bèn nói: “Giáo quan, phân phát hết đồ ăn cho dân làng, vậy chúng ta thì sao?”

Lữ Cánh Nam nói: “Chúng ta ăn làm sao hết được nhiều thế? Nhưng đối với những người này, thì có thể cứu mạng họ đó! Nếu không tới đây, Cường Ba... làm sao... làm sao có thể...” Nói tới đây, trong mắt cô đượm lên một vẻ dịu dàng.

Cả bọn bận rộn suốt cả ngày trời, Mã Cát nhìn Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thuần thục chữa trị cho dân làng, nghiêng đầu nghĩ ngợi gì đó, rồi nhân lúc rảnh rỗi, gọi Mẫn Mẫn ra nói: “Chị Mẫn Mẫn, ngày mai nếu mọi người có thời gian, em muốn, em muốn nhờ mọi người đến thăm mấy người bệnh nặng lắm.”

Đường Mẫn nói: “Ngày mai à, ngày mai bọn chị phải đi Tước Mẫu rồi, bệnh của anh Cường Ba phải trị gấp. Hay là tối nay em dẫn đi luôn, biết đâu có thể giúp được gì cho họ.”

Mã Cát len lén liếc mắt sang phía Trương Lập. Trương Lập nãy giờ vẫn chăm chú ngắm nhìn Mã Cát, thấy cô đưa mắt qua, hai má liền đỏ bừng lên, cố làm ra vẻ bình tĩnh ngoảnh đầu đi. Bấy giờ, Mã Cát lại lấy làm khó xử nói: “Ngày mai đã đi rồi sao?”

“Ừ, nhưng bọn chị sẽ trở lại thăm em mà.”

“Tối nay thì không được rồi, chỗ đó ở bên ngoài thôn làng cơ. Ngày mai, ngày mai mọi người cũng sẽ đi qua nơi ấy đấy.” Mã Cát nghĩ ngợi giây lát, rồi nói.

“Được rồi.” Đường Mẫn liền gật đầu đáp ứng.


Chú thích:

1. Australopithecus.

Lịch sử Thánh vực

Buổi tối, cả bọn kéo đến nhà Mã Cát. Nhà cô ở phía Bắc thôn, nằm bên con sông nhỏ, căn nhà không lớn lắm, nhưng được quét dọn rất sạch sẽ. Nhà chia làm hai tầng, có cầu thang độc mộc dẫn lên xuống, hai tầng đều trổ ô cửa sổ nhỏ hướng về phía ánh sáng, chỗ thông phong có bếp lửa. Trong nhà gần như không có đồ đạc gì, chỉ có mấy món đồ thêu đơn giản treo trên tường.

Bữa tối rất bình thường, chẳng có gia vị gì, thức ăn đạm bạc, song cũng đã lâu lắm rồi họ không được ăn thứ gì ngoài lương khô. Cơm nắm, bánh rau dại, một ít nấm ngâm muối hoặc hong khô, trộn với thứ bột cay cay giống như ớt, Mã Cát còn lấy ra một loại thức uống tự chế khá giống rượu gạo, mấy người bọn đội trưởng Hồ Dương đều nức nở khen ngon.

Trong bữa ăn, Trác Mộc Cường Ba hỏi Mã Cát về lịch sử của Thánh vực và tình hình các thôn làng xung quanh. Cô bèn kể lại một lượt những gì mình biết, những truyền thuyết đã được nghe cho họ.

Thánh vực này được ai phát hiện, phát hiện vào lúc nào thì từ lâu đã chẳng còn ai biết được. Chắc là từ rất lâu, rất lâu trước đây, hơn một vạn năm trước, đã có những cư dân nguyên thủy cư trú ở gần núi tuyết phát hiện ra chốn này. Vì nơi này không có gió thốc dữ dội, có thể coi là một ốc đảo giữa vùng băng tuyết, nên lẽ tự nhiên là có người di cư tới đây. Trải qua hơn vạn năm, không biết đã có bao nhiêu bộ tộc thiên di tới. Tính riêng các bộ tộc mà Mã Cát biết, đã có thôn Mã Ba ở gần đây tự xưng là hậu duệ của người Cát, mà người Cát lại phát triển từ người dân tộc Mục mà ra; dân làng Đa Ngưỡng thì cho rằng tổ tiên của mình là người dân tộc Niên đầu sói; các làng Qua Ninh, Na Ninh thì lần lượt là hậu duệ của người Côn Ngô, người Vi; làng Vị Huyết Nhẫn khá lớn mạnh là hậu duệ của bộ tộc Bạch Lang;... gần như mỗi thôn làng đều là một chủng tộc khác nhau.

Pháp sư Á La nghe khá chăm chú, phát hiện ra một điều đáng kinh ngạc, mấy chủng tộc mà Mã Cát thuận miệng kể ra ấy, không ngờ bao gồm cả những chủng tộc khởi nguyên trong truyền thuyết của người Tạng và cả tộc Khương, tộc Địch trong các ghi chép lịch sử thời Hạ, Thương, Chu. Khoảng cách về cả thời gian và cương vực của những dân tộc này đều cực lớn. Nói một cách dễ hiểu hơn, thì ở đây vừa có người triều Hạ, vừa có người triều Thương, hay người nước Tần, nước Tề thời Chiến Quốc là hàng xóm, hoặc Hung Nô triều Hán và Đột Khuyết thời Đường ở sát cạnh nhau, đi vài bước là tới.

