Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

DÒNG SÔNG THẦN BÍ NHẤT TÂY TẠNG

Phiên bản Dịch · 20667 chữ

CHƯƠNG 45:

U MINH HÀ: DÒNG SÔNG THẦN BÍ NHẤT TÂY TẠNG

Từ lúc con người hình thành trong phôi thai, sự sống đã được nước bao bọc, tất cả các sinh vật đều có thiên tính ỷ lại, dựa dẫm vào nước, đây có lẽ cũng là một sự di truyền. Mà thôi, đây không phải điều tôi muốn nói. Ý tôi là, vừa nãy tôi vẫn luôn nghĩ, những câu kệ như “Các vị thần minh thuở trước vì muốn đem đến ánh sáng, chôn vùi bóng đêm, nên đã tìm lối vào địa ngục, trôi dạt trên dòng U Minh hà đen kịt như mực mấy nghìn vạn năm,” e rằng không phải ám chỉ đến việc một nghìn năm trước tôn giáo bí mật kia tiến vào Bạc Ba La thần miếu, mà là…

Lần đầu thăm dò

Pháp sư Á La nói: “Chúng ta chỉ còn một cuộn dây thừng cuối cùng nữa thôi, khoảng cách không đủ, nước chảy xiết thế này, các cậu vào rồi không thể ra được đâu, nếu ở cuối thông đạo này không phải hệ thống sông ngầm, hai cậu sẽ ngạt thở vì thiếu dưỡng khí đó.”

Trương Lập nói: “Hay là, Cường Ba thiếu gia và Nhạc Dương trở lại đây trước, chúng ta thương lượng rồi tính sau.” “Không cần.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu người điên đó thực sự ra bên ngoài theo lối này, trong kia nhất định là có không gian có thể sinh tồn, hơn nữa cũng nhất định có cách ra được bên ngoài thôi.”

Nhạc Dương cũng nêu ý kiến: “Chúng ta có thể rút thêm một đoạn dây thừng cố định trên vách đá nữa, hai người mang theo dây thừng dài nghìn mét, một chút khoảng cách này chưa làm khó chúng ta được đâu. Sao ạ, pháp sư?” “Nếu có sinh vật gì khác thì sao?” pháp sư Á La hỏi.

Nhạc Dương đáp: “Dù là có sinh vật gì khác, nếu thể hình đủ để gây uy hiếp đối với chúng tôi, nó không thể chui vào được cái hang này, còn nếu thể hình nhỏ hơn, với tốc độ dòng chảy như ở đây, nó cũng khó lòng mà bơi ngược dòng được lắm.”

Pháp sư Á La ngập ngừng: “Ừm… chuyện này…”

Trương Lập nói: “Hơi nguy hiểm đấy. Lặn trong hang động tôi có nghe rồi, nhưng chỉ là lặn trong các hang động có nước lặng hoặc dòng chảy chậm thôi. Còn lặn trong hang động có dòng nước xiết thì dường như chưa có người nào dám liều mạng cả đâu. Tầm nhìn trong các hang động ngầm dưới nước may ra được năm mét là cùng, chẳng may không nắm chắc dây thừng chẳng biết sẽ bị cuốn trôi đi đến tận chỗ nào, sao mà cậu ra được?”

Nhạc Dương nói: “Không cần lo lắng, tôi đã đích thân trải nghiệm ở trong ấy rồi, sau khi rẽ qua chỗ ngoặt thứ ba, dòng chảy đã không còn mạnh như ngoài cửa hang nữa rồi, vả lại chúng tôi sẽ cố định chặt dây thừng vào kẽ đá, tôi có thể đảm bảo được an toàn. Cường Ba thiếu gia, anh thấy sao?”

Trác Mộc Cường Ba nhớ lại tình cảnh lúc bọn gã ở địa ngục của lửa và nước trong địa cung Maya, tuy nhiên tình hình có đôi chút khác biệt, lúc đó bọn gã trang bị không đầy đủ, còn lần này bọn gã đã có kinh nghiệm hơn trước rất nhiều. Cuối cùng gã cũng gật đầu nói: “Ít nhất cần ba người, một người canh chừng ở cửa hang, hai người vào trong, có gì còn tiếp ứng cho nhau được.”

Nhạc Dương lập tức nói: “Trương Lập, gỡ dây thừng trên vách đá ra! Tôi và Cường Ba thiếu gia ở dưới này đợi anh.” Trong lúc chờ đợi, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Nhạc Dương, cậu đã vào bên trong rồi, nói cho tôi biết tường tận tình hình trong đó ra sao.”

Nhạc Dương đáp: “Ừm, tốc độ dòng chảy khoảng tám mét/giây. Phía trước hình như là khe nứt thiên nhiên, đoạn phía sau thì có cảm giác như đã được bàn tay con người tu tạo, bên trong có nhiều đá vụn lắm, vách bên rất phẳng, không sắc nhọn lởm chởm, cũng không giống những hang động bị nước xói mòn.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng lúc đến gần đầu bên kia thông đạo phải hết sức chú ý, nếu không gian đột nhiên mở rộng, ở chỗ đáy hang ấy nói không chừng là có mũi đá nhọn chìa ra đấy.”

Nhạc Dương đáp: “Chúng ta bám vào dây thừng chui vào cơ mà, những kẽ hở ấy rất tiện để đặt chêm đá, cứ mười mét lại cố định một cái, dù là có mũi đá nhọn chìa lên thì cũng tránh được.”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Cẩn thận là hơn. Phải rồi, nếu thật sự có người đến từ sông ngầm dưới đất, cậu nói xem, người đó có thể chui ra từ hang động này không?

Nhạc Dương nói: “Ừm… tôi nghĩ là có thể. Đường hầm này được con người tu tạo, xây như bậc thang vậy, tuy nói là nước chảy rất xiết, nhưng bám vào những bậc thang ấy vẫn có khả năng bò ra được. Chỉ có điều, thuyền thì không thể đưa ra ngoài thôi. Nếu bảo người điên kia ngồi thuyền từ Shangri-la tới đây, vậy chiếc thuyền ấy chắc là phải để lại bên trong đó rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Không… tôi vẫn hơi nghi ngờ chuyện anh ta có thể bò ra được bên ngoài, hai trăm mét đầu tiên cậu chui vào hoàn toàn ngập nước đúng không? Nếu nói cả thông đạo dài năm trăm mét này đều ngập trong nước thì sao? Cậu nói xem, trong dòng nước xiết như thế, mỗi phút cậu bò được bao nhiêu mét?”

Nhạc Dương nói: “Ừm… điểm này, điểm này tôi chưa nghĩ tới.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy đấy, trong dòng nước xối xả thế này, với thể năng của cậu và tôi, mỗi phút có thể bò được hai chục mét đã là cực hạn rồi, hơn nữa quá trình này cực kỳ hao tốn ô xy. Vận động mạnh như vậy mà không đủ dưỡng khí, không thể hít thở, căn bản không thể nào bò ra ngoài được. Tôi nghĩ, nếu có người từ trong đó đi ra, nhất định phải còn cách nào khác nữa.”

Hai người thảo luận qua lại đến lúc Trương Lập gỡ dây thừng leo xuống. Có dây đủ dài rồi, ba người không dừng lại dù chỉ một phút, tiến thẳng đến miệng hang động thần bí. Nhạc Dương đã vào sâu bên trong một lần, nên anh là người đầu tiên chui vào, cách chừng năm mét phía sau là Trác Mộc Cường Ba. Người này lấy khoảng cách có thể nhìn thấy nguồn sáng phát ra từ người kia làm khoảng cách chuẩn, đồng thời sử dụng hai chiếc đèn nhỏ gắn ở gót giày để đánh tín hiệu, chỉ thị tiến lên hoặc lui lại. Trương Lập canh chừng ở cửa hang, đề phòng bất trắc và thao tác điều chỉnh thiết bị.

Vào trong hang động, cảm giác dòng chảy xung quanh ép lên thân thể rõ hơn rất nhiều, Trác Mộc Cường Ba thấy mình như một con cá, chầm chậm đi trong một hành lang dài dằng dặc dưới đáy nước theo kiểu hết sức đặc thù. Bên ngoài năm mét là bóng đêm, tất cả ẩn kín sau một tấm màn tăm tối thần bí. Xung quanh gã không có bất cứ dấu vết của động vật hay thực vật gì, nhưng nghĩ lại ở đây nước ngầm chảy xiết như vậy, động thực vật cũng chẳng thể nào sống nổi. Trương Lập canh chừng ngoài cửa hang cũng biết, lặn trong hang động ngầm có dòng nước chảy xiết thế này, chẳng khác gì lái xe với vận tốc trăm ki lô mét/giờ giữa dòng giao thông đông đúc, không thể có dù chỉ một sai sót rất nhỏ. Anh sợ làm phân tán tinh thần của hai người trong hang, nên không dám trò chuyện câu nào với họ.

Trong bóng tối yên tĩnh lạ thường, khiến họ cảm thấy như đang chui vào cõi hư không. Thông đạo này hình bầu dục, hai đầu nhỏ, phần giữa hơi phình to, bất luận là ngước lên trên hay nhìn xuống dưới, ánh đèn đều bị bóng đêm vô tình nuốt trọn. Trác Mộc Cường Ba đột nhiên có cảm giác như mình đang thực sự bơi xuống địa phủ. Ở nơi đó, bóng tối trải ra vô tận, trên phủ khắp trời, dưới nuốt cả mặt đất vực sâu, còn gã dập dềnh lơ lửng trong không trung, như một hạt bụi nhỏ nhoi giữa vùng đen tối mênh mang. Vách đá bên cạnh chốc chốc cũng khiến gã giật mình, thi thoảng có cột sáng chiếu qua, liếc mắt lên là lại thấy có khe nứt to tướng, bên trong đen kịt sâu hun hút; cũng có chỗ vách đá gồ lên thành hình mặt con quái thú, có mũi có mắt, xuất hiện đột ngột ở khoảng cách gần, ai trông thấy cũng thật khó mà không giật mình kinh hoảng. Dòng chảy cuồn cuộn phía sau lại không ngừng thúc đẩy gã, sợi thừng trong tay quyết không thể buông ra, Trác Mộc Cường Ba theo sát phía sau Nhạc Dương. Máy đo bằng tia laser xác định đường hầm phía trước còn một trăm mét nữa, nhưng được chừng ba chục mét, Nhạc Dương đã bắt đầu rẽ sang phải, đồng thời ném một ống huỳnh quang vào góc ngoặt để đánh dấu. Được chừng chục mét nữa, anh lại rẽ trái, tiếp tục tiến lên, Trác Mộc Cường Ba chiếu đèn vào chỗ ngoặt, thấy bên phải và phía trước có đến bốn năm lối thông đen ngòm, đành lắc đầu rẽ theo Nhạc Dương.

Chẳng mấy chốc sau đó, Trác Mộc Cường Ba liền phát hiện ra dường như bọn gã đang ở bên trong một cục bọt biển khổng lồ, chỗ nào cũng thấy những khe nứt, những lối thông, lối này thông với lối kia, lồng vào trong nhau, con đường tiến lên phía trước cứ như thể cây kim xâu sợi chỉ chọc lên chọc xuống chọc trái chọc phải trong miếng bọt biển. Chưa được bao lâu sau, ống huỳnh quang đã không đủ dùng, Nhạc Dương bắt đầu cứ cách hai chỗ rẽ hoặc hơn mới đặt một ống huỳnh quang. Sau khi chui vào khe nứt thứ ba bên trái, kế đó trượt xuống vào cửa hang thứ hai, vòng qua một trụ đá hình tròn, nghiêng người bơi lên khe nứt trên đỉnh đầu, Trác Mộc Cường Ba không cầm lòng được, cất tiếng hỏi: “Đường đi phức tạp như vậy, lại không có máy tính, làm sao cậu nhớ được thế?”

Nhạc Dương đáp: “Khả năng ghi nhớ tức thời cũng như quan sát tỉ mỉ hoàn cảnh xung quanh và nhớ rõ là hết sức quan trọng đối với một người lính trinh sát, tôi có thể nhớ chính xác được thứ tự của hai bộ bài tráo lộn xộn ấy chứ. Kỳ thực, ở đâycó rất nhiều lối thông với nhau, chỉ là chúng ta phải chọn lựa những lối tương đối dễ đi qua thôi. Sắp đến đoạn có bàn tay con người tạo nên rồi, dòng chảy ở đó hình như còn nhanh hơn một chút, bám chặt vào đấy, Cường Ba thiếu gia.”

Vòng qua chỗ rẽ, Trác Mộc Cường Ba đã chú ý đến những góc cạnh trồi lên, nói một cách chuẩn xác hơn, đây có lẽ giống những tảng đá khổng lồ xếp thành một thông đạo hình tròn tựa như người ta xây ống khói, nhưng các góc cạnh đều xoay vào bên trong. Mặt này gồm những hình lục giác, ngũ giác, bát giác sắp đặt không theo quy tắc nào cả, thoạt nhìn giống như vảy rắn nhấp nhô, khiến Trác Mộc Cường Ba nghĩ đến Con đường Người khổng lồ[20]ở Ireland. Tới đây, gã lại không khỏi giật

thót mình một cái, không khó tưởng tượng, muốn xây một đường hầm nhân tạo như thế này ở dưới sâu mười mét nước, lại giữ được cả nghìn năm, đặt trong bất cứ thời kỳ nào cũng đều là một công trình kỳ vĩ, huống hồ những tảng đá này lại to lớn như vậy, cổ nhân làm cách nào để chất chúng lên như thế? Chuyện này thực nằm ngoài sức tưởng tượng, Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng cảm thấy tôn giáo thần bí này mang đến cho mình quá nhiều chuyện khó tin nổi, càng tìm hiểu sâu, lại càng thêm kinh hoảng.

Đi tiếp trong thông đạo được chừng ba trăm mét, đường kính thông đạo dường như mỗi lúc một nhỏ hơn, tốc độ dòng chảy và áp lực đều tăng lên rõ rệt, hai người bọn Trác Mộc Cường Ba phải bám chặt vào dây thừng mới chống chọi được với dòng nước chảy xiết mạnh mẽ ấy. Trác Mộc Cường Ba còn cảm nhận được thân thể mình, đặc biệt là bình dưỡng khí gắn trên lưng, không ngừng cọ xát với vách thông đạo, đành gắng hết sức dồn trọng tâm thân thể xuống dưới, nếu để ống dẫn khí bị những cạnh đá gồ ghề kia cọ đứt, kẹt cứng ở chỗ này thì chỉ còn nước chờ chết ngạt.

Nhạc Dương đã sắp ra đến đầu bên kia thông đạo, đột nhiên đánh tín hiệu nguy hiểm, rồi sau đó ánh đèn hoàn toàn tắt lịm, không còn thấy bóng dáng đâu nữa. Trác Mộc Cường Ba giật mình kinh hãi, không lập tức lui về, mà ngược lại còn lỏng bám dây thừng, tăng tốc tiến lên phía trước, đồng thời gọi lớn: “Nhạc Dương! Nhạc Dương!” Gã biết, trong hang động này, bọn họ đã hoàn toàn không thể liên lạc với bên ngoài được nữa, giờ chỉ có gã và Nhạc Dương là có thể nói chuyện với nhau được thôi.

Đang lúc nửa ngạc nhiên nửa ngờ vực, chưa biết xử trí ra sao ấy, bỗng có một chùm sáng chiếu tới, biểu thị an toàn. Lần này đèn chiếu rất sáng, hiển nhiên là tín hiệu do đèn gắn trên đầu Nhạc Dương phát ra, chứng tỏ rằng anh chàng đã đến một chỗ không gian tương đối rộng, có thể xoay được người lại. Trác Mộc Cường Ba giờ mới thở phào một hơi nhẹ nhõm. Nhạc Dương thở dốc nói: “Không sao, vừa nãy hơi sơ suất, Cường Ba thiếu gia cũng phải cẩn thận đấy, phía trước hình như có thác ngầm.”

Trác Mộc Cường Ba đã buông lỏng tay khỏi dây thừng, lực đẩy cực mạnh từ phía sau thúc tới, xuôi theo dòng nước, chỉ trong chớp mắt gã đã rút ngắn khoảng cách với Nhạc Dương, kế đó thân thể lơ lửng, bị dòng nước mạnh xối từ trên xuống, như thể có người dùng một cái đập ruồi khổng lồ đập túi bụi xuống đầu. Ngã oạch một cái, nhưng Trác Mộc Cường Ba đã nhận ra, đây là tầng đứt gãy, bên dưới có lẽ còn một dòng chảy khác nữa… Sông ngầm!

