Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

HITLER BÍ MẬT PHÁI NGƯỜI LẦN THỨ HAI XÂM NHẬP TÂY TẠNG

Phiên bản Dịch · 25823 chữ

CHƯƠNG 43:

HITLER BÍ MẬT PHÁI NGƯỜI LẦN THỨ HAI XÂM NHẬP TÂY TẠNG

Lúc nãy kể đến đoạn lần đầu tiên hai nước Anh, Đức phối hợp tiến vào Tây Tạng, cuối cùng HM giết hết tất cả người Anh, đồng thời để lại một bộ phận người Đức ở Tây Tạng, chúng ta có thể suy đoán, trong cả quá trình Thế chiến II, bọn họ vẫn đồn trú trong căn cứ địa ở Tây Tạng, thăm dò, đo đạc, tìm kiếm. Tiếp theo đây, tôi sẽ nói về lần thứ hai Đức Quốc xã phái người thâm nhập Tây Tạng như thế nào.

Suy đoán về 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn

Xem hết tập nhật ký hành trình, Trác Mộc Cường Ba nói: “Tản… tản mạn quá, sao ở giữa lại thiếu nhiều thế nhỉ?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Lúc chúng ta nhận tài liệu đã như vậy rồi. Có hai khả năng, thứ nhất là sau khi Đức Quốc xã có được tập nhật ký này, đã hủy một số nội dung không thể xuất hiện trên đời này, thứ hai là sau khi Liên Xô thu được số tài liệu này, đã giấu các nội dung quan trọng đi, chỉ có những nội dung ngoài lề, người xem không ai hiểu thì mới được giải mật. Vì thời gian cách quãng quá lâu, thậm chí chúng ta còn không biết được cuối cùng có mấy người sống sót, và ở lại Tây Tạng. Nhưng chúng ta cũng không khó để nhận ra rằng, lần tiến vào Tây Tạng này, phía Đức và phía Anh đều nắm được một phần tài liệu của Morton Stanley, vì vậy mới triển khai hành động liên hợp, và cuối cùng HM đã giết tất cả đám người Anh, một mình nuốt hết các thứ họ phát hiện ra được.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng, cũng như người tên FF này đã viết, nước Anh chắc chắn sẽ không chịu khoanh tay đứng nhìn đâu.”

“Đúng vậy,” giáo sư Phương Tân nói. “Cậu biết không, theo các tư liệu chính thức, tháng Tám, đội thám hiểm Seifert trở về Đức, tháng Chín, nước Đức tấn công chớp nhoáng Ba Lan, đồng thời, Anh cũng tuyên chiến với Đức, bọn họ đã không chịu để yên, chỉ có điều, tất cả vấn đề đều đã bị che khuất đi trong cuồng phong bạo vũ của Đại chiến thế giới thứ hai rồi.”

Nhìn Trác Mộc Cường Ba miệng há hốc, mắt trợn tròn, nét mặt giáo sư Phương Tân lộ ra đôi phần lo lắng: “Kỳ thực, còn một vấn đề nữa, từ đầu tới giờ tôi vẫn chưa nhắc tới.”

Trác Mộc Cường Ba định thần lại, vội hỏi: “Vấn đề gì vậy?” Giáo sư Phương Tân nói: “Vấn đề 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn.”

“A!” Trác Mộc Cường Ba kêu lên khe khẽ. Tuy gã mới chỉ nghe pháp sư Tháp Tây nhắc đến tổ chức thần bí này một lần, nhưng ấn tượng của gã về nó lại vô cùng sâu sắc, đặc biệt là nét mặt và thái độ của pháp sư Tháp Tây lúc nói về tổ chức này, chứng tỏ hiển nhiên đó phải là một điều cấm kỵ không thể tùy tiện nói ra mọi lúc mọi nơi.

Giáo sư Phương Tân nói: “Lần đầu tiên đưa tài liệu về Thế chiến II cho cậu, trong đó có một số tài liệu liên quan đến Hitler mà tôi cho rằng không đáng tin cậy lắm, để tiết kiệm thời gian của cậu, tôi chỉ chọn ra một phần tương đối đáng tin thôi. Phần nội dung ấy nói rằng, trước khi phát tích, Hitler từng tiếp xúc với một tổ chức thần bí, còn có thông tin cho rằng tạp chí Viên ngọc Đông Phương có quan hệ nhất định với tổ chức ấy nữa. Chính tổ chức đó đã nói với Hitler rằng ông ta là kẻ bất phàm, vận mệnh đã định sẵn rằng ông ta sẽ trở thành người được cả thế giới tôn sùng. Hitler bị mê hoặc như vậy, cộng thêm lần đại nạn không chết trong Thế chiến I, cuối cùng ông ta mới tin tưởng rằng, số mệnh của mình là trở thành người khiến thế giới này phải nhìn lại. Tôi còn nhớ, một người bạn nghiên cứu về lịch sử Thế chiến II từng nói, ông ấy dám khẳng định, năm đó, chắc trăm phần trăm không chỉ có mình Hitler bị tổ chức thần bí ấy mê hoặc, mà còn rất nhiều thanh thiếu niên khác nữa, chẳng qua chỉ có Hitler là người thành công nhất mà thôi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tổ chức ấy lẽ nào chính là…” “Ừm,” giáo sư Phương Tân nhíu mày trầm giọng: “Vấn đề chính là ở đây, các thành viên của tổ chức ấy tự xưng là Hiệp sĩ dòng Đền, và tên của tổ chức ấy gọi là Đoàn Hiệp sĩ dòng Đền.”