Về lịch sử của Thánh vực thì Mã Cát cũng chỉ biết ngần ấy. Tới đây sớm nhất là người núi tuyết, cũng có truyền thuyết nói rằng, người núi tuyết vốn là những sự sống được núi tuyết mang thai đẻ ra, vì vậy bọn họ vốn đã cư trú trên tầng bình đài thứ ba kia rồi. Về sau mới lục tục có những người khác tới đây. Mới đầu người ít, đất rộng, ai nấy đều tìm những vùng đất thích hợp để sinh sống, sản xuất, mọi sự hết sức bình an vô sự. Về sau khi người dần đông lên, không tránh khỏi việc xuất hiện những tranh chấp. Thánh vực này cũng chẳng khác gì những nơi khác bên ngoài, hết phân rồi lại hợp, hợp rồi lại phân, có điều quy mô và mức độ thảm khốc nhỏ hơn rất nhiều mà thôi. Cũng đã từng xuất hiện một khoảng thời kỳ thống nhất ngắn ngủi, nghe đâu gọi là Vương triều Thái Dương gì đó, nhưng thời gian cũng không được dài lắm, sau rồi lại phân khai. Còn về người núi tuyết ở tầng bình đài thứ ba, vì việc lên xuống một tầng không phải chuyện dễ, vả lại thời đó tầng thứ ba ấy còn chưa có người Qua Ba xuất hiện, không giống như bây giờ. Thời đó, trên tầng thứ ba cũng thiên tai liên tiếp, mà có những nơi còn thoắt nóng thoắt lạnh, ngoài người núi tuyết ra, đó không phải là nơi thích hợp cho tất cả mọi người cùng sinh tồn, vì vậy, trong truyền thuyết, suốt một hai vạn năm liền đều chỉ có người núi tuyết sống ở trên đó.

Nhạc Dương lại hỏi cặn kẽ Mã Cát về tình hình của những người tuyết ấy, đặc biệt là sau khi bị người Qua Ba đánh bại, kết cục của họ như thế nào? Nhưng Mã Cát chỉ có thể lắc đầu trước câu hỏi ấy. Người ở bên ngoài thi thoảng còn có cơ hội thấy bóng dáng người tuyết, nhưng người ở Thánh vực thì không như vậy, bọn họ cơ hồ chưa từng thấy người núi tuyết lần nào, mà biết rằng có một chủng người như vậy nhờ các truyền thuyết cổ xưa. Vả lại, họ nhớ đến người núi tuyết đa phần cũng chỉ vì người Qua Ba, còn chuyện người núi tuyết bị người Qua Ba đánh bại, bỏ trốn, trốn chạy đến nơi đâu thì ai có thể biết được chứ?

Nhạc Dương không khỏi thêm một lần thất vọng, đành nghe Mã Cát kể tiếp.

Thời bấy giờ cũng có những bộ tộc đến đây, phát hiện nơi này không thích hợp cho họ sinh tồn, rồi lại ra đi. Nhưng nơi này gần như hoàn toàn ngăn cách với thế giới bên ngoài, nên dù là tới đây, hay rời khỏi nơi đây, cũng phải chuẩn bị sẵn tâm lý mười người chỉ có thể sống một, đồng thời phải đối mặt với kết quả đó. Nhưng rốt cuộc vẫn có những người sống sót rời khỏi nơi đây, họ đã mang sự tồn tại của Thánh vực này lan truyền đi khắp nơi như một thần thoại. Vì vậy, từ hơn nghìn năm trước, ở cao nguyên Thanh Tạng chắc hẳn có khá nhiều người đã nghe nói đến các truyền thuyết tương tự, biết rằng có một nơi như thế tồn tại trên đời, cho tới khi những người Qua Ba đến đây.

Vào khoảng hơn một nghìn năm trước, một nhóm người Qua Ba đông nhất đã đến nơi này, sự lớn mạnh của họ khiến tất cả những bộ tộc khác ở Thánh vực đều không dám phản kháng. Mới đầu mọi người còn chưa biết đến sự tồn tại của họ, đợi khi phát hiện ra, thì người Qua Ba đã chiếm cứ toàn bộ tầng bình đài thứ ba, đồng thời đánh đuổi người núi tuyết ra khỏi vùng đất của họ. Bấy giờ cư dân Thánh vực còn ngỡ rằng nơi này sẽ lại thống nhất về một mối, nhưng về sau mới phát hiện ra, người Qua Ba vốn không hề có dự định này, họ chỉ đến các thôn làng bắt đi thanh niên trai tráng để lên tầng thứ ba xây dựng thành trì. Đồng thời, họ cũng mang đến cho cư dân ở Thánh vực một tin tức: bên ngoài núi tuyết đang chìm vào một thời kỳ đen tối nhất, hỗn loạn nhất; để tránh chiến hỏa lan đến nơi đây, Thánh vực đã bị bọn họ phong tỏa, cấm chỉ bất cứ người nào ra vào. Ngoài ra, họ cũng hứa sẽ mang đến cho tất cả một cuộc sống an cư lạc nghiệp. Quy củ được đặt ra từ đấy. Sau đó, thì không còn ai có thể ra thế giới bên ngoài kia nữa.