“Ào ào”, Trác Mộc Cường Ba như bị trôi từ một đường cống ngầm này sang một kênh thoát nước khác, rơi bịch xuống dòng sông ngầm. Từ cảm giác lúc chạm đáy sông ngầm, gã biết con sông dưới lòng đất này sâu không quá năm mét, nhưng mặt nước tương đối rộng, vì tốc độ dòng chảy đã chậm đi rõ rệt. Lực xung kích mạnh mẽ khiến Trác Mộc Cường Ba lộn nhào trong nước hai ba vòng nữa mới lấy lại được thăng bằng và cảm giác phương hướng. Gã nhìn thấy ánh sáng từ đèn của Nhạc Dương phát ra, liền bơi về phía đó, chẳng bao lâu sau, chân đã chạm xuống đất. Trác Mộc Cường Ba đứng thẳng người dậy, nước chảy ròng ròng, thấy Nhạc Dương đang ngây người ra đứng trên bờ. Anh chàng đã cởi mặt nạ lặn nước ra, há miệng hít vào mấy hơi sâu, mừng rỡ reo lên: “A! Không khí ở đây trong lành quá!” Trác Mộc Cường Ba không nghe rõ, nhưng nhìn bộ dạng say mê đắm đuối của Nhạc Dương, cũng biết là anh chàng đang cảm khái gì đó.

Ngọn đèn chiếu trên đầu Trác Mộc Cường Ba phát ra chùm sáng mạnh rọi khắp xung quanh, gã chậm rãi gỡ mặt nạ lặn xuống, hít sâu một hơi, không khí nơi đây thật lạnh giá, nhưng lại khiến người ta có cảm giác thấm vào tận tâm can, cảm giác tựa như nhìn thấy trận tuyết đầu tiên của mùa đông vậy. Từ từ dịch chuyển tầm mắt, chùm sáng phát ra từ đèn chiếu gắn trên đầu cũng chầm chậm chuyển động theo, tạo ra một dải ánh sáng nổi bật trong bóng tối mênh mông, cuối cùng tụ lại thành một đốm nhỏ trên tường, Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương cứ theo cách thức có vẻ hơi giống “ếch ngồi đáy giếng” này, tỉ mỉ quan sát môi trường hoàn toàn lạ lẫm xung quanh. Đây là lần đầu tiên bọn họ tận mắt nhìn thấy dòngsông được lưu truyền trong rất nhiều câu chuyện cổ tích thần thoại… U Minh hà!

Theo kết quả đo đạc của thiết bị điện tử, đây là một hang động đá vôi ở giữa phình to như cái ấm, bên dưới bằng phẳng, càng lên đỉnh càng hẹp, nhọn, rộng chừng năm mét, cao mười mét, không nhìn rõ được mực nước, vách hang trơn ẩm. Ấn tượng ban đầu là nơi đây giống như một đường hầm đã được thi công hoàn chỉnh. Hai người đang đứng ở lối vào đường hầm, phía trước sâu thăm thẳm, chỉ có một vùng đen tối mờ mịt, phía sau là lối vào sông ngầm, hoặc giả cũng có thể nói là đầu nguồn của dòng sông dưới lòng đất cũng không sai. Nhìn từ phía này, trông dòng sông giống một vòi nước khổng lồ đường kính khoảng sáu bảy mươi phân không ngừng đổ nước cuồn cuộn chảy vào đường hầm bên dưới. Bên cạnh ống nước chính còn có những lối thoát nước khác nhỏ hơn, hình thành nên một thác nước hình rễ cây hết sức kỳ lạ, tựa như một gốc đa già mọc bên vực thẳm, có vô số rễ cây vươn ra, buông xuống lơ lửng giữa tầng không phía ngoài vách đá. Ánh đèntrên đầu hai người chiếu tới, làm hắt lên những tia sáng lấp lóa, mảnh như sợi tơ bạc, không giống như nước mà giống cát chảy nhiều hơn.

Trăm ngàn năm nay, dòng nước cuồn cuộn đổ đã xối xuống khoảng phía trước “vòi nước” tạo thành một cái rãnh lớn, sau đó, dòng nước từ từ thu hẹp lại, dập dềnh reo vang chảy vào bóng tối sâu thẳm mịt mùng. Nhìn xuống dòng nước mà ánh đèn của họ không thể xuyên thấu, chỉ thấy mặt nước tựa một dải lụa dập dềnh, sóng cuộn lăn tăn, như đông cứng thành một tấm thủy tinh đen trong suốt. Dòng sông đen kịt và nham thạch đen kịt xung quanh liền thành một thể, thâm sâu vô cùng vô tận.

Tất cả tựa như một giấc mơ kỳ dị, là một thế giới thuộc về lòng đất, là kỳ tích tạo nên trong bóng đêm sâu thẳm, là vết dấu của tự nhiên vĩ đại. Thiên nhiên như một người thợ cần cù không biết mệt mỏi, đã dùng cả trăm triệu năm thời gian tạo ra một cung điện hùng vĩ tráng lệ, quanh co trong thế giới ngầm dưới lòng đất, sau đó, lại cẩn thận dùng bóng đêm che phủ đi, dùng dòng nước sinh mệnh dày công che chở, bảo vệ, không để người đời phát hiện ra nó. Khi đứng ở đầu nguồn dòng sông ngầm, ngẩng đầu nhìn lên, người ta ắt sẽ nghĩ tới ngọn núi cao vút trên đỉnh đầu, phóng mắt nhìn ra xa, lại làbóng đêm vô tận vô cùng, bao nhiêu điều bí mật tàng ẩn cả trong bóng tối, chỉ để cho người đời suy đoán vẩn vơ.

“Chúng ta đi quanh quanh một chút xem sao nhé?” Nhạc Dương đề nghị. Trác Mộc Cường Ba hét lớn lên: “Cậu nói gì đấy?” Tai gã giờ chỉ nghe thấy tiếng nước xối ầm ầm. Nhạc Dương ghé miệng sát tai Trác Mộc Cường Ba hét lên: “Tôi nói! Chúng ta đi quanh quanh một chút xem sao!”

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, lại ngoảnh đầu nhìn lối vào kia, cách mặt đất dưới chân ít nhất cũng phải tầm ba mét, chuyến này trở về hơi khó khăn đây.

Hai người lấy dây thừng mang theo người, cố định vào vách hang đá vôi, rồi dùng ống huỳnh quang đánh dấu đường, bắt đầu lần theo dòng sông ngầm vào sâu bên trong. Đi được chừng năm trăm bước, tiếng nước chảy ở lối vào đã nhỏ dần, thay vào đó âm thanh khi những giọt nước ngấm qua vách hang rơi xuống mặt sông, “tí tách tí tách”, chỉ có bóng đêm là vẫn vậy, con đường phía trước dường như cũng trải ra vô cùng vô tận.

Rất rõ ràng, đây là một đường hầm hình loa kèn, càng đi sâu vào bên trong càng loe rộng, máy đo đã hiển thị mặt sông rộng gần mười mét, độ cao đường hầm lên đến hai mươi bốn mét.

Trong bóng tối, ánh sáng cường độ mạnh phát ra từ mũ đội đầu của hai người thật nhỏ bé yếu ớt, chỉ chiếu được đường đi dưới chân, thỉnh thoảng có chỗ rẽ ngoặt, cột sáng ấy lại biến mất tăm vào dòng U Minh hà, như bị chìm nghỉm, không thể nhìn thấy góc khúc xạ, cũng không thấy có tia phản chiếu hắt lên. Nhạc Dương chợt thấy cảm giác lạnh run dâng lên, còn lạnh hơn lúc ở trong làn nước nữa. Anh hít một hơi dài, nói: “Thực không thể nào tưởng tượng được phải không, Cường Ba thiếu gia?”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Ừm.” Nhạc Dương lại nói tiếp: “Lối vào không ngờ lại giấu sâu dưới mười mét nước, hô hô, nếu chúng ta mà không biết vị trí đại khái của Cánh cửa Địa ngục thì làm sao tìm được thông đạo này cơ chứ.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm.”

Nhạc Dương lại hỏi: “Cường Ba thiếu gia, anh nói xem, con đường này thực sự có thể dẫn tới Shangri-la chứ? Tôi thấy, chỗ chúng ta đi vào đó, có mấy thác nước, độ cao chênh lệch rất lớn, chắc đây là loại khe núi bị cắt lìa nhỉ? Hai bên đều là núi, vả lại hình như cũng không hề thấp chút nào đâu, trên đỉnh chắc là nham thạch dày đến cả mấy trăm mét ấy nhỉ? Cường Ba thiếu gia, sao anh không nói năng gì thế? Có phải lại nghĩ ra gì đấy rồi không?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừ. Nhạc Dương, cậu nói thử xem, U Minh hà này, rốt cuộc là thứ gì?” Nhạc Dương lắc đầu: “Không biết, chắc là một kiểu gọi tên dòng sông dưới địa ngục thôi, tôi có cảm giác hình như là thứ của phương Tây thì phải.”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không hoàn toàn chính xác, cách nói U Minh hà này, quen thuộc nhất, được nhiều người biết đến nhất là ở trong thần thoại Hy Lạp. Có năm dòng sông địa ngục, được gọi chung là U Minh hà (Styx), về sau đạo Thiên Chúa viện dẫn, đưa vào Kinh Thánh. Đó là một dòng sông đen tối, người ta sau khi chết, trước khi vào địa ngục, phải hoàn toàn buông bỏ hy vọng tái sinh, cùng ký ức lúc sinh tiền mới qua sông được. Có một người lái đò lênh đênh trên một con thuyền nhỏ, bắt người chết phải trả tiền đi thuyền mới đưa qua sông, bằng không, y sẽ đẩy họ xuống dòng nước đầy những linh hồn chết đang đau đớn vật vã. Có điều, từ mấy nghìn năm trước, trong Bà La Môn giáo ở Ấn Độ, khái niệm U Minh hà và cái chết đã gắn liền với nhau, kẻ ác sau khi chết phải băng qua U Minh hà mới đến được địa ngục, do vậy người thời cổ thường ném thi thể người chết xuống sông, vì cho rằng xác chết sẽ theo dòng nước trôi thẳng đến địa ngục. Ngày nay, ở một số khu vực thuộc Ấn Độ vẫn còn tồn tại phương thức ‘hà táng’ đặc biệt này. Về sau, tư tưởng tôn giáo này đã hình thành nên khái niệm ‘trung ấm kỳ’ trong Phật giáo, sau khi người ta chết, trước khi vào vòng luân hồi, sẽ trải qua một thời kỳ gọi là ‘trung ấm kỳ’, thân thể đã tan biến, nhưng hồn vẫn còn. Khi ấy… linh hồn không thấy nhậtnguyệt tinh tú, chỉ nghe tiếng nước chảy ầm ầm sôi sục. Tín ngưỡng về địa ngục ở Trung Quốc thì lại càng chẳng cần nói, từ xưa người Trung Quốc đều cho rằng Hoàng tuyền là lối vào duy nhất của cõi U Minh, phía sau cổng địa ngục của người Do Thái giáo là sông Acheron…”

Nhạc Dương trợn tròn mắt, há hốc miệng ngạc nhiên: “Cường… Cường Ba thiếu gia, anh nghiên cứu về U Minh hà từ lúc nào thế?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Khoảng thời gian trước, lúc tìm hiểu các tài liệu về Shangri-la, tiện thể đọc thêm một ít về U Minh hà, không chỉ những tôn giáo mà ai ai cũng biết này thôi đâu, trong các tài liệu tôi tra cứu, đạo Sumer, đạo Druid, đạo Mặt trời ở Ai Cập, Bái Hỏa giáo ở Ba Tư… dường như tất cả các tông giáo cổ đều có đề cập đến quan hệ giữa địa ngục với dòng sông, tuy nói rằng giữa các tông giáo có sự truyền thừa và biến dị, nhưng cũng không thể nói đây là một sự trùng hợp đáng kinh ngạc được. U Minh hà… U Minh hà, sự sống được sinh ra trong nước, cuối cùng cũng trở về với nước, không biết đây có phải là ý thức thực sự của cổ nhân đối với sinh mệnh luân hồi hay không nhỉ?”

Nhạc Dương nói: “Từ ngàn xưa, nước đã là nơi sản sinh ra nền văn minh, chẳng phải từ rất sớm cổ nhân đã coi sông ngòi như bầu sữa mẹ rồi hay sao, có nước mới sống được, có lẽ đây chính là nhận thức ban sơ nhất của người xưa đối với nước chăng? Có điều, nói nước là nơi sự sống bắt đầu, tôi nghĩ người xưa chắc chưa đạt tới trình độ nhận thức ấy đâu.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Cậu lý giải vẫn còn nông cạn quá, từ lúc con người hình thành trong phôi thai, sự sống đã được nước bao bọc, tất cả các sinh vật đều có thiên tính ỷ lại, dựa dẫm vào nước, đây có lẽ cũng là một sự di truyền. Mà thôi, đây không phải điều tôi muốn nói. Ý tôi là, vừa nãy tôi vẫn luôn nghĩ, những câu kệ như ‘Các vị thần minh thuở trước vì muốn đem đến ánh sáng, chôn vùi bóng đêm, nên đã tìm lối vào địa ngục, trôi dạt trên dòng U Minh hà đen kịt như mực mấy nghìn vạn năm,’ e rằng không phải ám chỉ đến việc một nghìn năm trước tôn giáo bí mật kia tiến vào Bạc Ba La thần miếu, mà là…”

Thăm dò U Minh hà (1)

“Không phải vậy? Thế là gì?” Nhạc Dương thốt lên. Trác Mộc Cường Ba đáp: “Mà là để chỉ việc người Tạng cổ xưa tiến vào Shangri-la từ rất lâu, rất lâu trước đó nữa. Đó có lẽ là chuyện xảy ra từ trước khi lịch sử được ghi chép lại.”

Nhạc Dương nói: “Hả? Sao anh lại nghĩ vậy? Cường Ba thiếu gia, anh làm tôi hồ đồ chẳng hiểu ra làm sao nữa rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi cũng không rõ lắm, chỉ là có cảm giác như vậy thôi. Trước tiên, những giải thích về U Minh hà đã có từ rất lâu, trước một nghìn năm rất xa. Các tôn giáo cổ đại như đạo Sumer, đạo Mặt trời ở Ai Cập, đạo Bà La Môn ở Ấn Độ, hay Bản giáo cổ xưa, từng rất phồn thịnh từ sáu bảy nghìn năm trước. Thứ nữa, là các bức bích họa mà tôi thấy ở Đảo Huyền Không tự, có rất nhiều bức vô cùng giống những tranh vẽ bằng than trên vách hang động ở Khả Khả Tây Lý. Nếu như đó là tác phẩm của những người sống trong hang động, thì còn là sản phẩm của người từ Thời Đồ đá cũ hơn vạn năm về trước cơ. Phải biết là, hơn vạn năm trước, tổ tiên người Tạng đã bắt đầu đến vùng đất này, tuy rằnghọ không dùng đôi tay để ghi lại văn tự, nhưng đã dùng đôi mắt để quan sát thế giới này. Tuy rằng họ không có ngôn ngữ để truyền đạt, nhưng họ biết dùng đôi tai lắng nghe thế giới. Cũng giống như rất nhiều loài động vật khác, người Tạng đã khắc ghi những gì họ nhìn thấy, nghe thấy, cảm nhận thấy vào ký ức, in sâu vào trong gene di truyền, đồng thời truyền lại cho đời sau. Bởi vậy, đoạn truyền kỳ ấy dường như đã được đúc sẵn trong xương cốt, những trải nghiệm ấy dường như đều chảy trong máu của từng người dân tộc Tạng. Khi tôi bước lên con đường này, cảm giác như đang đi tìm lại kiếp trước của mình, tìm đến số mệnh, như thể đang chuyển thế trùng sinh, rất nhiều thứ mang đến cho tôi cảm giác như thế, chúng đang thức tỉnh tôi, tựa như từ thuở mới sinh ra trên đời này, chúng đã ăn sâu vào ký ức tôi rồi vậy.”