Nghe nói là không chỉ có một tòa thành đá, không biết bao nhiêu đời người, bỏ ra hơn trăm năm mới hoàn thành. Tất cả cư dân Thánh vực đều vô cùng hân hoan chờ người Qua Ba thực hiện lời hứa của họ, mang đến cho mọi người một cuộc sống no đủ, không có bệnh tật, người cấy cày có ruộng có vườn, ai ai cũng có nhà ở thoải mái. Chẳng ngờ rằng, sau khi xây xong các tòa thành đá, người Qua Ba trên tầng thứ ba ấy liền không còn liên hệ gì với họ nữa. Còn những người già thuộc nhóm cuối cùng tham gia xây dựng những tòa thành đá ấy, cũng không nói năng nửa lời về chuyện này, tựa hồ đã xảy ra biến cố kỳ lạ gì đó, chỉ trong những lúc hồi tưởng lại, mới cảm thán thốt lên hai tiếng: “Kỳ tích!”

Sau rồi thì chuyện về tầng thứ ba và người Qua Ba đều nhạt dần, cư dân Thánh vực lại sống cuộc sống vạn năm nay vẫn không thay đổi của họ, chỉ có điều, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, không còn người nào rời khỏi đây nữa. Nói tới đây, Mã Cát đặt một ngón tay lên môi dưới, nghiêng nghiêng đầu nghĩ ngợi gì đó, rồi ngạc nhiên thốt lên: “Kỳ lạ lắm nhé, sau khi các tòa thành đá được xây, trong các truyền thuyết kể lại, suốt mấy trăm năm liền Thánh vực đều không có chiến tranh nổ ra. Lúc ấy mọi người còn rất đoàn kết, sống tự cấp tự túc, không tranh đoạt gì cả.”

Sau một thoáng kinh ngạc, Mã Cát kể tiếp, không rõ từ lúc nào, Thánh vực lại bắt đầu bùng nổ chiến tranh, kể từ đó thì chiến loạn kéo dài liên tu bất tận, thôn làng đánh với thôn làng, bộ lạc đấu với bộ lạc, rồi lại hình thành nên các liên minh thôn làng, liên minh bộ lạc, rồi các liên minh đánh nhau, đánh mấy chục mấy trăm năm liền, cuối cùng thì lấy biển Sinh Mệnh làm ranh giới, hình thành nên hai vương quốc lớn Langbu và Yaca. Sau khi hai vương quốc lớn này được thành lập, từng có một độ huy hoàng, tưởng rằng đã lớn mạnh lắm. Không biết ai đã đề xướng ra việc lên tầng thứ ba, nhưng chẳng ai ngờ được rằng, đội quân mà họ tưởng là mạnh mẽ ấy, mới lên tầng thứ ba đã bị tiêu diệt toàn bộ. Khi đó, người ta mới nhớ ra quy củ mà người Qua Ba đã đặt ra từ thuở trước: bất cứ ai, cũng không được ra vào!

Chuyện Mã Cát biết, đại để cũng chỉ có vậy. Bọn Trác Mộc Cường Ba cũng đã biết, ở thôn Công Nhật Lạp và các thôn làng khác, dân chúng thông thường đều chỉ có ngôn ngữ của mình mà không biết chữ, người duy nhất thực sự hiểu biết và nắm bắt được các tri thức, e rằng chỉ có vị Địch ô trong thôn làng. Còn tư liệu văn hiến, thì chỉ Đại Địch ô của vương quốc mới có. Cũng may là Mã Cát từ nhỏ đã rất thân cận với Địch ô An Cát Mẫu, nên mới nghe được từ nơi ông khá nhiều điều.