Nhạc Dương trợn tròn mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Nhưng mà, nhưng mà, anh không tin vào những điều này cơ mà? Cường Ba thiếu gia?”

Trác Mộc Cường Ba mỉm cười điềm đạm, dừng bước lại, nói: “Chúng ta quay lại thôi, con đường này không có điểm tận cùng đâu.”

Nhạc Dương cũng nói: “Được, tôi còn tưởng có thể đi tới chỗ rẽ ngoặt, không ngờ con đường này lại dài đến vậy, nếu không quay lại, pháp sư Á La và Trương Lập sẽ lo lắng đó.” Anh trầm ngâm nhớ lại, rồi nói tiếp: “Kỳ lạ thật, trong bản đồ, khoảng thời gian dài nhất giữa hai đoạn đường hình như cũng không quá hai mươi phút, rốt cuộc là sao vậy nhỉ? Lẽ nào giáo đồ của tôn giáo bí mật kia ngồi ca nô mà đi?”

Dọc đường, dòng sông ngầm không có thay đổi gì quá nhiều, ở chỗ rộng nhất, mặt sông chừng hai mươi mét, chiều cao từ khoảng ba lăm đến bốn mươi bảy mét, đương nhiên, trong đó có những chỗ là chiều cao của khe nứt, tốc độ dòng chảy giảm xuống còn khoảng 1.5 mét/giây. Hai người dùng các loại máy móc khác nhau đo nhiệt độ nước, nhiệt độ không khí, hàm lượng và thành phần không khí, bề mặt nham tầng… rồi quay trở lại điểm xuất phát. Nhạc Dương ngạc nhiên thốt lên: “Lạ thật, mực nước đang dâng lên kìa?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Sao lại thế được?” Nếu nói mực nước ở đây dâng lên vì lượng nước đổ dồn vào quá nhiều, mà cái ống lớn đường kính sáu bảy chục xăng ti mét kia vẫn cứ không ngừng đổ nước xuống, theo lý thì thông đạo sâu thẳm không thấy đầu bên kia này đã phải ngập tràn nước từ lâu lắm rồi mới đúng.

Nhạc Dương nói: “Có lẽ là tôi nhìn lầm,” rồi lại cúi nhìn mặt nước, nhíu mày lắc đầu.

Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương buộc chặt dây thừng, đeo mặt nạ lặn, bắt đầu bám vào vách đá trèo lên. Lần này họ phải vận hết sức lực toàn thân mới leo lên được, cũng giống như khi chống chọi cơn gió khủng khiếp ở Tây Phong đới vậy, chỉ khác một điều, thứ lần này hai người phải quần nhau là dòng nước sầm sập đổ từ trên cao xuống mà thôi.

Cũng may mực nước của hai tầng thông đạo không chênh nhau nhiều lắm, hơn nữa, sau chuyến khảo nghiệm ở Tây Phong đới, bọn Trác Mộc Cường Ba đã nắm được một số phương pháp quần thảo với những lực lượng bất khả kháng cự này. Khó khăn nhất là lúc chui vào cửa hang nhỏ hẹp, chỉ cần qua được bước đầu tiên này rồi bò lên sẽ dễ hơn rất nhiều. Sau hơn một tiếng đồng hồ vật lộn, cuối cùng họ đã bò ra được đoạn thông đạo chật hẹp dài năm trăm mét. Nếu không có bình dưỡng khí hóa lỏng, chắc cả hai đã chết ngạt trong thông đạo từ lâu. Trác Mộc Cường Ba thở hổn hển, nói: “Giờ cậu có còn cho rằng, người điên kia có thể dựa vào sức mình mà bò ra ngoài theo lối này hay không?”

Nhạc Dương đáp: “Giờ thì tôi nghi ngờ, người điên kia, e rằng không phải đi ra từ lối này.”

Vừa ra khỏi cửa hang bên ngoài, Trác Mộc Cường Ba liền nhìn thấy hai người nhái đeo đủ các thiết bị lặn, kèm theo bốn bình dưỡng khí mỗi người, nhưng đã bỏ bớt vài thiết bị cồng kềnh khác. Gã lập tức hiểu ra, nhất định là pháp sư Á La và Trương Lập thấy hai người bọn gã mãi không nổi lên, mà không khí nén trong bình sắp đến lúc cạn, nên chuẩn bị vào cứu trợ. Gã liền đánh tay ra hiệu tất cả mọi chuyện đều bình an.

“Sao lâu vậy?” Nhạc Dương vừa chui ra khỏi hang, Trương Lập đã nôn nóng hỏi ngay. “Lên trên rồi nói sau, tình hình bên trong rất phức tạp.” Trác Mộc Cường Ba đáp.

Na Thâm đứng canh đống đồ đạc thiết bị cho tới khi bốn người lên đến bình đài phía trên. Pháp sư Á La bật máy tính, các hình ảnh Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương quay được bên dưới hiện rõ nét trên màn hình. Nhìn thấy đường hầm quanh co sâu dưới đáy nước, ánh mắt pháp sư Á La hết sức nặng nề, còn Trương Lập cứ luôn miệng xuýt xoa.

Sau khi xem xong đoạn phim ghi hình, ánh mắt pháp sư Á La hướng sang phía bên kia bình đài, ở đó, một ngọn núi nguy nga sừng sững, vách phẳng như đao cắt, một con đường nhỏ được tạc lõm vào bên trong như sạn đạo lửng lơ lưng chừng núi, đại khái cao hơn chỗ bình đài bọn họ đang đứng khoảng trăm mét. Đứng giữa nơi núi non trùng điệp vây quanh thế này mà ngước đầu lên, bọn họ cảm giác như mình đang đứng dưới chân một người khổng lồ, cùng lắm cũng chỉ có thể nhìn thấy đầu gối của ông ta mà thôi. Pháp sư Á La biết rõ, cao trên vách núi này còn có đỉnh núi nữa, nếu leo đến tận đỉnh, sẽ thấy núi liền núi nối nhau ra tít tắp, ngọn này cao hơn ngọn kia, cuối cùng sẽ nối liền với cực thứ ba của thế giới, dãy Himalaya. Nghĩ ngợi giây lát, pháp sư Á La nhấn vài phím, bật lên mấy nhóm số liệu để so sánh, rồi lắc đầu nói: “Không thể tin được, vách đá đối diện với chúng ta, sau khi đo đạc mấy lần, xác định được nằm ở độ cao khoảng 4.132 mét so với mực nước biển, nếu tính thêm cả những dãy núi ở xa hơn, độ cao sẽ vượt quá sáu nghìn mét so với mực nước biển, còn lòng sông bên dưới bình đài chúng ta đang đứng đây, độ cao so với mực nước biển chỉ là 3.741 mét, lối vào đường hầm này cách biệt với thế giới bên ngoài cả một tầng nham thạch dày năm trăm mét. Chẳng những vậy, dựa vào hình ảnh hai cậu ghi lại được, có thể thấy hang động đi sâu vào khoảng chừng năm trăm mét, một con sông ngầm sâu đếnvậy phiền phức lắm.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đúng thế, vấn đề rất phức tạp, lúc ở trong đó tôi và Nhạc Dương cũng nhắc đến chuyện nàyrồi.”

Trương Lập lấy làm lạ hỏi: “Phiền phức gì chứ?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Cửa hang nhỏ quá, không thể mang các trang thiết bị và máy móc cỡ lớn xuống sông ngầm, mà tầng nham thạch bên trên dày quá, dù chúng ta khoan đục hay cho nổ mìn cũng rất khó mở rộng thêm được lối vàonày.”

Nhạc Dương nói: “Còn nữa, mức độ tìm hiểu của chúng ta về dòng sông ngầm kia chỉ mới dừng ở giai đoạn bề mặt, còn không biết trong bóng tối thẳm sâu kia ẩn chứa bao nhiêu điều nguy hiểm, tôi thấy, chúng ta phải dùng bè cao su thử thăm dò thêm lần nữa mới được.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Hôm nay đã muộn quá rồi, đành để mai quay lại vậy.” Pháp sư Á La nói: “Ừm, cũng sắp dùng hết nguồn sáng rồi, cần điều chỉnh lại thành phần hóa học trong ống huỳnh quang, e rằng phải tăng độ sáng lên mới được.”

Nhạc Dương nói: “Đi thôi, ngày mai quay lại đây.” Trương Lập nhắm nhe trước: “Ngày mai tôi vào đấy nhé.”

Về đến thôn Công Bố, Na Thâm báo cáo hành trình trong ngày với ba vị trưởng lão. Anh ta nói: “Phải chăng là Thánh sứ đại nhân không tin tưởng tôi?”

Cách Liệt trưởng lão hỏi: “Sao thế?” Na Thâm nói: “Thánh sứ đại nhân và những người kia nói thứ tiếng tôi nghe không hiểu, sử dụng những thứ máy móc mà tôi không biết là gì, từ đầu đến cuối cũng không nói chuyện với tôi quá mười câu.”

Đạt Kiệt trưởng lão giận dữ quát: “Na Thâm, sao cậu có thể nói Thánh sứ đại nhân như vậy được? Chẳng lẽ Thánh sứ đại nhân làm gì cũng phải nói với cậu hết sao?”

Đơn Ba trưởng lão mỉm cười hiền hòa nói: “Na Thâm, Thánh sứ đại nhân làm như vậy, không chỉ là không có ý nghi ngờ gì cậu, mà ngược lại, ngài ấy muốn bảo vệ cậu đó.”

Na Thâm ngờ vực hỏi: “Bảo vệ tôi?”

Đơn Ba trưởng lão nói: “Không sai, vì Đa Cát, Thánh sứ đại nhân không muốn nhìn thấy cậu trở thành Đa Cát thứ hai, vì ngài ấy mà hy sinh cả tính mạng, nên mới cố lánh xa cậu như thế. Ngài ấy hy vọng cậu không tham dự quá sâu vào kế hoạch của bọn họ. Đừng quên sứ mệnh của mình. Các trợ thủ của Thánh sứ đại nhân phải do ngài ấy tự lựa chọn, lần này thôn Công Bố chúng ta chỉ có Đa Cát là người được Thánh sứ đại nhân lựa chọn, cậu ấy đúng thật là người thợ săn xuất sắc nhất của thôn chúng ta! Đa Cát, thằng bé ấy…”

Cách Liệt trưởng lão đầy cảm khái nói: “Vị Thánh sứ đại nhân này không giống bất cứ vị nào từng đến trước đây. Chúng ta chưa từng thấy có vị Thánh sứ đại nhân nào lại tràn đầy quyết tâm và tín niệm đến thế, quả đúng là Đức Phật vạn năng đang ở trong cõi u minh chỉ lối dẫn đường, lối vào địa ngục đó không phải ai cũng có thể băng qua được đâu.”

Ngày hôm sau, bọn Trác Mộc Cường Ba lại đến bình đài trong khe núi chỗ Cánh cửa Địa ngục từ rất sớm. Dựa theo tình hình thăm dò hôm qua, bọn họ điều chỉnh số lượng trang thiết bị, mỗi người đeo bốn bình dưỡng khí, ngoài ra còn thêm hai chiếc đèn pha ánh sáng mạnh chuyên dùng dưới nước, mang theo đủ pin dự phòng cho đèn chiếu trên đầu, ống huỳnh quang, thiết bị phát xạ tín hiệu laser để tìm đường, chuẩn bị lần thứ hai tiến vào dòng U Minh hà đen tối vô tận. Lần này, ba người Trác Mộc Cường Ba, Nhạc Dương và Trương Lập cùng vào trong hang, pháp sư Á La ở bên ngoài phụ trách xử lý các tình huống có thể phát sinh.

Chiếc thuyền cao su đôi đã gấp lại hóa ra là trở ngại lớn nhất khi tiến lên. Ở một số cửa hang quá hẹp, ba người phải vừa kéo vừa đẩy mới ních được nó qua. Sau một hồi gian khổ luồn qua luồn lại dưới lòng nước sâu, cuối cùng ba người cũng đến cửa sông ngầm. Nhạc Dương dẫn đường phía trước nói: “Kỳ lạ thật, dòng chảy hôm nay rõ ràng chậm hơn hôm qua rất nhiều. Ồ, Cường Ba thiếu gia, anh mau lại đây mà xem!”

Trác Mộc Cường Ba theo Nhạc Dương bơi ra khỏi cửa hang, cũng không khỏi giật mình kinh ngạc. Hôm qua, khi gã và Nhạc Dương tiến vào chỗ này, dòng sông ngầm kia chẳng qua chỉ giống như một cống ngầm thoát nước, mực nước rất thấp, cửa hang còn cách mặt sông đến hai ba mét, nhưng hôm nay, mực nước sông ngầm không ngờ đã dâng lên ngang với cửa hang. Bờ sông để dừng lại nghỉ chân đã hoàn toàn biến mất, lưu lượng dòng chảy cũng tăng lên đáng kể. “Rốt cuộc là chuyện gì nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba không sao hiểu nổi.

“Sao thế?” Trương Lập là người đầu tiên chui ra khỏi cửa hang, đưa mắt nhìn quanh, rồi nói: “Ôi chà chà, con sông này to nhỉ.”

Nhạc Dương lắc đầu: “Hôm qua lúc chúng tôi vào đây không như thế này đâu, mực nước ít nhất cũng thấp hơn ba mét, anh sờ thử xem, dây thừng hôm qua chúng tôi cố định buông xuống dưới kia kìa. Giờ mực nước đã dâng lên ngập cả bờ sông ngầm rồi.”

Trương Lập lặn xuống rờ thử, đoạn nói: “Ô? Đúng là ở bên dưới? Sao lại như vậy được nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Tạm thời gác chuyện này lại đã, tìm chỗ bơm cái thuyền cao su lên trước đi.”

Nhạc Dương nói: “Tôi đi đánh dấu, xem rốt cuộc mực nước có thể dâng lên cao bao nhiêu. Cường Ba thiếu gia, anh cầm đèn pha giúp tôi với.” Nói rồi anh chàng liền cố định một thiết bị đánh dấu ở gần mép nước. Đó là một tổ hợp bao gồm thiết bị phát tín hiệu laser và năm ống huỳnh quang có thể tự động sáng lên theo trình tự thời gian.

Trương Lập nói: “Để tôi đi thu thập mẫu vật.” Anh lấy mẫu nước, mẫu đá, cả không khí cũng cho vào các bình kín, chuẩn bị đem về làm hóa nghiệm. Chỉ có điều, việc lấy mẫu đá hơi tốn sức một chút, phải nhờ Nhạc Dương giúp mới đẽo ra được một mẩu to bằng ngón tay cái, Trương Lập thất kinh kêu lên: “Đây là đá quái quỷ gì vậy, cứng thế!”

Sau khi lắp đặt xong thiết bị đánh dấu đường, ba người bắt đầu lặn xuống U Minh hà, tiến về phía trước một đoạn. Nhạc Dương bật đèn, Trác Mộc Cường Ba, Trương Lập theo sát phía sau. Ánh đèn pha trong dòng nước tựa một cây cột thủy tinh rực sáng.

Lần này bọn họ mang theo đèn pha công suất lớn, có thể chiếu xa hơn một ki lô mét, thoạt nhìn trông giống như một cái mô tơ nước cỡ nhỏ vậy, người chiếu đèn phải dùng cả hai tay giữ hai bên thì mới hoạt động bình thường được.

Để đề phòng đột nhiên xuất hiện các sinh vật dưới nước, ba người bọn họ còn đặc biệt mang theo cả súng phóng lao, đầu mũi lao hình móc câu đặc chế có gắn thêm điện cực, có thể phát ra dòng điện làm tê liệt những loài thủy sinh vật cỡ lớn trong nháy mắt.

Trong ánh sáng mạnh của ngọn đèn pha công suất lớn, một thế giới rực rỡ diệu kỳ dưới lòng sông ngầm hiện lên trước mắt ba người. Dòng sông ngầm vốn đen như mực trở thành màu tím như pha lê, bốn vách đều là những tảng nham thạch trơn nhẵn, tựa như một khu rừng đá thu nhỏ, trùng trùng điệp điệp, ngàn khe ngàn rãnh. Ánh đèn dịch xuống dưới, ở chỗ dòng thác xối xuống, lòng sông hõm sâu, tạo thành một khoảng như cái bồn nước lớn, hình dạng giống đóa hoa sen đang nở rộ. Trong “bồn” có vô số những viên đá hình cầu to bằng quả trứng ngỗng, sáng lóng lánh như trân châu, liên tục xáo trộn dưới dòng nước xối xả. Lòng sông phía xa xa lại bằng phẳng như thể được lát bằng đá Đại Lý ở Vân Nam. Ánh sáng bị dòng nước màu pha lê tím chiết xạ thành vô số con rắn nhỏ màu vàng kim, ngọ nguậy mãi không ngừng, lấp lánh khắp mặt sông, hắt sáng cả lên vách đá trên đầu. Vách đá có rất nhiều thạch nhũ buông xuống, trông như một khu rừng đá đột nhiên lộn ngược dưới làn nước vậy. Lúc lặn trong dòng sông, ba người sử dụng thiết bị điều tiết trọng lực, thân thể dập dềnh ở giữa sông. Trương Lập làm ra vẻ lười nhác lộn mấy vòng liền, hoàn toàn không hề cảm nhận được sự tồn tại của trọng lực. Nước sông như một tấm gương, mặt gương chính là mặt sông, trên tức là dưới, dưới tức là trên.

Trác Mộc Cường Ba lấy một bình khí, trải chiếc bè cao su bơm hơi trong ba lô ra. Trương Lập xúm vào giúp, dùng khí nén trong bình bơm cho chiếc bè phình lên. Sau đó ba người ngồi lên con thuyền nhỏ ấy, bắt đầu thả trôi trên dòng U Minh hà tăm tối không ánh mặt trời. Nhạc Dương làm hoa tiêu dẫn đường, ba người tiến về phía trước chừng hơn tiếng đồng hồ, cả một rừng dung nham hình thù quái đản hiện lên trước mắt, dọc đường còn phát hiện ra hơn chục chỗ dòng nước rẽ nhánh, chỉ thấy đen kịt một màu, không biết chảy đi nơi nao. Theo suy đoán của Nhạc Dương, những dòng nhánh nhỏ đến mức người chui không lọt này chắc chắn không được vẽ vào bản đồ, nên bọn họ cứ theo dòng chính đi tới.

Con thuyền nhỏ tiếp tục tiến lên, trong thế giới ngầm yên tĩnh này dần dà lục tục xuất hiện rất nhiều sinh vật thủy sinh, những con kỳ nhông mù cực kỳ lanh lẹ, chỉ khẽ có động là lập tức lánh ngay vào các khe kẽ, lũ ếch và cua thì rộn ràng khua càng bới bùn dưới đáy nước, lúc con thuyền cao su lướt qua, chỉ hơi làm kinh động chút xíu là tất cả chui biến ngay vào hang ngầm, không còn thấy tăm tích đâu nữa.

Khung cảnh dưới lòng sông ngầm thật hiền hòa êm dịu, không ai biết những sinh vật nơi này đã sống vui vẻ khoái lạc như vậy bao nhiêu lâu rồi. Ba con người trên thuyền cao su ngắm nhìn cảnh vật cơ hồ quên cả mục đích của chuyến đi. Thuyền trôi chừng hai tiếng đồng hồ, trên dòng sông ngầm xuất hiện chỗ rẽ ngoặt đầu tiên, Trương Lập giục: “Mau lên, lấy bản đồ ra, có đối chiếu được không?”

Nhạc Dương cẩn thận nghiên cứu tấm bản đồ, tìm kiếm xem có chỗ nào tương ứng với bên ngoài không, rồi lắc đầu: “Không, những chỗ rẽ thế này nhiều quá, chúng ta cứ tiến về phía trước, đừng rẽ phải làm gì.”

Chẳng ngờ, qua chỗ rẽ ấy, dòng sông ngầm biến đổi rất lớn, tốc độ dòng chảy tăng lên rõ rệt, lòng sông bắt đầu hơi dốc xuống, Trương Lập ngồi ở cuối thuyền, lo lắng nói: “Ừm, đường này có đúng không ấy nhỉ? Cứ tiếp tục thế này chỉ sợ thuyền của chúng ta không chịu nổi đâu.”

“Ây!” Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương trừng mắt nhìn Trương Lập. Trương Lập vội xòe tay ra, xua xua: “Coi như tôi chưa nói gì đi nhé.”

Lòng sông hẹp dần, mỗi lúc một dốc hơn, vách đá hai bên bờ dường như muốn chập lại, cơ hồ định ép nát con thuyền nhỏ, dòng nước bắt đầu chảy xiết như sông Nhã Lỗ Tạng Bố bên ngoài. Trong dòng chảy xiết thế này, phương hướng của con thuyền cao su đã không còn nằm trong sự khống chế của người điều khiển nữa rồi, Nhạc Dương kêu lên: “Đừng để đèn pha rơi xuống nước, không thì chúng ta chẳng nhìn thấy gì nữa đâu.”

Trác Mộc Cường Ba ở bên cạnh nói: “Cẩn thận phía trước, có đá ngầm.”

Nhạc Dương cầm mái chèo lên đẩy về phía tảng đá lộ ra trên mặt nước, gắng sức để thuyền cao su không chạm vào đó, đồng thời hét toáng lên: “Đèn đâu! Đèn đâu! Tôi chẳng thấy gì cả!” Trác Mộc Cường Ba vội xoay đèn chiếu về phía Nhạc Dương. Đúng lúc đó, Trương Lập ở phía sau cũng kêu lớn: “Bên trái, bên trái! Mau xem bên trái có gì!”

Ánh đèn nhanh chóng dịch chuyển, một tảng đá lớn cao ngang người đứng đang nhe nanh nhe vuốt vươn về phía giữa sông. Ba người ngồi trên thuyền nhìn thấy nó, cảm tưởng như có một người khổng lồ đá đang sầm sập chạy lao về con thuyền của họ, muốn xé toang con thuyền cao su mỏng manh ra. Trác Mộc Cường Ba vội giơ mái chèo lên đập mạnh vào vách đá bên trái một cú. Vừa mới lao sượt qua tảng đá bất ngờ nhô ra ngoài ấy, chưa được giây phút bình lặng nào, Nhạc Dương đã lại kêu lên: “Bên phải, bên phải, chiếu đèn nhanh lên! Cường Ba thiếu gia!”

Trương Lập nói: “Thuyền đang xoay tròn, thuyền đang xoay tròn, cẩn thận phía trước có thứ gì đó!”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Không được, đèn chỉ chiếu được một hướng thôi, bật đèn gắn trên mũ ở mức sáng nhất đi, chỉ cần không đụng phải tảng đá nào là được, cẩn thận trên đỉnh đầu đấy!” Vừa dứt lời, gã đã ấn đầu Nhạc Dương xuống, một nhũ đá trên cao buông xuống sướt qua tay Trác Mộc Cường Ba, mu bàn tay lập tức có vết máu hằn lên, còn chưa cảm thấy đau, đèn chiếu đã lại va vào một trụ đá khác, tiếng “két két két” vang lên chói cả tai.

Thăm dò U Minh hà (2)

Chiếc thuyền cao su xoay chuyển trong dòng nước, tiến lên với tốc độ cực nhanh, nham thạch bốn phương tám hướng chen vai thích cánh chìa vào giữa, hơn nữa, ở nhiều chỗ còn không thể dùng mắt thường để nhận biết nguy hiểm, những tảng đá đột nhiên nhô ra từ trong bóng tối không ngừng ra sức khảo nghiệm khả năng ứng biến của ba người. Đến lúc này bọn họ mới biết, sông ngầm không phẳng lặng hiền hòa như họ vẫn tưởng tượng, mà gần như là phiên bản dưới lòng đất của dòng Nhã Lỗ Tạng Bố bên ngoài, dòng nước chảy xiết sục sôi chẳng thua kém gì với sông Nhã Lỗ Tạng Bố. Bọn Trác Mộc Cường Ba không ai dám qua loa khinh suất, vì tuy ba người có thể nói đều là cao thủ xuất chúng đã trải qua huấn luyện đặc biệt và nhiều lần mạo hiểm, nhưng ở trong thế giới ngầm đen tối vô biên vô tận này, chẳng may để ngã xuống sông, thật không biết có bao nhiêu phần trăm cơ hội sống sót nữa. Thật chỉ nghĩ thôi mà cũng thấy rợn cả ngườirồi.

Đoạn nước xiết kéo dài khoảng hai mươi phút đồng hồ, khi con thuyền cao su thăng bằng trở lại, mình mẩy ba người đều đầm đìa thương tích, Nhạc Dương nói: “Cuối cùng cũng qua được rồi, đoạn sông ban nãy dốc ghê quá, cũng may là chưa lật thuyền.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Vấn đề bây giờ là lúc trở ra làm sao vượt qua được khu vực hiểm trở ấy.” Trương Lập ngắt lời: “Đợi chút đã, Cường Ba thiếu gia, Nhạc Dương, hai người có cảm thấy điều gì bất thường không?” “Cái gì?” ‘Chuyện gì vậy?” “Có nghe thấy tiếng gì không?” Trương Lập hỏi.

Yên lặng lắng nghe, âm thanh “xì xì” cùng lúc lọt vào tai ba người, Nhạc Dương nói: “Chết thật, thuyền bị xì hơi rồi! Cậu đúng là đồ chim lợn.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Phải kiểm tra ngay, tiếng động ở chỗ nào vậy, mau tìm chỗ bị thủng đi! Không ngờ cao su chống đạn mà cũng bị cào rách rồi.”

Trương Lập lớn tiếng nói: “Tìm đâu ra chỗ cập vào bờ bây giờ nhỉ?”

Nhạc Dương quét một vòng đèn pha, nói: “Nhìn kìa, phía trước có một đài cao, hãy chèo thuyền qua đó đi, ở đó có thể xuống thuyền kiểm tra đấy.” Nhìn theo hướng tay Nhạc Dương chỉ, ở chỗ ánh đèn pha chiếu đến bên bờ sông ngầm quả nhiên có một vách đá vươn ra phía lòng sông, hình dáng như cái mẹt, vừa hay tạo nên một bến đậu cho mấy con thuyền nhỏ, chỉ có điều mực nước thấp hơn “cái mẹt” ấy ít nhất cũng đến mười mét, cần phải bám vào vách đá leo lên.

Cũng may là họ đem theo dây móc, nhờ ánh sáng của ngọn đèn pha công suất lớn, ba người lần lượt kéo thuyền cao su và các trang bị lên bình đài, kiểm tra toàn bộ thân thuyền một lượt, phát hiện một lỗ thủng dài chừng mười xăng ti mét ở phía đuôi thuyền, Trương Lập liền lấy cao su ra vá lại ngay.

Trác Mộc Cường Ba đứng bên mép bình đài cao hơn mặt nước chừng mười mét, nhìn vào màn đêm tăm tối, nghĩ ngợi giây lát rồi lắc đầu thở dài. Nhạc Dương bèn hỏi: “Sao hả? Cường Ba thiếu gia lại nghĩ đến điều gì à?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi đang nghĩ, có phải thật sự từ hoàn cảnh này ra ngoài kia hay không?”

Nhạc Dương bật máy vi tính chuyên dùng dưới nước lên, mở bản đồ ra so sánh địa hình, đoạn nói: “Đúng vậy, nếu anh ta đúng là từ đây ra ngoài thì có mấy chuyện không thể giải thích nổi. Thứ nhất, anh ta không thể chui qua cái lỗ thoát nước nhỏ xíu kia được, thứ hai, dòng sông ngầm này hung hiểm như thế, dù có thuyền… Nhìn bản đồ này xem, một người không thể chèo thuyền đi xa như vậy được đúng không? Còn nữa, thuyền nào chịu được dòng nước xiết như thế kia chứ? Thuyền bằng sợi cao su chống đạn còn bị rách toạc ra nữa kia kìa…”

Trác Mộc Cường Ba nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính, nhớ lại chiếc máy tính của giáo sư Phương Tân trong địa cung Maya, bèn hỏi: “Chúng ta có thể chuyển tuyến đường đi vào đây thành hình ảnh 3D được không? Như vậy, có thể biết được đại khái tuyến đường chúng ta vừa đi qua rồi.”

Nhạc Dương nói: “Cường Ba thiếu gia, anh tưởng đây là máy tính xách tay xịn của giáo sư Phương Tân chắc, cái máy tính này chỉ có thể ghi lại những số liệu đơn giản thôi, còn chẳng bằng máy tính xách tay bình thường nữa, chỉ hơn một điểm là có thể dùng được dưới nước mà thôi. Giờ đã biết dưới sông ngầm hoàn toàn có thể đi thuyền được rồi, lần sau chúng ta đến thì lấy hòm ngăn nước mang theo máy tính của giáo sư vào theo luôn.”

Sửa xong thuyền, Trương Lập nói: “Được rồi, thuyền này không vấn đề gì nữa, nhưng nếu gặp phải tình huống như lúc nãy, vết rách kia rất có khả năng sẽ toác ra rộng hơn. Vì lý do an toàn, tôi cho rằng chúng ta nên rút lui thôi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chúng ta xuôi dòng đi hơn hai tiếng đồng hồ rồi đúng không? Nếu dựa theo thời gian đánh dấu trên bản đồ, lẽ ra chúng ta phải hoàn thành mấy đoạn lộ trình rồi mới phải, cho dù vừa đi vừa thăm dò mò mẫm, cũng không thể nào chậm vậy được. Lẽ nào, tốc độ thuyền của chúng ta không bằng cổ nhân? Nhạc Dương, nếu muốn tìm chỗ đánh dấu trên bản đồ, cậu cho rằng chúng ta còn phải đi thêm bao xa nữa?”

Nhạc Dương đáp: “Chuyện này khó nói lắm, bởi vì có rất nhiều chỗ đánh dấu trên bản đồ mà chúng ta chưa thể nào lý giải nổi, đương nhiên là đi càng xa sẽ càng dễ phát hiện ra sự bí ảo trong đó. Nhưng tình hình hôm nay đã không cho phép chúng ta đi xa thêm, hơn nữa, còn phải nghĩ cách tìm ra một con đường rút lui nữa. Nếu lần sau trở lại, chúng ta ít nhất cũng cần phải chuẩn bị hai con thuyền dự phòng trở lên. Cường Ba thiếu gia, tôi lo lắm, nếu theo hành trình hiện nay, loại thuyền cao su hai người này e không thể chịu được hành trình kéo dài của chúng ta đâu.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Phải đó, chúng ta không có thuyền lớn, không thể đi xa trong bóng đêm này được, lẽ nào…” Trương Lập bổ sung ngay: “Lẽ nào chúng ta đã tìm được đúng lối vào rồi, lại chỉ có thể trơ mắt ra mà nhìn thôi hay sao?”

Nhạc Dương nói: “Vốn thuyền cao su bơm hơi cũng không tệ lắm, nhưng với tình hình trước mắt, chúng ta phải chuẩn bị bao nhiêu cái mới đủ đây? Huống hồ, loại thuyền dành cho bốn người gấp lại rồi cũng khó mà len qua được cửa hang chật hẹp kia, nếu dùng loại thuyền hai người này, chúng ta còn phải chuẩn bị bao nhiêu cái? Chẳng lẽ nối sáu bảy cái thuyền vào làm một chuỗi à? Hơn nữa, trong hoàn cảnh tối tăm mù mịt này, thuyền càng nhỏ hệ số nguy hiểm càng cao, muốn an toàn, tôi nghĩ ít nhất cũng phải cần loại thuyền rộng ba mét, dài bảy tám mét trở lên ấy.”

Trương Lập nói: “Khoét rộng cửa hang ra được không?” Nhạc Dương hỏi: “Khoét thế nào bây giờ?” Trương Lập đáp: “Cho nổ bom.”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Không được, tầng nham thạch cao quá, nếu nổ bom, sẽ khiến tất cả sập xuống, chúng ta càng không thể vào được nữa.”

Nhạc Dương nói: “Bất kể dùng phương pháp gì, muốn khoét rộng cửa hang ấy cũng là một công trình cực lớn, ít nhất cũng cần một hai năm mới hoàn thành được, chúng ta phải nghĩ cách khác thôi.”

Trương Lập kêu lên: “Có rồi, dùng thuyền lắp ghép.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Ý cậu là đưa gỗ xuống dưới đây, sau đó ghép thành một con thuyền ấy hả?” Trương Lập nói: “Không biết có được hay không?”

Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, nhưng Nhạc Dương lại bác bỏ ngay: “Nói ra thì có vẻ là thực hiện được, nhưng thực tế khi thực hiện lại rất khó khăn, chúng ta không phải chuyên gia đóng thuyền, con thuyền đóng ra có hạ thủy được hay không còn phải nghĩ; thứ hai, đóng thuyền cũng không phải chuyện một sớm một chiều mà làm xong được. Thuyền muốn kiên cố, muốn chịu được va đập thì phải vận chuyển gỗ từ nơi khác đến, chỉ riêng một việc này đã tốn của chúng ta không biết bao nhiêu thời gian rồi. Phải biết là, ở Mặc Thoát không có đường quốc lộ, phải tự khiêng vác đấy; thứ ba, dù là đóng được thuyền chăng nữa, chúng ta đâu có hiểu biết gì nhiều về tình hình dưới lòng sông này, ai biết được đoạnnông nhất sâu bao nhiêu mét? Chỗ thắt cổ chai hẹp nhất là bao nhiêu mét? Con thuyền đó có thể đảm bảo đưa chúng ta đến Shangri-la được hay không? Rốt cuộc có thể đi được bao xa? Tóm lại, có quá nhiều nhân tố chưa xác định, chuyện đóng thuyền là không thể thực hiện được đâu.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Được rồi, chúng ta thử vòng trở về trước đã, vấn đề này sẽ thảo luận sau.” “Đợi chút đã, Cường Ba thiếu gia.” Nhạc Dương đột nhiên gọi: “Chiếu đèn lên, hướng về phía bên trái, vừa nãy hình như tôi thoáng thấy gì đó.”

Ngọn đèn pha thuận thế chiếu sang phía Nhạc Dương vừa nói, chỉ thấy bên trái xuất hiện hai cửa hang đen ngòm, một cái ở đúng bên tay trái họ, một cái hơi chếch sang phía trước, song song với vách đá, ở chỗ ánh sáng không chiếu đến được hình như còn một cửa hang nữa. “Đường rẽ nhánh!” Nhạc Dương mừng rỡ reo lên: “Tôi đã bảo rồi mà, tốc độ của chúng ta rất nhanh, thế này tức là chúng ta rẽ ngoặt một chỗ, đến được đoạn chia nhánh đầu tiên, vậy là tỉ lệ tìm được vị trí của chúng ta ở trên bản đồ đã tăng lên đáng kể rồi đấy. Để tôi xuống xem nhé.”

Thuyền bơi đến chỗ rẽ nhánh, ba người mới phát hiện ra, phía trước tổng cộng có bốn cửa hang, lần lượt đưa tới bốn thông đạo khác nhau.

Nhạc Dương mở tấm bản đồ trên máy tính ra, lấy ngón tay di di vạch vạch lên đó, miệng lẩm bẩm: “Ban đầu là một lối rẽ ngoặt sang bên phải, chúng ta đã chọn lựa tiếp tục đi về phía trước, sau đó phía trước có bốn đường rẽ nhánh, một chỗ, hai chỗ, ba chỗ…” Ngón tay Nhạc Dương đánh dấu được tổng cộng bốn mươi sáu chỗ có những đặc điểm như thế.

Trương Lập nói: “Thời gian khởi điểm chắc là chúng ta ở cùng nhau, sao cậu lại đánh dấu cả những đường đi từ bên trái, bên phải và cả ở dưới nữa thế kia?”

Nhạc Dương nói: “Chúng ta vẫn chưa thể xác định được mình xuất phát theo hướng nào, tuy pháp sư Á La có nói với chúng ta, họ suy đoán thời gian đánh dấu trên bản đồ là tăng dần từ trên xuống dưới, nhưng cớ gì mà anh có thể khẳng định thời gian này là chỉ thời gian từ lúc xuất phát tới khi đến được Shangri-la chứ? Từ khoảng thời gian chúng ta đi hết đoạn đường thứ nhất và đoạn đường thứ hai mà tính, tỉ lệ hai đoạn đường này đại khái là 1:1, nếu tỉ lệ người xưa đánh dấu trên bản đồ này là chính xác, vậy thì chỗ này, chỗ này, chỗ này đều có thể loại ra được…” vừa nói, Nhạc Dương vừa không ngừng gạch xóa trên bản đồ, cuối cùng chỉ còn lại mười một chỗ tương đồng với đoạn đường họ vừa đi qua, trong đó sáu chỗ là có hình tượng mười hai con giáp đánh dấu thời gian, còn cả những hình vẽ kỳ quái bên cạnh đó nữa. Đó chính là những đồ hình mà cả pháp sư Á La và những người thuộc tôn giáo thần bí của ông cũng không thể giải thíchđược.”

Nhạc Dương chọc mạnh vào bản đồ trên màn hình máy tính, hình ảnh liền được phóng to mấy lần, chỉ nghe anh nghi hoặc nói: “Những hình vẽ này rốt cuộc là biểu thị ý nghĩa gì nhỉ? Chắc phải có tác dụng quan trọng lắm, đây là mấu chốt để giải đọc bản đồ này. Còn nữa, ở đoạn rẽ ngoặt đầu tiên, chỗ thì có những hình vẽ bất minh, chỗ lại không. Những hình vẽ này, rốt cuộc là có ý nghĩa tôn giáo, ý nghĩa tượng trưng hay ý nghĩa tả thực đây?”

“Tả thực?” Trương Lập nhìn bản đồ, trong mười một chỗ có khả năng là vị trí của bọn họ mà Nhạc Dương chọn ra, có sáu chỗ có những hình vẽ kỳ quái, rồi anh chàng lại ngẩng đầu lên nhìn xung quanh, sau đó chỉ vào một chỗ trên bản đồ hỏi: “Cường Ba thiếu gia, anh nói xem, hình vẽ này giống cái gì?”

Trác Mộc Cường Ba quan sát kỹ hình vẽ, rồi nghiêm túc trả lời: “Giống yêu quái.” Đó là một hình vẽ hết sức trừu tượng, thực sự không thể nào nói rõ là nó giống thứ gì được.

Nhạc Dương đưa mắt nhìn kỹ hơn, rồi bổ sung tường tận: “Nên nói là, giống một con yêu quái hình nón, không có chân không có hông, đầu đội cái mâm, trên mâm lại mọc ra cái nhọt như mai con rùa. Hai cái tai, một cái trông như con bươm bướm, một cái lại giống hình ngôi tháp trong chùa. Nó chỉ có một con mắt như mắt cua, có cái mũi dài như con giun, miệng như bông loa kèn, đầu và ngực bụng liền làm một, trông như bụng ếch.”

Trương Lập nói: “Có thể lùi lại một chút không?” Thuyền cao su lùi về phía sau, Trương Lập chỉ vào bình đài hình như cái mẹt mà bọn họ vừa dừng lại nghỉ ngơi, nói: “Hai người nhìn xem…”

Ánh đèn chiếu vào mé bên của bình đài, từ góc này, chỉ thấy chỗ bình đài nhô ra mặt sông trông như một cái dùi lơ lửng giữa không trung, chính giữa gồ lên như chiếc bánh bao nhỏ, đường nét uốn lượn nhìn từ phía mé bên vừa hay giống như có một con giun đang bò phía trên.

Nhạc Dương kinh ngạc tròn mắt nhìn bình đài hoàn toàn không có gì bắt mắt vừa cứu mạng bọn họ, ngờ vực nói: “Không phải vậy chứ…”

Trương Lập nói: “Tôi cũng cảm thấy khả năng này là không lớn lắm, nếu đã trải qua nghìn năm, bị dòng nước xối vào liên tục thế này, hình dạng những tảng nham thạch đó chắc biến đổi từ lâu rồi, làm sao mà giữ được hoàn chỉnh thế này, nếu có thì may ra hơi giông giống một chút thôi là cùng.”

Nhạc Dương lắc đầu: “Không, tôi không có ý ấy, tầng nham thạch dưới lòng đất này chỉ sợ còn rắn hơn cả ở Huyền Vũ nham ấy, không phải là sản phẩm của quá trình vận động tạo núi mới, mà đã được hình thành từ cả trăm triệu năm về trước. Có lẽ nó đã tồn tại từ thời địa cầu của chúng ta mới được sinh ra, vẫn còn ở thời kỳ dung nham. Đá cho dù rắn đến thế này, đúng là dòng nước xối vào cả nghìn năm cũng vẫn có thể bị biến hình, nhưng chắc chắn là không nhiều lắm. Đặc biệt ở phần trên bình đài, có thể thấy là chỗ không bị nước xối vào, rất có khả năng vẫn giữ được nguyên vẹn hình thái từ nghìn năm trước. Dáng mạo dòng sông ngầm mà chúng ta thấy ngày hôm nay là kết quả của sự biến động địa chất từ trăm triệu năm về trước, nếu không có các biến động địa chất lớn như núi lửa phun trào hay động đất, những tảng đá này, nghìn năm trước thế nào, giờ đây đại thể cũng gần giống hệt như vậy thôi. Nếu hình vẽ này là để chỉ cái bình đài này, thì những chỗ chúng ta không hiểu, rất có khả năng đều là bình đài hoặc những vật đánh dấu đặc biệt khác, có tác dụng làm cột mốc, làm phao tiêu trong cả hành trình! Những người này… những người này lúc nào cũng nằm ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Trong thế giới ngầm tối tăm mờ mịt không nhìn thấy gì mà có thể vẽ ra được một tấm bản đồ như thế, thậtđáng sợ quá, thật không thể nào tin nổi nữa!”

Trương Lập đột nhiên kêu lên: “A ha, tôi hiểu ra rồi! Người xưa đi thuyền trên sông ngầm đen kịt, cũng phải ăn uống ngủ nghỉ, chẳng hạn như đốt lửa nướng thịt hay thuyền bè bị hỏng cần phải sửa chữa… Những chuyện ấy sao có thể thực hiện trên thuyền được, vì vậy bọn họ đã đánh dấu những chỗ có thể nghỉ chân, giống như vừa nãy chúng ta sửa thuyền cao su ở trên kia kìa, thật là thông minh quá đi mất!” Câu cuối cùng ấy, cũng không biết là anh chàng định khen người xưa hay tự khen mình nữa.

Nhạc Dương không để Trương Lập có cơ hội cao hứng, đã lập tức phản bác: “Không thể nào.” Trương Lập ngơ ngác hỏi: “Cái gì không thể nào?”

Nhạc Dương lắc đầu: “Trên kia không thể nào là nơi nghỉ chân được. Trước tiên, bình đài ấy không hề lớn, cùng lắm có thể chứa được sáu bảy người là đã chật ních rồi, càng không nói gì đến chuyện sửa thuyền. Ba chúng ta chẳng qua chỉ mạo hiểm thử một đoạn hành trình đầu tiên nên mới dùng loại thuyền cao su bơm hơi nhỏ nhất này, còn người xưa phải đi cả một chặng đường dài trên dòng sông ngầm này, tất nhiên họ sẽ không dùng loại thuyền nhỏ chỉ ngồi được hai ba người, đồng thời, trên thuyền cũng không thể chỉ có sáu bảy người được. Thứ hai, nếu họ đốt lửa, có lẽ phải lưu lại dấu tích mới đúng, anh cũng nhìn thấy các bức tranh vẽ bằng than trong hang động rồi đấy, từ cả vạn năm trước mà vẫn còngiữ được đến ngày nay, huống hồ là đốt lửa. Nhưng chúng ta không hề phát hiện ra bất cứ dấu tích gì trên bình đài vừa rồi. Hơn nữa, nếu nói như anh, bình đài là chỗ dừng chân nghỉ ngơi, vậy thì, thời gian chính xác đến từng phút bên cạnh các hình vẽ này để làm gì?”

Trương Lập á khẩu, một lúc sau mới nói: “Vậy theo cậu thì để làm gì?”

Nhạc Dương đáp: “Tôi cho rằng, những chỗ này là cột mốc đánh dấu đường, cùng lắm thì dùng để buộc thuyền nữa, chỉ có vậy mà thôi. Anh nhìn những hình vẽ trên bản đồ này mà xem, chẳng phải chúng ta trước nay vẫn không đoán được tại sao cổ nhân lại phải dùng kỹ thuật vẽ hết sức tinh vi tỉ mỉ để miêu tả những hình thù cổ quái này hay sao? Sở dĩ bọn họ vẽ rõ ràng tỉ mỉ như thế, chính là để cho những người đi sau có thể phán đoán một cách chuẩn xác! Hai người nhìn đường nét ở đây xem, chỗ này nữa, cả chỗ bóng mờ này nữa, hình vẽ này và bình đài trên kia, căn bản như được đúc ra từ cùng một cái khuôn vậy, không sai đâu, xem ra chính là chỗ này rồi! Nhờ những cột mốc thế này, có thể tìm được vị trí cụ thể của chúng ta trên bản đồ rồi! Giờ chẳng phải đã tìm được rồi đấy sao!”

Trác Mộc Cường Ba ngờ vực nói: “Sao có thể chỉ dựa vào một đặc điểm chi tiết giống nhau mà đoán định đây chính là vị trí cụ thể của chúng ta trên bản đồ được chứ?”

Nhạc Dương nói: “Để tôi lên trên đó xem sao.” Nói rồi anh chàng quăng dây móc luôn, nhanh nhẹn trèo trở lên, kiểm tra tỉ mỉ bên trên bình đài trơn nhẵn ấy. Trương Lập cũng nổi lòng hiếu kỳ, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Cường Ba thiếu gia, anh giữ thuyền nhé, tôi cũng lên xem sao.”

Trác Mộc Cường Ba khống chế con thuyền cao su, nói: “Hai cậu cẩn thận đấy.”

Nhạc Dương từ bên trong bình đài, tỉ mỉ kiểm tra ra đến chỗ mũi nhọn chìa ra mặt sông, cuối cùng phát hiện ở một mé của mũi nhọn có một vệt lõm rất rõ ràng, máng lõm hình tròn sâu chừng năm centimet này không tự nhiên hình thành, mà như thể được vật gì đó mài giũa tạo ra. Anh chàng chỉ vào đó, nói với Trương Lập: “Anh xem đi.”

Trương Lập lấy làm lạ nói: “Ồ? Sao ở đây lại có một cái máng thế nhỉ? Dùng để làm gì được chứ?” Nhạc Dương lắc đầu: “Không biết, nhưng ngoài chỗ này ra thì không còn dấu vết gì nữa, chúng ta xuống thôi.”

Hai người kể sơ qua tình hình trên bình đài. Trác Mộc Cường Ba gật đầu, rồi bật bản đồ trên màn hình máy tính ra nói: “Nhưng còn một vấn đề nữa, hai cậu xem đi, nếu chúng ta chọn chỗ này là vị trí của mình trên bản đồ, thời gian lại không đúng nữa rồi. Thời gian tiến về Shangri-la lẽ ra phải tăng dần lên mới phải, nhưng chỗ chúng ta đang ở đây, lại thuộc về khoảng thời gian cuối cùng. Lẽ nào, chú thích trên bản đồ này là thời gian đi từ Shangri-la trở ra à?”

Nhạc Dương nói: “Giờ thì vẫn chưa thể đoán định được, nhưng nói theo góc độ của lính trinh sát chúng tôi, chân tướng chỉ có một. Giờ đã có thể nói là đặc điểm chi tiết của hình vẽ trên bản đồ hoàn toàn trùng khớp với bình đài mà chúng ta trông thấy ở đây, vậy thì, có khả năng lý giải của chúng ta về mặt thời gian sai lạc ở đâu đó. Hai người xem, nếu nói mỗi hình vẽ trừu tượng mà chúng ta xem không hiểu ở trên bản đồ này là một bình đài có thể dừng chân, có lúc xuất hiện ở chỗ đường rẽ nhánh, có lúc lại xuất hiện ở giữa đoạn đường, tuyệt đối không có ngoại lệ, thì bình đài, màu sắc biểu thịthời gian và những hình vẽ mười hai con giáp liên hệ rất chặt chẽ với nhau như vậy, chắc chắn là phải có dụng ý gì đó. Nói không chừng, thời gian này, không phải chỉ thời gian từ lúc xuất phát đến được Shangri-la. Rốt cuộc là gì nhỉ? Lẽ nào đúng là thời gian từ Shangri-la đi ra thế giới bên ngoài hay sao? Nhưng khoảng cách thời gian ghi chú trên hai đoạn sông này ngắn hơn rất nhiều so với thời gian chúng ta đã tốn cơ mà nhỉ?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Vấn đề này tạm thời chưa bàn vội, cậu đã kiên trì cho rằng đây chính xác là vị trí cụ thể của chúng ta trên bản đồ, có thể chứng minh được không?”