Nhạc Dương nghe hết sức chăm chú, trong đầu không ngừng sắp xếp lại các đầu mối, bộ não hoạt động cơ hồ hết công suất. Thời kỳ hắc ám, hỗn loạn nhất ở bên ngoài núi tuyết mà những người Qua Ba ấy nói, chắc hẳn chính là cuộc diệt Phật, cấm Phật quy mô lớn nhất. Sau đó họ cấm chỉ người ở đây ra bên ngoài, tự nhiên là có liên quan đến việc họ mang theo số báu vật của Tứ Phương miếu kia. Một khi có người ra được bên ngoài, thì sẽ có khả năng tiết lộ bí mật của nơi này, mà số báu vật ấy đủ để mang đến cho cả Thánh vực này tai họa diệt vong. Còn những tòa thành đá mà họ phải xây dựng mất hơn trăm năm mới hoàn thành kia, rất có thể trong đó có một tòa chính là Bạc Ba La thần miếu! Mặc dù không cho người ở đây ra ngoài, nhưng bản thân họ nhất định đã phái người trở ra, vị sứ giả đến Cổ Cách có lẽ đã đi ra từ nơi này? Nhiệm vụ của ông ta, hẳn là đi xem xem thời kỳ đen tối ngoài kia đã kết thúc chưa? Không, không đúng rồi, người Qua Ba mạnh như vậy, nếu lúc ấy họ biết được thời kỳ đen tối kia đã kết thúc rồi, nếu họ đã có năng lực mang báu vật của Tứ Phương miếu tới đây, vậy thì nhất định cũng có khả năng mang chúng trở ra bên ngoài, hà tất phải để sứ giả mang theo tín vật chỉ dẫn phương hướng, để hậu nhân khai quật lên làm gì? Đúng rồi, người Qua Ba đã hứa với cư dân ở Thánh vực sẽ cho họ một cuộc sống an định thanh nhàn, sau đó mới bắt đầu xây dựng nhiều tòa thành đá. Từ quy mô thôn làng của người Hạ Qua Ba, có thể thấy rằng họ thực sự có năng lực làm được điều đó, cũng có nghĩa là, ban đầu đúng là họ định làm như thế. Nếu như Đại Thiên Luân kinh là do người Qua Ba viết nên, vậy thì có một số chi tiết lịch sử trong đó, hẳn là đã kết hợp thần thoại của họ với lịch sử của Thánh vực này mà viết nên, từ đó suy ra, sự tồn tại của Shangri-la thiên đường hạ giới, chắc hẳn là một ý tưởng của họ. Vậy thì tại sao, sau khi xây thành xong, họ lại đoạn tuyệt quan hệ với cư dân Thánh vực? Tại sao sau đó mấy trăm năm liền Thánh vực đều không có chiến tranh? Đọc trong các ghi chép của thôn Công Bố, thì chiến tranh cũng chỉ bùng nổ vào khoảng một hai trăm năm gần đây mà thôi, phải chăng người Qua Ba đã làm gì đó? Làm sao họ có thể làm được? Trên tầng thứ ba kia, đã xảy ra biến cố? Rốt cuộc đó là biến cố gì? Lẽ nào biến cố ấy đã khiến bộ tộc Qua Ba hùng mạnh nhất cũng lực bất tòng tâm với việc ra khỏi chốn này? Nhưng Mã Cát nói, trong khoảng trăm năm trở lại đây, cũng từng có vô số người muốn lên tầng thứ ba ấy, mà chẳng ai sống sót trở về, chứng tỏ ở trên đó, vẫn còn thực lực mang tính áp đảo! Rốt cuộc là chuyện gì đây?

Họ vẫn còn rất nhiều nghi vấn muốn hỏi, có điều sau bữa cơm, trời tối rất nhanh, mà người ở thôn Công Nhật Lạp đều có thói quen ngủ sớm. Trương Lập vốn muốn tìm Mã Cát nói chuyện, Nhạc Dương cũng rất cổ vũ, nhưng Trương Lập cứ ấp a ấp úng mãi chẳng biết nói gì, vừa vào đến nhà Mã Cát đã bỗng dưng biến thành bé ngoan ngồi im thin thít.

Phòng ốc nhanh chóng được sắp xếp xong xuôi, Lữ Cánh Nam, Đường Mẫn và Mã Cát ở chung một phòng, Trác Mộc Cường Ba, Trương Lập, Nhạc Dương ở một phòng, đội trưởng Hồ Dương, pháp sư Á La, Ba Tang ở một phòng.

Nằm trên tấm thảm da bò dễ chịu, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Nhạc Dương, cậu rất hứng thú với người núi tuyết hả?”

Nhạc Dương đáp: “Không phải, Cường Ba thiếu gia, lần trước tôi có nói với anh rồi mà, chúng tôi đã thảo luận với pháp sư Á La về quan hệ của người núi tuyết với Shangri-la? Sau đó, tôi và Trương Lập lại tìm được thêm một chút tư liệu trong máy tính của giáo sư Phương Tân. Cá nhân tôi cho rằng, tuy người núi tuyết đã bị đánh bại, nhưng rất có khả năng họ vẫn chưa bỏ đi, hoặc là bỏ đi rồi lại trở về, họ vẫn còn ở đây, ở trên tầng bình đài thứ ba kia kìa.”

Trác Mộc Cường Ba khẽ trở mình hỏi: “Sao lại nói thế?”

Nhạc Dương cũng nghiêng người qua, trả lời gã: “Đầu tiên, những người nước ngoài được gọi là chuyên gia kia, dẫu rằng họ có cái tư chất ấy hay không chăng nữa, nhưng đã có nhiều người quan tâm đến người tuyết như vậy, thì hẳn là cũng chẳng phải chuyện bắn tên không đích. Những câu chuyện thần thoại và truyền thuyết đó cũng không phải bịa tạc vô căn cứ. Lần trước, pháp sư Á La chỉ kể một câu chuyện rất đơn giản, nhưng trong văn hóa Tây Tạng, còn có rất nhiều thần thoại truyền thuyết tương tự như thế, có chuyện đã xuất hiện từ trước khi có các ghi chép lịch sử, cũng có chuyện được người đời sau chép lại. Bằng không, với năng lực và sức tưởng tượng của đám người nước ngoài ấy, cũng không thể nào mà liên hệ người tuyết và Shangri-la lại được với nhau đâu.”

Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, đoạn hỏi: “Thế thì sao chứ? Những nhà nghiên cứu nước ngoài ấy cũng chỉ muốn thông qua người tuyết để tìm đến nơi này. Chúng ta đã đến được rồi, lên tầng trên là có thể thấy được Shangri-la thực sự, đầu mối này đối với chúng ta đã đâu còn quan trọng lắm nữa?”

Nhạc Dương lắc đầu đáp: “Nhưng đây lại là một mặt để chúng ta hiểu thêm về người Qua Ba đó. Càng đến gần Bạc Ba La thần miếu, chúng ta càng phải sục sạo thêm các đầu mối, càng tìm được nhiều, khi tổng hợp chúng lại, mới có thể đưa ra kết luận gần với chân tướng sự thực nhất. Chẳng hạn, Nhạc Dương nói: “Theo lời Địch ô Cát Mẫu, người tuyết đã tiến hóa tới hình thái bộ lạc, đồng thời đã có cả công cụ bằng kim loại. Đây là một thể chế tương đối văn minh rồi, ít nhất cũng phải tương đương với Văn minh đồng thời thau thời nhà Thương. Nhưng tại sao những người tuyết được phát hiện cho đến nay, đa phần đều ở trạng thái người vượn hoang dã, trí lực đần độn vậy nhỉ? Rốt cuộc người tuyết có phải người núi tuyết không? Về vấn đề này, hiện tại chúng ta vẫn chưa thể có kết luận chuẩn xác được. Còn nữa, Người núi tuyết bị bộ tộc Qua Ba đánh bại bỏ chạy, đã chạy đi đâu rồi? Tại sao lại lưu truyền nhiều câu chuyện thần thoại dân gian và tôn giáo về họ đến thế? Càng không cần phải nói đến những người tự xưng là đã tận mắt chứng kiến từ thời cận đại đến nay, người nào người nấy đều miêu tả rất thật. Hơn nữa, tôi còn có phát hiện mới trong một số tư liệu...”

Nhạc Dương vuốt lại tấm thảm lông, hai mắt sáng bừng lên: “Ở Châu Mỹ, người Indian gọi quái vật chân to là ‘sa si kua zhi(1)’, về mặt phát âm ít nhất cũng có điểm tương đồng với phát âm của từ ‘người núi tuyết’ đúng không. Hơn nữa, tôi còn tìm được một số tài liệu viết rằng, một số bộ tộc Indian gọi thứ quái vật giống người là Uma. Theo các truyền thuyết đời đời lưu truyền trong bộ tộc, Uma cư trú ở gần miệng núi lửa St Helen’s, khi Đại thảm họa giáng xuống, Uma sẽ dẫn những người Indian trí tuệ tìm đến cái rốn của địa cầu, nơi tránh nạn duy nhất và cuối cùng. Tôi tin rằng, các tư liệu ấy cũng đã xuất hiện trong hồ sơ của các nhà nghiên cứu nước ngoài kia từ rất lâu rồi, thông tin ẩn chứa trong đó là gì chứ? Giáo quan đã từng nói, tất cả mọi sự việc đều không đột nhiên xuất hiện, vạn vật vạn sự đều có nguyên nhân của nó, dù là cách xa nhau nghìn vạn dặm đường, cũng tồn tại những đầu mối liên hệ mà ta không thể nhìn thấy.”

Trác Mộc Cường Ba đưa tay lên day day trán suy tư. Những lời Nhạc Dương hình như đã khơi gợi lên điều gì đó trong gã, nhưng hết sức mơ hồ, hình như trước đây gã đã từng tra tìm các tư liệu tương tự như thế thì phải.

Nhạc Dương nằm bên cạnh bèn nhắc nhở: “Châu Mỹ! Sứ giả! Maya!”

Trác Mộc Cường Ba liền sực nhớ ra, phải rồi, Maya ở châu Mỹ! Khi họ trở về từ Bạch thành, đã từng tốn rất nhiều thời gian nghiên cứu quan hệ giữa châu Mỹ và Tây Tạng. Có rất nhiều đầu mối rõ rệt cũng như ngấm ngầm chỉ ra, vị sứ giả ấy đã đến tận châu Mỹ xa xôi để chôn giấu Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, nhưng tại sao lại phải giấu chiếc gương đồng ấy, thì đến giờ họ vẫn hoàn toàn không hay biết. Có điều, hồi ức bất chợt ấy lại khiến Trác Mộc Cường Ba cảm thấy ảo não vô cùng, chuyện vừa mới xảy ra không được bao lâu, vậy mà gã đã hầu như quên sạch rồi, lẽ nào gã đã già nua đến mức ấy, hay là do Đại Thanh Liên cổ gây ra?

Nhạc Dương lại nói: “Nếu như, tôi chỉ nói là nếu như thôi nhé, cách xưng hô và truyền thuyết về dã nhân ở châu Mỹ là do vị sứ giả ấy mang đến, vậy thì tại sao ông ta phải làm vậy? Người núi tuyết có phải là Uma không? Chẳng phải họ đã bị đánh bại, đuổi đi rồi hay sao? Liệu có phải vì người núi tuyết đã cư trú ở đây mấy vạn năm, biết rõ các con đường dẫn tới nơi này trong núi tuyết? Nếu người núi tuyết không quay trở lại, Uma sao có thể tìm được cái rốn của địa cầu? Nếu người núi tuyết vẫn ở trên tầng bình đài thứ ba kia, vậy thì quan hệ giữa họ và người Thượng Qua Ba giờ là như thế nào? Phải chăng khi đối mặt với người Thượng Qua Ba, chúng ta đồng thời cũng phải đối mặt với một đám dã nhân khổng lồ cao đến ba bốn mét, toàn thân mọc đầy lông lá? Dĩ nhiên, đây đều chỉ là suy đoán của cá nhân tôi, không có chứng cứ gì hết.” Nhạc Dương nói tới đây, cũng cảm thấy không chắc chắn lắm, xét cho cùng, nghĩ ngợi rồi suy đoán lung tung cũng không phải là con đường chính để nghiên cứu khoa học.

Trác Mộc Cường Ba cười cười, hỏi: “Trương Lập thì sao? Cậu có ý kiến gì không?”

Không nghe thấy Trương Lập đáp lời, Nhạc Dương mới phát hiện, anh và Cường Ba thiếu gia thảo luận cả một hồi lâu mà Trương Lập cũng không tham dự lấy nửa lời, bèn ngoảnh đầu lại nhìn. Thì ra, Trương Lập sớm đã ngủ tít thò lò từ lúc nào rồi, chắc cũng lâu lắm anh không được ngủ trên tấm thảm nào dễ chịu như thế. Bôn ba cả một ngày, thực sự ai cũng rất mệt mỏi, Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương nói thêm vài câu nữa, rồi cũng ngủ luôn.

Sáng sớm hôm sau, việc đầu tiên Nhạc Dương làm khi thức giấc là lay Trương Lập: “Dậy đi, đồ lười!”

Trương Lập lúng búng trong miệng nói: “Mã Cát...” Hai chân kẹp chặt vào tấm thảm.

Nhạc Dương hơi ngả người ra phía sau, thốt lên: “Chậc chậc, anh trúng phải bùa phải ngải rồi hả? Ngủ mà cũng gọi tên người ta, tối qua lại không dám tìm người ta nói chuyện. Dậy đi, dậy đi!” Vừa nói, anh lại thúc thêm hai cái nữa, tiếng động làm Trác Mộc Cường Ba cũng giật mình tỉnh giấc.

“Để cậu ta ngủ thêm lúc nữa đi, Nhạc Dương.” Trác Mộc Cường Ba nói.

Nhưng Nhạc Dương lại phát hiện ra điều không ổn, vừa lắc vừa lay như thế mà Trương Lập không hề có phản ứng gì. Anh liền rờ thử lên mặt Trương Lập, kế đó vội vàng rờ lên trán mình, rồi lại đặt tay lên trán Trương Lập lần nữa, vội vàng nói: “Trương Lập bị sốt rồi!”

Trác Mộc Cường Ba khẽ cười nói: “Biết rồi, từ lúc gặp Mã Cát hôm qua, lúc nào mà cậu ta chẳng nóng bừng bừng lên.”

Nhạc Dương lắc đầu: “Không phải đâu, Cường Ba thiếu gia, anh ấy sốt thật đấy, đầu nóng như lửa vậy.” Anh rút ở bên cạnh chiếc đồng hồ đeo tay ra một cái cặp nhiệt độ cỡ bằng que tăm, quẹt quẹt hai ba cái lên áo rồi nhét vào miệng Trương Lập: “Đồ ngốc, ngậm vào. Sao lại sốt cao thế này?” Trương Lập làu bàu đáp: “Tôi có cố ý đâu.” Nhạc Dương đang chuẩn bị bảo tên này vẫn còn tỉnh táo, thì Trương Lập lại ú ớ bồi thêm một câu: “Em đẹp quá. Hừ hừ...” kế đó là một tràng những âm thanh lung búng không nghe rõ là gì.

Trác Mộc Cường Ba cũng lại gần rờ trán Trương Lập, rồi gọi lớn: “Mẫn Mẫn, em dậy chưa? Trương Lập bị sốt rồi, qua đây xem sao.”

Chỉ thoáng sau, Lữ Cánh Nam đã bước sang, Đường Mẫn ở phía sau, Mã Cát cũng đi theo. Lúc này đã có kết quả đo nhiệt độ cơ thể Trương Lập, không ngờ lại sốt cao đến 40 độ. Đường Mẫn nói: “Nhất định là vết thương hôm qua bị nhiễm trùng rồi, tối qua quên mất không xem vết thương cho anh ấy, mà anh ấy cũng chẳng nói gì, đều tại em hết, sao lại quên được cơ chứ.” Nói đoạn, liền vén chăn lên kiểm tra vết thương của Trương Lập. Mã Cát đỏ bừng mặt, xấu hổ quay đi, cô vẫn chưa từng thấy đàn ông chỉ mặc độc một chiếc quần cộc bao giờ. Có điều, thấy mọi người trong phòng đều không để ý, cô lại ngượng ngùng ngoảnh mặt lại, lo lắng nhìn vết thương của Trương Lập.