Nhạc Dương nói: “Đương nhiên, nếu vị trí của chúng ta là chính xác, vậy thì, hai người nhìn chỗ này đi, trên bản đồ đã vẽ rất rõ ràng, ở chỗ nhánh sông này, bên cạnh có một dòng chảy song song, khoảng cách rất gần, ở giữa còn có một bình đài nữa, nếu chúng ta đi vào cửa hang bên phải, thoạt nhìn có vẻ là tiến lên phía trước, nhưng chẳng mấy chốc sẽ gặp một chỗ rẽ ngoặt, chúng ta cứ đi theo đường đó, có thể trở lại được chỗ rẽ nhánh đầu tiên, khúc sông này chính là nối liền với chỗ rẽ ngoặt sang bên phải đó đó.”

Trương Lập nói: “Nếu cậu đoán sai, chẳng phải chúng ta sẽ mất gấp đôi thời gian vòng đi vòng lại hay sao?” Nhạc Dương nói: “Tôi có thể lấy nghề nghiệp ra đảm bảo, không thể sai được đâu.” Trương Lập lầm rầm: “Nghề nghiệp của cậu có ổn định đâu, chẳng phải đã thanh lý hợp đồng lao động rồi à?” Nhạc Dương nói: “Thanh lý cái đầu anh ấy.”

Trác Mộc Cường Ba đành lên tiếng dàn hòa: “Được rồi, giờ chúng ta xuất phát, nếu có thể xác định được vị trí của chúng ta trên bản đồ, vậy thì…”

Trương Lập tiếp lời: “Vậy thì, chuyến đi tới Shangri-la đã đầy đủ mọi yếu tố cần thiết, chỉ còn thiếu một con thuyền đủ lớn nữa mà thôi.”

Thuyền hình rắn

Chiếc thuyền cao su rẽ vào cửa hang ở rìa bên phải, đúng như Nhạc Dương nói, đang tiến về phía trước chưa được năm mươi mét đột nhiên thấy xuất hiện một góc ngoặt gần một trăm độ, vòng qua chỗ đó, thì tiến dần về phía cửa hang. Đoạn sông này bình lặng đến bất ngờ, không có khu vực nào nguy hiểm quá, chỉ hơi dốc, tốc độ dòng chảy trung bình cao hơn đoạn sông lúc họ đi vào khá nhiều, ba người phải tốn rất nhiều sức lực mới có thể khiến con thuyền cao su nhẹ bẫng ngược dòng tiến lên. Dọc đường, họ đã tìm thấy chỗ đánh dấu bằng một hình vẽ kỳ quái khác, quả nhiên lại là một bình đài nữa, so với cái đầu tiên thì lớn hơn, nhưng cũng cao hơn, cách mặt nước xa hơn, chiếu đèn lên, cảm tưởng như trênvách đá có thêm một cái tủ, muốn nghỉ chân trên đó phải khom lưng ngồi chồm hổm mới được. Giữa “cái tủ” có một cây cột đá đường kính khoảng hai mét, không biết có phải tự nhiên hình thành hay không. Nhìn từ mé bên, “cái tủ” đó trông như một đôi hốc mắt, rất giống hình vẽ ghi chú trong bản đồ. Nhạc Dương leo lên kiểm tra bình đài và so sánh với hình vẽ trong bản đồ, gật đầu đầy tự tin. Anh phát hiện ra ở giữa trụ đá cũng có một máng hõm xuống, giống như dấu vết bị dây thừng thít vào. Nhạc Dương lấy máy quay ghi lại hết những chỗ nghi hoặc, rồi trở lại thuyền.

Trương Lập nói: “Sao rồi? Có phải là bình đài vẽ trên bản đồ không?”

Nhạc Dương đáp: “Xem ra đúng rồi, nhìn đôi mắt này xem, cả sống mũi ở giữa nữa, chính là nó rồi còn gì! Chỉ có điều dựa theo thời gian ở đây mà tính toán, từ chỗ bình đài kia đến đây, chẳng qua chỉ mất có mấy phút thôi, vậy mà chúng ta phải chèo thuyền mấy tiếng đồng hồ kia đấy, thế này là thế nào chứ? Còn nữa, tôi phát hiện ra trên trụ đá ở giữa kia có một máng hõm vào, không biết công dụng để làm gì.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn lại đoạn phim ghi hình, lắc đầu nói: “Tối quá, chúng ta trở về rồi nghiên cứu sau. Chỉ cần biết được vị trí…”

Ba người ra sức quạt mái chèo trở về. Đã tìm được vị trí chính xác của thông đạo này trên bản đồ, bọn họ chẳng khác nào được tiêm cho một mũi trợ tim. Từ chỗ rẽ bên phải trở lại đoạn sông lúc xuất phát, họ nhìn thấy ống huỳnh quang để lại dọc đường hồi nãy, các dấu mốc đều đã được chứng thực. Bọn Trác Mộc Cường Ba vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, càng dốc sức chèo trở lại. Bọn họ phải nhanh chóng báo tin tức tốt lành này cho pháp sư Á La đang đợi bên ngoài kia. Chẳng những vậy, họ còn nôn nóng muốn báo tin mừng ấy đến tất cả các thành viên khác trong đội.

Tới đoạn sông có dòng chảy ổn định, tốc độ quạt mái chèo của Nhạc Dương chậm lại rõ rệt. Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập cùng nhanh chóng nhận ra. Chỉ thấy anh chàng đang thẫn người ra nhìn những ống huỳnh quang để làm dấu dọc đường, Trác Mộc Cường Ba bèn hỏi: “Sao thế?”

Nhạc Dương giật mình sực tỉnh, nói: “Hả? À không, không có gì. Không biết Cường Ba thiếu gia có để ý thấy không, những chỗ đánh dấu này, hình như cao hơn trước thì phải?”

Nghe Nhạc Dương lưu ý, Trác Mộc Cường Ba mới phát hiện ra. Chính xác là vậy, khi Nhạc Dương gắn những cột mốc này lên vách đá, anh chàng ngồi trên thuyền, cứ thế mà gắn vào những mốc dọc theo mạn thuyền thôi. Nhưng lúc này, nếu muốn với đến những chỗ đánh dấu đó, Nhạc Dương phải đứng lên vươn tay ra mới tới được. Nói một cách khác, mực nước của dòng sông ngầm đang hạ xuống, còn hạ xuống khá nhiều nữa, ít nhất cũng phải hai mét. Thời gian họ ở dưới sông, cùng với cả thời gian nghỉ ngơi, tổng cộng khoảng hơn tám tiếng đồng hồ, chỉ trong một ngày mà mực nước sông ngầm lại thay đổi lớn đến như vậy, thật không hợp tình hợp lý chút nào, đặc biệt là khi dòng chảy và lượng nước của sông Nhã Lỗ Tạng Bố đều ổn định, dòng sông ngầm này càng không thể xảy ra hiện tượng như vậy mới đúng. Trác Mộc Cường Ba nói: “Giờ không phải mùa lũ, không có lý do gì để nói rằng đến tối mực nước sông Nhã Lỗ Tạng Bố đột nhiên dâng lên cả.”

Trương Lập nói: “Mực nước lúc này chắc là tương đương với mực nước hôm qua hai người vào đây đúng không?”

Nhạc Dương nói: “Ừm, có lẽ là cao hơn hôm qua một chút. Đợi chút đã, Cường Ba thiếu gia, hôm qua anh có nói, hình như thấy mực nước đang dâng lên đúng không? Vậy có nghĩa là, mực nước của dòng sông ngầm này sẽ tiếp tục giảm đến mức thấp nhất, sau đó, nó lại bắt đầu dâng tràn lên, dâng đến vị trí cao nhất lại hạ xuống, vòng đi vòng lại, sao lại như thế nhỉ?” Ba người bọn Trác Mộc Cường Ba ngơ ngác nhìn nhau, không sao hiểu nổi.

Trương Lập ngẩng đầu lên nói: “Vậy độ cao tối đa của nó là bao nhiêu nhỉ?”

Nhạc Dương nói: “Có thể dựa vào mức độ thấm nước ở vách đá để quan sát mực nước cao nhất, nhưng dĩ nhiên là, nếu mức độ ngấm từ trên xuống nghiêm trọng quá thì không thể nhìn ra được đâu.”

Trác Mộc Cường Ba chiếu đèn pha lên. Không ngờ, dưới ánh đèn rực sáng, ba người trông thấy một cảnh khiến người ta không sao không kinh ngạc cho được… Một con thuyền, một con thuyền lớn rộng chừng hai mét, nhưng dài đến mười mấy mét đang lơ lửng trên đỉnh đầu. Nó lặng lẽ, bình yên treo lơ lửng giữa không trung, như đang vĩnh viễn đợi chờ vị lữ khách tiếp theo. Dưới ánh đèn, họ nhìn thấy phần lòng thuyền, trông như bụng con rắn bị mổ phanh ruột. Không hiểu con thuyền làm bằng chất liệu gì, trông rất dày dặn mà chắc chắn, thân thuyền tròn như cái ống, xương sống và các rẻ quạt chĩa sang hai bên tạo thành hình chữ phong (丰) kéo căng cả con thuyền ra. Kế đó, không biết là đầu thuyền hay đuôithuyền nữa, hai đầu nhọn như hình thoi, hơi cong cong vểnh lên. Xương sống và mũi thuyền kết hợp với nhau một cách hoàn chỉnh, tạo thành một chỗ gồ phình to ra, không biết dùng để làm gì. Ngoài ra, con thuyền không hề có trang trí hay tạo hình gì đặc biệt, trông giản dị như thuyền độc mộc. Ánh đèn di chuyển, Nhạc Dương và Trương Lập nhìn thấy hình dáng toàn bộ con thuyền, đây là một con thuyền độc mộc hình thoi, nhưng ở giữa lại uốn cong như chữ “S”, hai đầu nhọn vểnh lên cao, một cao một thấp, nhưng cả bên thấp hơn cũng còn cao hơn phần mũi nhọn của thuyền gonzola ở Venice nhiều lắm, hai bên thuyền có chỗ phình to nối liền với xương sống con thuyền, thoạt nhìn hơi giống con rắn khổng lồ.Mặc dù con thuyền hình dạng kỳ quái, cả Trương Lập lẫn Nhạc Dương đều chưa từng trông thấy bao giờ, nhưng ngay từ khoảnh khắc đầu tiên nó xuất hiện trong tầm mắt, hai người bọn họ dường như không hề suy nghĩ đã lập tức nhận định, đây chính là một con thuyền, nhất định là một con thuyền.

Con thuyền hình rắn kẹt chặt giữa mấy khối thạch nhũ to lớn cồng kềnh, những trụ đá cong cong trông như móng vuốt của con thú khổng lồ tóm chặt lấy nó mà treo lơ lửng giữa không trung. Trong bóng tối vô tận, nếu không đặc biệt chú ý, không ai có thể phát hiện ra sự tồn tại của con thuyền ở nơi đây được.

Nhạc Dương nói: “Lẽ nào, mực nước có thể dâng lên tới tận đó?” Trương Lập nói: “Hình dáng con thuyền này sao thế nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Trông hơi giống thuyền da bò.” “Thuyền da bò?”

Trác Mộc Cường Ba giải thích: “Đó là một loại phương tiện giao thông trên nước mà dân Tạng cổ xưa thường sử dụng. Các cậu biết rồi đấy, Tây Tạng núi cao mà dốc, nước chảy rất xiết, thuyền gỗ nhỏ thông thường không thể chịu được va đập. Loại thuyền da bò này, bên trong có xương sống chịu lực, bên ngoài bọc da bò, đáy thuyền thông thường là nguyên một bộ da bò căng ra, thân thuyền dùng bốn đến năm tấm da ghép lại, sau khi xuống nước, da bò mềm ra, giống như gân bò ấy, dai chắc vô cùng, lại có tính đàn hồi, hễ có va chạm mạnh là bật ngược trở ra tránh được. Con thuyền trên đỉnh đầu chúng ta kia, kết cấu bên trong khá giống với thuyền da bò, có lẽ do mực nước dâng lên đến độ cao ấy, đã bị dòng nước xiết làm cho lật nhào, kẹt vào giữa các trụ đá, do đó có thể thấy độ đàn hồi của nó rất lớn. Nhưng rốt cuộc nó là loại da gì ghép lại nhỉ? Phải biết là phần đáy thuyền da bò không thể ghép mấy tấm da lại được, vì da ghép khó đảm bảo cho thuyền không bị ngấm nước. Hơn nữa, hầu như thuyền da bò đều hình vuông hoặc hình cái chêm, tôi chưa bao giờ trông thấy con thuyền nào hình thù quái dị như vậy cả.”

Trương Lập nói: “Con thuyền ấy sao lại ở đây? Thuyền của ai nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Không biết, có lẽ là của dân trong thôn Công Bố canh giữ Cánh cửa Địa Ngục từ thời cổ đại để lại, hoặc là của những người tiến về Shangri-la thời xa xưa nữa, hoặc giả là…”

“Người điên kia…” Nhạc Dương tiếp lời.

“Đúng vậy.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Hơn nữa thuyền của người xưa không có khả năng tồn giữ được lâu như vậy, rất có thể là thuyền của người điên đó bỏ lại. Nhưng thuyền da bò không có mái chèo, chỉ thích hợp trôi xuôi dòng nước chứ không tiện đi ngược dòng chút nào, đại đa số sông ngòi ở Tây Tạng đều rất khó bơi ngược dòng nước.”

Trương Lập nói: “Nếu nói thuyền của người điên kia bị kẹt ở đây, nhất định là anh ta đã chui ra từ cửa hang hẹp kia rồi, không thể nào, làm sao anh ta bò ra khỏi đó được chứ? Hơn nữa, một con thuyền lớn thế này, sức một người sao có thể điều khiển được!”

Nhạc Dương nói; “Vậy chúng ta lên trên đó xem sao, tất cả đều vẫn chỉ là giả thiết thôi mà.” Nói đoạn, anh lấy thiết bị bắn dây móc Trương Lập mới thiết kế ra (so với cái hồi trước, dây to hơn, khoảng cách bắn dây ngắn hơn, Nhạc Dương đã phàn nàn chuyện này không biết bao nhiêu lần rồi), đeo vào cổ tay, vung tay một cái, dây móc đã ghim vào vách đá trên đỉnh, Nhạc Dương sử dụng bộ ròng rọc đồng bộ của Trương Lập chế tạo, được động cơ điện từ từ nâng thân thể lên cao. Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập cố định thuyền cao su vào sát vách đá, rồi cũng leo bám vách đá trèo về phía con thuyền kỳ lạ kia.

Vừa chạm vào thân thuyền, Nhạc Dương đã kêu “A” lên một tiếng, thì ra anh chàng vừa đặt chân xuống đã không vững, cảm giác như con thuyền trượt đi một cái, như thể giẫm lên đuôi của con thú khổng lồ nào đó, cái đuôi ấy đột nhiên lại giật mạnh. Nhạc Dương suýt chút nữa rơi tòm xuống dưới. Còn Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập trèo lên trên đáy thuyền lại không gặp phải tình hình như vậy.

Đứng ở đáy con thuyền, họ mới nhận ra nó lớn hơn lúc nhìn từ xa rất nhiều, rộng hai ba mét, dài mười mấy mét, giống như một toa tàu. Ba người thử tìm cách lật con thuyền lại, nhưng gắng sức một phen thì nhận ra chuyện này vốn không thể thực hiện, trừ phi là phải gỡ con thuyền ra khỏi mấy trụ đá nhô xuống. Nhưng một khi để con thuyền lớn hạ thủy, họ sẽ rất khó giữ cho nó không trôi xuôi theo dòng nước đi mất. Một điều rất lạ là, con thuyền đơn giản này lại cực kỳ kiên cố, giẫm lên chẳng khác gì nền đất rắn, căn bản không cảm thấy lún hay mềm mềm như giẫm lên bề mặt da. Theo Trác Mộc Cường Ba, đây là do xương sống và các xương phụ hình rẻ quạt đã căng bề mặt da ra hết cỡ. Nhưng Nhạc Dương tìmkhắp một lượt rồi mà không phát hiện ra mối nối ghép nào trên cả chiếc thuyền bằng da. Nói cách khác, con thuyền này không phải do ghép lại, mà là dùng nguyên một tấm da lắp vào khung thuyền. Nhưng theo những gì bọn Nhạc Dương biết được, trên thế giới hiện nay, dù là lột nguyên một bộ da cá voi xanh ra cũng không thể căng được con thuyền như thế này. Vì vậy, bọn họ suy đoán, có thể là những người chế tạo thuyền đã phát minh ra một hợp chất tương tự như cao su, nhưng nhìn bề ngoài lại giống như da động vật, vừa chắc vừa bền. Nhạc Dương lần theo mép thuyền, một mình chui vào phần bên trong đang dốc ngược, thấy xương sống và các xương rẻ quạt đều lộ ra, trông như một cái lồng ngực khổng lồ mởtoác, ngoài vậy thì không còn thứ gì khác, đơn giản đến nỗi chỉ nhìn thoáng qua một cái là thấy hết tận tường.