Trời vẫn chưa sáng hẳn, phải bật thiết bị chiếu sáng, chỉ thấy cánh tay Trương Lập vừa đỏ tấy vừa sung phù lên, đã mưng mủ. Lữ Cánh Nam nói: “Phải lập tức rửa vết thương cho cậu ta, tên nhãi này, như vậy mà cả ngày hôm qua không hé răng lấy một lời.”

Nhạc Dương thấp giọng lầm bầm: “Cả ngày hôm qua, anh ta cứ phiêu phiêu, thần hồn lơ lửng như hút ma túy, quá nửa là chẳng cảm thấy đau đớn gì đâu.”

“Phải đấy.” Đường Mẫn cũng khẳng định: “Em cũng cảm thấy hôm qua hồn phách Trương Lập cứ để đâu đâu ấy.” Nói đoạn, cô đưa mắt nhìn sang phía Mã Cát. Có điều họ toàn nói chuyện bằng tiếng phổ thông tiêu chuẩn, Mã Cát chỉ biết mở to mắt nhìn mà chẳng hiểu gì.

Rửa vết thương, bôi thuốc kháng sinh, hạ sốt, xử lý mọi thứ xong xuôi, Đường Mẫn ngước mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba không chút do dự, nói ngay: “Chúng ta đợi cậu ấy khỏe hẳn đã. Từ đây đến Tước Mẫu cũng không mất nhiều thời gian lắm, chẳng phải vậy sao?”

Nhạc Dương vỗ vỗ lên má Trương Lập, tỏ vẻ không biết làm sao hơn: “Đồ ngốc.” Rồi lại véo thêm một cái, vừa ngoẹo đầu, liền trông thấy vẻ mặt trách móc của Mã Cát, vội vàng nở một nụ cười hiền hòa, nhường vị trí của mình cho cô. Mã Cát quỳ xuống bên cạnh Trương Lập, thử đưa tay rờ trán anh, rồi lại vột vàng rụt tay về, dè dặt hỏi Nhạc Dương: “Anh Trương Lập vì em mới bị thương, phải không?”

Nhạc Dương thầm nhủ: “Đừng có mà ngốc, anh ta bị thương từ lâu rồi, liên quan gì tới cô đâu chứ.” Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng ngoài miệng anh chàng vẫn nói: “Chuyện này, chuyện này tôi cũng không rõ lắm, có lẽ, có thể... ừm... chuyện này...” đoạn quay mặt đi, thầm nghĩ: “Đồ thối thây, tôi nhân nghĩa với anh hết mức rồi đấy nhé, hì hì, đúng thật là...”

Đúng lúc ấy, Trương Lập lại ú ớ nói: “Mã Cát... em đẹp quá...” Tuy không hiểu Trương Lập nói gì, nhưng hai tiếng “Mã Cát” thì Mã Cát nghe rất rõ, rồi lại nhìn vẻ mặt những người khác, chẳng cần đoán cũng biết anh chàng kia đang nói gì. Nhớ lại cái bóng hoảng hốt bỏ chạy bên bờ hồ hôm qua, đôi mắt to tròn sáng rỡ như sao của Mã Cát chợt khép lại, bất giác toát lên một vẻ yêu kiều diễm lệ vô cùng.

Nhạc Dương thầm nghĩ: “Cái tên này bị sốt đến hồ đồ rồi hay vẫn còn tỉnh táo vậy nhỉ? Hừ, nhất định là đầu óc có vấn đề rồi, lúc tỉnh táo anh ta làm sao dám nói vậy trước mặt Mã Cát chứ?”

Lúc này trời đã sáng, đội trưởng Hồ Dương và những người còn lại cũng đều thức giấc, biết chuyện Trương Lập sốt cao, cả bọn đều đồng ý ở lại ngôi làng này nghỉ ngơi vài ngày. Khoảng thời gian này, ngày nào cũng phải qua lại giữa rừng rậm nguyên sinh đầy rẫy quái thú, có thể thấy đồng loại thêm mấy ngày cũng là điều tốt.

Lấy Trương Lập ra làm vật thí nghiệm, Đường Mẫn tranh thủ thời gian rảnh dạy cho Mã Cát một số kiến thức thông thường về chăm sóc người bệnh. Như đếm tốc độ truyền dịch, đo nhiệt độ cơ thể, Mã Cát học rất chăm chỉ và nghiêm túc. Thi thoảng Mẫn Mẫn lại ngẩng đầu lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, nhoẻn miệng cười với gã một cái, nội dung hàm chứa trong nụ cười ấy, thì chỉ có họ mới biết được.

Lúc này, Lữ Cánh Nam chợt nói: “Mã Cát, hôm qua không phải cô nói muốn dẫn chúng tôi đi thăm mấy người bệnh nặng sao? Giờ có thời gian rồi, bây giờ cô dẫn chúng tôi đi, hay là...”

“À!” Mã Cát giờ mới nhớ ra hôm qua mình đã nhờ họ đến thăm mấy người bệnh nặng. Cô đưa mắt nhìn Trương Lập, rồi lại ngước nhìn mọi người, vẻ mặt xem ra khó lựa chọn lắm. Đường Mẫn liền gợi ý: “Còn có ai khác biết chỗ ấy không?”

“À, mọi người đợi em một chút.” Mã Cát tựa như nhớ ra điều gì đó, chạy vù ra ngoài, thoáng sau đã trở lại, nói: “Địch ô đại nhân sẽ dẫn mọi người đi, em... em ở lại đây...” vừa nói, hai má cô lại ửng hồng lên.

“Được đấy, Mã Cát, vậy nhờ cô chăm sóc anh Trương Lập của chúng tôi nhé.” Mã Cát chớp chớp đôi mắt to tròn, nụ cười của Nhạc Dương thật kỳ quặc hết sức.

Đường Mẫn đeo thiết bị thông tin lên tai Mã Cát, chỉ cho cô cách sử dụng, rồi dặn: “Nếu xảy ra chuyện gì, thì dùng cái này báo với chúng tôi, dù cách rất xa cũng vẫn nghe thấy được.”

Đội trưởng Hồ Dương nhìn Nhạc Dương và Đường Mẫn với ánh mắt kỳ quặc, hỏi: “Tôi cũng ở lại chăm sóc Trương Lập chứ nhỉ?”

“Anh ở lại làm cái gì chứ?” Nhạc Dương vừa nháy mắt, vừa ra dấu tay. Đường Mẫn cũng phụ họa: “Trương Lập đã không còn gì đáng ngại nữa rồi. Đội trưởng Hồ có ở lại cũng chẳng giúp được gì đâu, chúng ta cùng đi thăm những người bệnh nặng kia đi, biết đâu anh lại giúp được cũng nên.” Đội trưởng Hồ Dương nhìn Trương Lập, rồi lại nhìn cô bé đang căng thẳng kia, rồi như đã hiểu ra, gật gật đầu nói: “Chúng ta đi thôi nào.”

Ra phía bên ngoài, Lữ Cánh Nam mới chất vấn Đường Mẫn và Nhạc Dương: “Hai người đang làm gì vậy?” Cô ngưng lại, nghiêm mặt hỏi: “Vấn đề của chúng ta vẫn chưa đủ nhiều hay sao? Đã tìm được Bạc Ba La thần miếu rồi sao? Tìm được Tử kỳ lân rồi à? Cổ độc trên người Cường Ba thiếu gia đã giải được rồi à? Phía sau còn có truy binh, phía trước ra sao thì chúng ta hoàn toàn không có manh mối, chặng đường này của chúng ta không thể có thêm chuyện rắc rối gì nữa đâu. Tôi biết, Trương Lập có tình cảm với Mã Cát, nhưng hai người cần gì phải ở bên cạnh đổ dầu vào lửa nữa? Hai người tưởng làm vậy là tốt cho cậu ta à? Hai người đã bao giờ nghĩ, chúng ta sắp phải rời khỏi nơi đây chưa? Hai người muốn để Trương Lập lại đây, hay là muốn khiến cậu ấy bất an lo lắng cho Mã Cát suốt chặng đường còn lại? Hay để cho cô bé ấy một mối tương tư khắc cốt ghi lòng? Đừng quên là giữa họ có khoảng cách rất lớn, căn bản không thể nào ở bên nhau được. Hơn nữa, chúng ta không phải khách du lịch, hành trình này vốn đầy rẫy những hiểm nguy, có thể mất mạng bất cứ lúc nào, vạn nhất Trương Lập... hai người có thể nghĩ đến hoàn cảnh của chúng ta trước rồi mới làm vậy được không?”

Đội trưởng Hồ Dương, pháp sư Á La và Ba Tang đều không bày tỏ thái độ, Nhạc Dương bị mắng cho một trận, chỉ biết cúi đầu. Nhưng Mẫn Mẫn thì không phục, cô ngẩng cao đầu nói: “Em cảm thấy...” Mới thốt lên được ba chữ ấy đã bị Trác Mộc Cường Ba tiếp lời: “Ha ha, tôi cảm thấy giáo quan nói rất có lý, đối với chuyện này, chúng ta nên giữ thái độ khách quan, việc của Trương Lập nên để tự cậu ta giải quyết, chúng ta không giúp đỡ, cũng không ngăn cản, phải vậy không?”

Đội trưởng Hồ Dương cũng nói: “Này, chúng ta đến chỗ Địch ô đại nhân đã, người ta đang đợi đấy.”

Lữ Cánh Nam chán nản lắc đầu, lòng thầm nhủ: “Không giúp sức à? Các người đã hết lòng giúp cậu ta rồi đấy thôi. Một cô bé tuổi mới lớn sống trong môi trường hoàn toàn bít kín, đối mặt với một gã bộ đội đặc chủng đến từ thế kỷ hai mươi mốt, các người bảo Mã Cát làm sao mà kháng cự nổi đây?”


Chú thích:

1. Sasquatch hay còn gọi là Big Foot, là một loài động vật linh trưởng rất hiếm gặp mà nhiều người cho rằng sống ở vùng hoang dã châu Mỹ. Mặc dù nhiều người tự nhận rằng đã thấy hoặc phát hiện ra dấu chân của Big Foot, nhưng cho đến nay vẫn chưa ai bắt được hay tìm thấy xác chết nào của chúng.

Bạn đang đọc Mật Mã Tây Tạng của Hà Mã
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 89

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.