Trác Mộc Cường Ba cúi xuống mép thuyền, chuẩn bị cắt ra một mẩu về làm mẫu vật nghiên cứu, nhưng gã cũng hết sức kinh ngạc nhận ra, con dao phẫu thuật cắt sắt thép như cắt bùn của mình lại không có tác dụng mấy, cắt dọc theo mép da, mà chỉ tách ra được một mẫu nhỏ như cái vảy. Vật chất có dạng như da động vật này dày đến năm xăng ti mét, càng khẳng định thêm suy đoán đây là một hợp chất nhân tạo, nếu là da động vật, thử hỏi có loài vật nào mà da phơi khô rồi vẫn dày năm xăng ti mét cơ chứ? Vậy lúc ở trên thân thể động vật kia, nó dày tới mức nào nữa?

Còn cả phần xương sống nữa, càng khiến người ta kinh ngạc hơn là phần chính giữa xương sống sử dụng kết cấu khóa, hoặc nói theo cách khác, xương sống của con thuyền này giống cột sống của một loài sinh vật nào đó, từng đốt từng đốt nối với nhau, không bao giờ bị tuột ra, nhưng lại có thể hoạt động dễ dàng. Cũng có nghĩa là, con thuyền này có thân thuyền bằng một loại hợp chất tương tự như da của loài nhuyễn thể, lại có một khung giá giống như cột sống động vật, cộng với phần đáy bằng phẳng, kết cấu có thể đảm bảo thuyền không bao giờ bị lật dưới nước, mà có thể uốn khúc ngoằn ngoèo như rắn, chẳng trách lúc Nhạc Dương đặt chân xuống đáy thuyền, lại có cảm giác như thân thuyền đột nhiên nhúcnhích.

Trương Lập cho rằng, đây là con mãng xà khổng lồ dài hơn hai chục mét, đường kính hơn ba mét bị người Qua Ba bắt xẻ làm thuyền, bằng không làm sao có loại thuyền kỳ hình quái trạng như vậy được. Trác Mộc Cường Ba chỉ lắc đầu không nói gì, một loài sinh vật như vậy không thể tồn tại trong thế giới thực được, hơn nữa thân thuyền bằng chất liệu hơi giống da động vật này và cốt thuyền ở trong rõ ràng không khít nhau, cốt thuyền vẫn bằng gỗ. Gã và Nhạc Dương đều nhận định, người chế tạo thuyền đã phỏng theo kết cấu cột sống của con người hoặc động vật, vận dụng kết cấu khóa móc để tạo ra loại cốt thuyền có thể uốn lượn nhúc nhích này, còn về chất liệu cốt thuyền thì Trác Mộc Cường Ba bảo bằng đá, Nhạc Dương nói bằng gỗ, cuối cùng chưa có kết quả ngã ngũ.

Các xương rẻ quạt bằng gỗ gắn vào xương sống con thuyền để căng bề mặt da, mỗi thanh đều to bằng cổ tay người trưởng thành, đen sì sì, dài đến mười mấy mét hoặc hơn, nhìn bề ngoài, dấu vết bàn tay con người rất ít, như cây gỗ được giữ nguyên hình trạng ban đầu, chỉ được bóc lớp vỏ cây hoặc thậm chí cả vỏ cây cũng không bóc đi. Trong trí nhớ của mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba, những cây thân chỉ to bằng bắp tay, mà cao đến mười mấy mét, lại còn không có cành chĩa ra rất hiếm gặp, nhưng cả mấy người đều không thể đoán ra được đây là loại cây gì.

Nhạc Dương kiểm tra rồi nói: “Rất rõ ràng, loại da nhân tạo này có công năng tự động phòng nước, trên đỉnh nước rỉ xuống rất nhiều, nhưng trong thuyền lại không hề có dấu vết bị ngấm nước, chất gỗ này cũng thật dị thường, sao lại như vậy nhỉ?”

Trương Lập cũng cúi đầu xuống, dòm vào bên trong thuyền từ phía dưới, nói: “Vậy là tốt rồi, có con thuyền lớn này, ngồi hai ba chục người đâu thành vấn đề. Con thuyền này chắc thật đấy, nếu đúng là của người điên ở Mông Hà kia thì ít nhất nó cũng treo ở đây ba bốn năm rồi, vậy mà chẳng hề có dấu hiệu bị biến chất gì cả.”

Trác Mộc Cường Ba cạo một ít da và gỗ trên thuyền cất đi, rồi hỏi Trương Lập và Nhạc Dương: “Còn phát hiện gì nữakhông?”

Nhạc Dương nói: “Con thuyền này bị lật ngược, rõ ràng là đã bị ngâm nước, không có dấu vết gì để lại cả đâu.” Trương Lập nói: “Nhìn một cái đã rõ rồi, còn đầu mối gì được nữa chứ.”

Nhạc Dương nói: “Đợi chút đã.” Anh chàng cẩn thận thò đầu ra, đèn gắn trên đầu chiếu vào chỗ uốn lượn ở mép thuyền, rồi lấy đầu ngón tay nhón lên một chút cát mịn: “Cái này không thể từ trên nhũ đá rơi xuống được, nếu chúng ta giả thiết con thuyền này thuộc về người điên ở Mông Hà kia, vậy thì loại cát này, có lẽ là được mang từ Shangri-la ra đó.”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Vậy… cũng gói lại mang về đi.” Ba người lục soát khắp con thuyền thêm một lượt nữa. Nhạc Dương còn treo lộn ngược người, kiểm tra kỹ bên ngoài thân thuyền. Không thấy phát hiện được gì thêm, cả ba mới trở lại thuyền cao su, tiếp tục quay ra.

Khi thuyền ra đến chỗ nước chảy vào, mực nước đã hạ xuống tương đương với mực nước ngày hôm qua, Trương Lập cứ xuýt xoa kỳ lạ mãi. Hiện tượng này dường như hoàn toàn không phù hợp với quy luật tự nhiên chút nào. Ba người vùng vẫy một hồi, cuối cùng cũng vượt qua được dòng nước xiết xối xả, trở lại mặt sông. Ra đến thế giới bên ngoài, cảm tưởng như đã trải qua một cuộc đời khác. Lúc đó, họ mới phát hiện sắc trời đã tối, vội vàng liên lạc với pháp sư Á La. Lúc bám vách đá leo lên, thấy pháp sư Á La đang ngồi yên trên bình đài, chỉ có Na Thâm là đang bất an đi đi lại lại, ba người cùng biết, phải có sức nhẫn nại và nghị lực hơn người mới có thể trầm tĩnh được như ông.

Bốn người không dừng lại lâu trên bình đài, nhân lúc trời còn chưa tối hẳn, đi một mạch về thôn Công Bố trong đêm, ăn uống qua loa mấy bát cơm gạo Túc Mã với ếch nướng, rồi trở về phòng đóng cửa, bắt đầu nghiên cứu tình hình dưới sông ngầm.

Số liệu tổng hợp của lần đo đạc dưới sông ngầm hiển thị, tốc độ trung bình dòng chảy ngầm khoảng hai mét/giây, nhưng ở khu vực dốc đột ngột, cơ hồ có thể lên đến bảy mét/giây, thiết bị đo đếm khoảng cách hiển thị họ đã đi tổng cộng 47.88 ki lô mét bằng thuyền, lúc đi, hai tiếng đồng hồ đi được 24 ki lô mét, vận tốc trung bình 12 ki lô mét/giờ, nhưng vận tốc dòng chảy bình quân tính ra đã gần 3 mét/giây. Cũng có nghĩa là, họ không cần chèo thuyền, chỉ cần xuôi theo dòng nước thôi cũng đã đạt được vận tốc 10 ki lô mét/giờ rồi. Có điều, lần này ba người chỉ đi thăm dò, đặt an toàn lên hàng đầu, nếu tìm hiểu rõ được tình hình trong hang động, đại khái có thể nâng tốc độ lên mười lăm ki lô mét/giờ. Nhạc Dương tính toán, mỗi ngày đi thuyền mười tiếng đồng hồ cũng đã được một trăm năm mươi ki lô mét rồi, như vậy thì dù sáu bảy trăm cây số cũng chỉ mất khoảng ba bốn ngày đường là cùng. Nếu có thể sử dụng con thuyền lớn này, vận tốc chắc chắn có thể vượt hơn hai mươi ki lô mét/giờ, chỉ cần ba ngày là đến được Shangri-la. Trương Lập ngồi bên cạnh phụ họa với Nhạc Dương, tựa như đã đến được Shangri-la ngay rồi vậy.

Pháp sư Á La từ đầu chí cuối vẫn không lên tiếng, cho tới khi xem đến đoạn bọn Trác Mộc Cường Ba khó nhọc vượt qua khu vực nước chảy xiết, ông mới không nén được mà kêu lên “A” một tiếng khe khẽ, nét mặt hết sức nặng nề.

Bọn Trác Mộc Cường Ba cũng hiểu được nguyên nhân tại sao pháp sư Á La kinh hãi. Thế này thì không đơn thuần là sông ngầm dưới lòng đất nữa rồi, mà là khe nứt dưới lòng đất mới đúng, nếu mức nước chênh lệch thêm chút nữa, rất có thể sẽ hình thành thác ngầm dưới lòng đất. Điều khiến người ta lo lắng nhất là, không biết rốt cuộc có bao nhiêu đoạn sông như thế, nếu cứ mười mấy ki lô mét lại gặp phải một đoạn sông thế này thì đúng là tệ đến không thể nào tệ hơn được nữa rồi.

Pháp sư Á La bật tấm bản đồ lên, nói: “Thời gian các cậu sử dụng rõ ràng chậm hơn rất nhiều so với thời gian đánh dấu trên bản đồ này, nếu thuyền lớn người đông, tốc độ có thể sẽ tăng lên. Theo tính toán tốc độ trước mắt, muốn vượt qua khu vực này nhanh nhất cũng phải đến ba ngày đó.”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Tôi biết.” Pháp sư Á La lộ ánh mắt dò hỏi, nhìn Trác Mộc Cường Ba hồi lâu, cuối cùng lên tiếng nhắc gã: “Còn nhớ lần thử nghiệm Mật tu đầu tiên của cậu không, Cường Ba thiếu gia?”

“À,” Trác Mộc Cường Ba hình như đã hiểu ra điều gì đó, chẳng trách vừa nãy mình không lộ vẻ kinh ngạc gì. Pháp sư Á La rất lưu tâm, thử nghiệm Mật tu đầu tiên của gã chính là giữ được tỉnh táo trong bóng tối, lúc đó gã chỉ cầm cự được chưa đến một tiếng đồng hồ. Nhưng dù sao tình cảnh lúc đó cũng khác với bây giờ mà.

Pháp sư Á La nói: “Tôi biết cậu đang nghĩ gì, nhưng tôi vẫn phải nói với cậu điều này, Cường Ba thiếu gia, ba ngày ba đêm giữ được tập trung cao độ và tinh thần tỉnh táo trong bóng tối, chuyện này không chỉ có khó thôi đâu. Dù là đối với Mật tu giả, cũng không phải dễ dàng gì mà thực hiện được.”

Trương Lập nói: “Vậy giờ chúng ta làm sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi nghĩ, e rằng phải trở về một chuyến, rồi cùng nghiên cứu phân tích tư liệu với mọi người, nếu có phương án nào khả thi, chúng ta sẽ bắt tay chuẩn bị xuất phát luôn.”

Nhạc Dương gật đầu tán đồng: “Phải, đây là chuyện duy nhất chúng ta có thể làm được trong lúc này, chuyện thăm dò U Minh hà cũng chỉ có thể làm được đến thế mà thôi. Hôm nay chúng ta đã mạo hiểm đi được xa nhất trong khả năng hiện tại của mình rồi còn gì. Mọi người xem bản đồ đi, ở phía trước có rất nhiều chỗ rẽ nhánh, chỉ cần gặp thêm đoạn nước chảy xiết nữa, rất có thể chúng ta sẽ lạc mất phương hướng, không tìm được đường trở về ấy chứ. Phải rồi, tôi còn muốn đi dọc bờ sông để đặt một số thiết bị thăm dò thủy văn, ghi lại tốc độ và lưu lượng chảy của sông Nhã Lỗ Tạng Bố, đợi lần sau trở lại có thể biết được đến tối nước có dâng lên hay không rồi.”

Pháp sư Á La xem lại đoạn phim ghi hình trong bóng tối có ánh đèn lấp lóa, ba người hò hét loạn xạ, vẫn lắc đầu khôngthôi.

Trương Lập nói: “Còn nữa, chúng ta mới chỉ kiểm tra sơ qua con thuyền đó một lượt bằng tay. Nó còn có thể sử dụng được hay không, có thể chịu va chạm hay không, có bị ngấm nước hay không đều chưa biết rõ. Vì vậy, sau khi trở về, chúng ta cần phải đem một loạt thiết bị đo đạc đến tiến hành kiểm tra, nếu mọi phương diện đều đủ tiêu chuẩn, lúc ấy mới thực sự yên tâm mà ngồi lên nó tiến về Shangri-la được.”

Ngày hôm sau, bốn người đã hoàn thành bước thăm dò sơ bộ dòng U Minh hà, liền cáo từ người dân thôn Công Bố, theo đường cũ đi dọc bờ sông trở về. Họ tìm được một triền dốc phía trên thượng du, cách Cánh cửa Địa ngục ước chừng hai mươi ki lô mét. Nhạc Dương nhớ lại đường đi men theo bờ sông đến đây, nói ở dưới hạ du chừng tám mươi ki lô mét còn một chỗ có thể cập bờ được. Để lắp đặt các thiết bị đo đạc thủy văn, đồng thời tìm hiểu sâu hơn về hoàn cảnh xung quanh Cánh cửa Địa ngục, bọn họ quyết định thả thuyền trôi dòng từ chỗ này.

Nước chảy rất xiết, nhưng đối với những người từng xuôi theo dòng U Minh hà dưới lòng đất như bọn Trác Mộc Cường Ba thì như vậy không đáng là gì. Nhạc Dương đặt các thiết bị giám sát bên bờ sông, hoàn thành nốt việc đo đạc cuối cùng ở xung quanh Cánh cửa Địa ngục, rồi trở lại con đường nhỏ ven bờ sông, rời khỏi Mặc Thoát.

Chiến ngao thời nhà Nguyên

Vừa vào cửa, Trương Lập đã không thể nín nhịn lâu hơn, hét toáng lên: “Chúng tôi về rồi đây! Sao thế? Không ai ra đón mừng chúng tôi trở về à?”

Đường Mẫn ở phòng trong thò đầu ra nói: “Ồ, các anh hùng ca khúc khải hoàn rồi đấy hả!” Nhạc Dương nhảy vào trong, nói: “Ha ha, thu hoạch rất lớn, thu hoạch rất lớn đấy nhé!” Mẫn Mẫn hân hoan nói: “Nhìn mấy anh cao hứng chưa kìa, có tin tức gì tốt lành không?”

“Bọn anh tìm được Cánh cửa Địa ngục thật sự rồi.” Trác Mộc Cường Ba xách ba lô bước qua cửa, Mẫn Mẫn liền bổ đến như một cánh én, nhào vào ôm cổ Trác Mộc Cường Ba, đu cả người lên khỏi mặt đất.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Anh…, bọn anh còn phát hiện ra một con thuyền nữa, mau xuống đi nào…” Mẫn Mẫn dựa vào lòng Trác Mộc Cường Ba nói: “Em cũng có tin tốt lành muốn nói với anh đây. Đoạn văn bản tiếng Mông Cổ ấy được dịch ra rồi, giáo sư nói, khi nào anh về sẽ cho anh biết, trong đó có nội dung mà anh hứng thú lắm đấynhé.”

“Ồ.” Trác Mộc Cường Ba nhìn thẳng vào người đẹp trong lòng mình, nói: “Gì vậy, mau nói cho anh biết đi.” Mẫn Mẫn dẩu môi lên nói: “Bí mật, không nói cho anh đâu. Anh đi mà hỏi giáo sư ấy.”

Trác Mộc Cường Ba vội vàng chạy đi tìm giáo sư Phương Tân. Vừa gặp ông, gã đã hỏi ngay: “Thầy giáo, đoạn văn bản đó viết gì thế? Mẫn Mẫn nói là có nội dung tôi rất hứng thú, lẽ nào chính là…”

Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Phải, cậu qua xem đi, nói về chó ngao đấy.” Trác Mộc Cường Ba quỳ một chân xuống bên cạnh chiếc xe lăn của giáo sư Phương Tân, chỉ thấy trên màn hình hiện lên những hàng chữ đã được dịch sang tiếng Trung. Giáo sư Phương Tân ở bên cạnh giải thích: “Người viết đoạn văn bản này, là một vị quan đi theo đoàn quân Mông Cổ, hơi giống với thư ký chính ủy quân đoàn ấy, chuyên phụ trách việc ghi lại những điều nhìn thấy khi hành quân tác chiến gửi về triều đình. Nội dung viết trong văn bản này, là bắt đầu từ năm 1287, Hốt Tất Liệt lệnh cho quân đội Tây chinh…”

Phần nội dung phía trước đại khái là, từ sau khi Chân Kim[21]chết, tính tình Hốt Tất Liệt càng ngày càng trở nên nóng

nảy gắt gỏng. Ông ta vốn thích chinh chiến, sau khi mất con, lại càng thêm điên cuồng xua quân đi khắp nơi, trước sau đã tấn công mấy nước mà ngày nay là Ấn Độ, Miến Điện, Campuchia, giành được những thắng lợi nhất định. Nhưng rồi mọi người nhanh chóng phát hiện ra, khi những binh sĩ viễn chinh từ phương Nam trở về, họ đã mang theo bệnh dịch. Cả khu vực Giang Nam ở Trung Quốc bắt đầu lan tràn ôn dịch. Lúc này, những tiếng nói phản đối chiến tranh trong nội bộ triều đình nhà Nguyên trở nên mỗi lúc một lớn, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt ra sức đập tan dư luận, tiếp tục tiến hành chính sách lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Năm 1287, đối thủ cũ của ông ta là Hải Đô lại tập hợp một số bộ hạ cũ của Thành Cát Tư Hãn ở khu vực Trung Á đem binh đến xâm phạm, Hốt Tất Liệt đích thân dẫn binh Tây chinh. Những thứ như đường hành quân, trên đường gặp phải những gì… Trác Mộc Cường Ba đều không để tâm, điều làm gã cảm thấy hứng thú nhất chính là, trong đội quân này, có một cánh quân hết sức đặc biệt, chiến ngao!

Riêng đoạn về đội quân chiến ngao ấy Trác Mộc Cường Ba xem rất kỹ. Đội quân này ước chừng có khoảng ba mươi con chiến ngao, vì tính tình chúng hung hãn, không dễ khống chế, nên phải chọn ra những người khỏe mạnh nhất thể lực tốt nhất trong quân, hai người dẫn một chó ngao, tổ thành một đội quân nhỏ hết sức đặc thù. Đứng đầu đội quân này là một người Tạng, các chuyên gia không thể dịch ra được chuẩn xác chức nghiệp của ông ta là gì, chỉ nói người đó có thể khiến lũ chiến ngao nghe lệnh, có thể nói chuyện với chiến ngao, có thể bắt chước tiếng của lũ ngao, còn có thể dùng lời nói khiến lũ chiến ngao ấy thực hiện những động tác khó tin. Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba vừa xem qua liền hiểu ngay, thủ lĩnh đạo quân này chắc hẳn là một thao thú sư.

Văn bản nói rất kỹ về nguyên nhân thành lập đội quân đặc thù này, vì bệnh dịch xuất hiện, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt đã mời Đế sư Ý Tây Nhân Khâm cho thuốc hay để trị ôn dịch. Đế sư quyết định đích thân đi thị sát tình hình bệnh dịch ở Trung Nguyên, cuối cùng đã đưa ra một phương thuốc chỉ có hai chữ “Diệt chuột”. Đương lúc đó, liên minh của Hải Đô hết sức lớn mạnh, có thể chiến thắng bọn họ hay không vẫn còn là năm ăn năm thua. Đại thần Tang Ca đoán được thánh ý của Hốt Tất Liệt, liền hiến lên một kế, nói rằng Tây Tạng từng có một cánh quân vô địch do người và chó ngao phối hợp với nhau, sức chiến đấu cực mạnh. Thiên khả hãn Thành Cát Tư Hãn cũng từng muốn thành lập một đội quân chiến ngaolớn, nhưng cuối cùng vẫn chưa được như nguyện, mà chỉ được chừng hơn trăm con ngao bình thường. Dẫu là vậy, hơn trăm con chó ngao ấy cũng đã lập nên vô số chiến công thuở Thiên Khả hãn vẫn còn chinh chiến khắp thiên hạ. Gần đây, y thăm dò được ở Tây Tạng vẫn còn hơn trăm con chiến ngao, muốn giành được thắng lợi trong cuộc chiến này, cần phải có một đội quân chiến ngao như thế. Mà người duy nhất có thể điều động được lũ chiến ngao này, chỉ có mình Pháp vương Ý Tây Nhân Khâm mà thôi; ngoài ra, Tang Ca còn hiến lên rất nhiều mưu kế khác, nhưng Trác Mộc Cường Ba cũng bỏ qua không đọc.

Đế sư Ý Tây Nhân Khâm trước tiên từ chối lời đề nghị đó, nhưng trước sự nài ép của Hốt Tất Liệt, bất đắc dĩ đành phải thỏa hiệp, đồng ý cho ba mươi hai con chiến ngao tham chiến. Trong đó có tám cặp ngao trưởng thành năm tuổi, tám cặp ngao con nửa tuổi, vì đường xa vất vả, đã có một cặp ngao con chết dọc đường, cuối cùng còn lại ba mươi con, ngoài ra còn có thao thú sư Tang Kiệt làm tổng đầu mục huấn luyện, dạy cho quân Mông Cổ cách nuôi dưỡng, huấn luyện chó ngao. Đế sư dặn đi dặn lại, đây là thần vật, ngàn vạn lần không thể cho tạo sát nghiệp quá lớn.

Cùng với ba mươi con chiến ngao, còn có mười sáu bộ kim ti nhuyễn giáp. Trong bản dịch có nói, loại giáp kim ti ấy mỏng như cánh ve, nhẹ như lông hồng, nhưng lại cứng rắn như thép luyện, có thể căng chùng thoải mái. Chiến ngao khoác áo giáp này lên mình thì đao thương bất nhập, thủy hỏa bất xâm, một khi nhận lệnh, sẽ biến thành những cỗ máy giết người kinh khủng nhất. Trong văn bản còn đặc biệt nhắc đến, những bộ kim ti giáp ấy đều được chế luyện bằng bí thuật cổ xưa, người sau không thể nào phỏng chế lại được. Đại thần Chu Thanh đã từng tuyên bố, sẽ quyên vàng để chế tạo ra loại kim ti nhuyễn giáp này, nhưng cuối cùng cũng vẫn thất bại.

Trong đoạn văn ấy, còn nhắc đến tình hình lúc chỉ huy chiến ngao, thao thú sư Tang Kiệt chỉ cần phát ra một tiếng “hu hu” hay “bu bu” ngắn, hoặc hừ bằng giọng mũi, cùng với một số động tác kỳ quái, liền có thể khiến lũ chiến ngao có những phản ứng khác nhau, thí dụ như xếp hàng, tập hợp, bố trận phòng ngự, còn nhanh hơn các binh sĩ xếp hàng gấp mấy lần. Vì dịch giả hoặc bản thân người chép lại đoạn cổ văn này không hiểu được những phát âm và ý nghĩa của những động tác đấy, vậy nên chỉ có thể ghi chép lại hết sức tận tường từng kiểu phát âm, âm điệu cao thấp thế nào, động tác ra sao. Trác Mộc Cường Ba xem đến đoạn này thì hân hoan như muốn phát cuồng, như chính bản thân gã đang ở giữa thaotrường chiến địa, bên cạnh có ba mươi con chiến ngao hùng dũng. Mỗi khi gã phát ra một âm thanh, lũ chiến ngao lại có những động tác hoặc biến hóa tương ứng. Khi đọc đến đoạn này, Trác Mộc Cường Ba lờ mờ có cảm giác như mình đã nghe thấy những âm thanh ấy ở đâu đó, thậm chí gã còn có thể dựa vào những âm thanh trong ký ức để điều chỉnh lại cách phát âm trong văn bản dịch. Chỉ có điều, nội dung đoạn này rất dài, trước mặt thầy giáo gã cũng không tiện hoa chân múa tay, lại còn hô lên rít xuống, đành phải cố nén cảm giác mừng rỡ, đọc lướt qua một lượt trước.

Sau đoạn huấn luyện chiến ngao, vị quan còn ghi chép lại một số sự việc mà ông ta cảm thấy đặc biệt thú vị, chẳng hạn lũ chiến ngao có thể tạo thành vòng tròn, yểm hộ sau lưng cho nhau, sau đó nằm phục xuống bụi cỏ, biến mất không còn tăm tích, thực khiến người ta lấy làm kỳ lạ. Khi chúng khoác kim ti nhuyễn giáp, có thể lên cây, một con ngao nằm phục dưới gốc cây, một con từ đằng xa phóng đến, con ngao nằm dưới đội lên, con kia liền đạp lưng đồng loại mà phóng vút lên cao hơn trượng. Sau đó, nó sẽ nấp trong tán cây, đợi kẻ địch dừng chân nghỉ ngơi dưới gốc cây, liền từ trên cao lao xuống cho một đòn chí mạng, bản lĩnh như thần. Ngoài ra, còn có chiêu nín thở lặn dưới nước, cả trăm hơi thở mà vẫn không thấy nhô đầu lên; săn người hay săn thú đều chỉ nhằm vào cổ họng, một đòn tất trúng, rồi lập tức bứt ra lùi về sau; hoặc cũng có chiêu tấn công từ phía sau, nhảy lên lưng vật săn, bịt hai mắt khiến chúng rối loạn tâm thần; chẳng những vậy, chiến ngao còn biết tá lực đả lực, mượn sức kẻ địch khống chế chính hắn… nói chung là vô số kỹ năng thần dị, không sao đếm hết.

Đọc tới đây, Trác Mộc Cường Ba không kìm được buột miệng hỏi: “Thầy giáo, lũ chiến ngao đó xuất phát từ Tây Tạng, đến được chiến trường cũng không quá nửa năm thôi chứ? Nếu cứ liên tục huấn luyện chiến ngao còn nói được, nhưng chỉ dùng nửa năm thời gian mà có thể huấn luyện chiến ngao tới trình độ ấy, lại còn phải đi đường nữa, thì vị thao thú sư kia cũng không khỏi quá lợi hại rồi.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Ừm, vấn đề này, vị quan ghi chép kia đã thay chúng ta đi hỏi rồi, cậu cứ đọc tiếp đi.”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt xuống phía dưới, quả nhiên, bản thân vị quan kia cũng là người rất hiếu kỳ, thêm vào đó là Tang Kiệt khi ấy vẫn còn rất trẻ, quả thực không giống một thầy dạy chó ngao có nhiều kinh nghiệm. Vị quan bèn hỏi Tang Kiệt làm sao mà có thể huấn luyện chó ngao được như vậy, không ngờ, đáp án của Tang Kiệt lại khiến ông ta tắc tị không nói gì được nữa. Câu trả lời của Tang Kiệt là, ngao làm gì có người huấn luyện, chỉ có ngao dạy ngao thôi.

Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc tròn mắt nhìn giáo sư Phương Tân, nói: “Sao có thể thế được?”

[1] Kể từ đây, ÁLa đã bộc lộ thân phận, nên sẽ gọi ông là pháp sư Á La chứ không phải lạt ma Á La nữa.

[2] Một thương hiệu thức ăn nhanh kiểu Trung Quốc rất nổi tiếng.

[3] Haycòn gọi là Atisa.

[4] Solon, người đã tạo ra bộ luật Solon, được coi là thành tố đầu tiên hình thành nên nền dân chủ trong lịch sử thế giới.

[5] Eo biển phân cách hai lục địa châu Âu và châu Phi, nối Địa Trung Hải với Đại TâyDương.

[6] Nhóm người được tương truyền là hậu duệ của người con trai cả của Noah (bao gồm người Do Thái, người ẢRập, người Akkad, người Phoenicia).

[7] Vùng giữa biển Đen và biển Caspi

[8] Chỉ quyến thuộc của Diện Ma Thiên hoặc Đại Hắc Thiên, còn gọi là Thất Nữ Quỷ, hay Thất Ma Đát Lý Thiên, Thất Mẫu Nữ Thiên, Thất Tỷ Muội, Thất Mẫu. Đại Nhật Kinh, quyển mười sáu có chép, Thất Mẫu là quyến thuộc của Diện Ma Thiên; phần giải nghĩa trongĐại Nhật Kinhcó chép tên của bảyvị như sau: Camunda, Kauvenri, Visnavi, Kaumari, Indri, Raudri, Brahmi

[9] Đâylà những thành phần ghép thành một chữ Hán

[10] Đôi khi viết tắt là PK, hoặc l'art du déplacement(nghệ thuật di chuyển), môn thể thao vận động với mục đích chỉ dùng sức người, di chuyển từ nơi này sang nơi khác một cách hiệu quả và nhanh nhất. Điều này có nghĩa là, vận động viên có thể lợi dụng mọi hoàn cảnh xung quanh để vượt qua các chướng ngại vật và đến đích.

[11] Một con sông tại Tanzania

[12] Shangri-la hay Hương Ba La đều là một.

[13] BletchleyPark: trung tâm giải mã tình báo nổi tiếng của Anh, hoạt động hồi Thế chiến II.

[14] Tên tiếng Anh: Streams in the Desert,một cuốn sách về tâm linh rất nổi tiếng của tác giả Charles E. Cowman.

[15] Viết tắt của Deuteronomy (Đệ nhị luật), cuốn thứ năm trong bộ Kinh Thánh của người Do Thái và Cựu Ước.

[16] Dịch lại từ bản tiếng Trung. Nguyên văn tiếng Anh trong Streams in the Desert: We ought not to rest content in the mists of the valley when the summit of Tabor awaits us. How pure are the dews of the hills, howfresh is the mountain air, howrich the fare of the dwellers aloft, whose windows look into the NewJerusalem! Many saints are content to livelike men in coal mines, who see not the sun. Tears mar their faces when they might anoint them with celestial oil. Satisfied I am that many a believer pines in a dungeon when he might walk on the palace roof, and viewthe goodly land and Lebanon. Rouse thee, O believer, from thy lowcondition! Cast away thy sloth, thy lethargy, thy coldness, or whatever interferes with thy chaste and pure love to Christ. Make Him the source, the center, and the circumference of all thy soul's range of delight. Rest no longer satisfied with thy dwarfish attainments. Aspire to a higher, a nobler, a fuller life. Upward to heaven! Nearer to God! – Spurgeon.

[17] Một địa điểm du lịch nổi tiếng ở ThụySĩ.

[18] Phiên âm tiếng Tạng: Bstan-h!gyur và Bkah!-h!gyu, là hai bộ thuộcTây Tạng Đại Tạng Kinh, hay còn gọi là Chính Tạng và Phó Tạng(hoặc Tạp Tạng).

[19] Con vật trong truyền thuyết cổ, biết phân biệt phải trái, thấy người đánh nhau, nó dùng sừng húc kẻ gian.

[20] The giant’s causeway.

[21] Con trai trưởng của Hốt Tất Liệt

Bạn đang đọc Mật Mã Tây Tạng của Hà Mã
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 76

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.