“Đoàn Hiệp sĩ dòng Đền!” “Về sau tôi có đọc qua một chút, trong truyền thuyết phương Tây, Hiệp sĩ dòng Đền, chính là chỉ 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn.” “Hả?”

“Vì vậy mới nói, nếu đúng là thời thanh niên Hitler đã từng bị tổ chức Hiệp sĩ dòng Đền thu hút, thêm vào các câu đố không thể giải đáp trước và trong Đại chiến thế giới thứ hai, tất cả đã trở thành một phần quan trọng trong học thuyết Con rối Hitler.”

Trác Mộc Cường Ba buột miệng: “Thầy giáo cũng biết thuyết Con rối Hitler à?” Giáo sư Phương Tân nói: “Ừm, có đọc qua trong lúc tìm tài liệu. Cậu cũng nghe nói đến học thuyết này à?” “À, Sean có kể với tôi. Nhưng… anh ta nói rất đơn giản.”

“Ừm, là thế này. Thực ra, vì các câu đố không lời giải trong Thế chiến II quá nhiều, mà Mỹ và Nga lại bảo mật các tài liệu liên quan đến chiến tranh rất nghiêm ngặt, vì vậy, để hoàn nguyên bộ mặt thật của lịch sử, các nhà sử học mới đưa ra một loạt học thuyết táo bạo, nhằm mục đích giải thích các sự kiện diễn ra trong Thế chiến II một cách hoàn chỉnh hơn nữa. Học thuyết Con rối Hitler chỉ là một trong số đó mà thôi. Theo học thuyết này, Hitler chỉ là một thành viên trong tổ chức thần bí kia, ông ta chỉ là nhân vật được đưa ra phía trước mà thôi. Không những thế, từ lúc ông ta vào đảng, cho tới khi phát triển đảng Quốc xã trở nên lớn mạnh, đều nhờ tổ chức thần bí kia ở sau lưng lên kế hoạch, sửa chữa, thiết kế. Còn nữa, việc nước Đức nhanh chóng vươn lên không thể tách rời khỏi sự ủng hộ rất lớn từ phía Anh và Mỹ. Có học giả đã chỉ ra rằng, mặc dù Hitler có danh tiếng rất cao trong nội bộ nước Đức, ảnh hưởng của ông ta trên trường quốc tế khi ấy không phải là lớn lắm. Mà lúc đó nước Đức cũng không có thứ gì để các cường quốc kinh tế như Anh Mỹ coi trọng cả. Nếu nói Anh Mỹ muốn nâng đỡ nước Đức trở thành quân bài đối chọi Liên Xô, lại càng không thể giải thích được chuyện tiếp tục cho Đức vay một khoản tiền lớn, viện trợ vật tư, đặc biệt là vật tư quân sự trong lúc chính bản thân hai nước gặp suy thoái tài chính, mà nước Đức lại đã tỏ ra hung hăng hiếu chiến như vậy. Do đó, các học giả đã đặt ra giả thiết, việc viện trợ nước Đức thời đó, cũng là do tổ chức bí mật kia ở phía sau một tay thao túng, bởi thành viên của họ ở khắp nơi trên thế giới, hơn nữa còn có nhiều thành viên đảm nhiệm chức vụ cao trong chính phủ các nước, vì vậy việc điều vận vật tư đối với họ thật vô cùng dễ dàng. Còn nữa, cậu có biết sự kiện cuộc tháo chạy Dunkerque nổi tiếng nhất Thế chiến II không? Khi Thế chiến mới nổ ra, liên quân Anh Pháp liên tiếp thảm bại, cuối cùng bị dồn vào đường cùng, ba trăm nghìn binh lính bị ép vào một góc, chỉ cần quân Đức khép vòng vây, bọn họ sẽ tuyệt đối không có đường sống. Nhưng đúng lúc đó, Hitler đã đích thân hạ lệnh, quân Đức ngừng truy kích trong 24 tiếng đồng hồ. Chính là 24 tiếng đồng hồ này, đã giúp liên quân Anh Pháp có thể chạy thoát theo đường biển. Nếu không sự kiện Dunkerque ấy, e rằng lịch sử Thế chiến II đã phải viết lại rồi. Nhưng tại sao Hitler lại hạ lệnh như thế, tất cả các nhà sử học nghiên cứu về Thế chiến II đều không tìm ra nguyên nhân, mà các quan chức cấp cao trong đảng Quốc xã thời bấy giờ cũng hết sức khó hiểu trước mệnh lệnhnày. Nếu giải thích theo học thuyết Con rối Hitler, thì là lãnh đạo của tổ chức kia đã ra lệnh cho Hitler, yêu cầu ông ta phải trì hoãn truy kích trong 24 tiếng đồng hồ. Còn Hitler, đương nhiên là không dám không tuân theo.”

Trác Mộc Cường Ba cảm thấy rối mù, buột miệng hỏi: “Vậy, tại sao bọn họ lại ra mệnh lệnh như thế?” Giáo sư Phương Tân cười đáp: “Đến đây thì tôi cảm thấy đã đi quá xa khỏi chủ đề Bạc Ba La thần miếu mà chúng ta đang tìm kiếm, nên không đi sâu nghiên cứu thêm nữa.”

Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: “Vậy tổ chức thần bí đã châm ngòi cho Đại chiến thế giới thứ hai, đến cả Hitler cũng không thể không phục tùng ấy, chính là 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn hay sao?”

“Phục tùng à? Tôi thấy cũng chưa chắc?” Giáo sư Phương Tân ngước nhìn về phía xa xa, nói tiếp: “Các nhà sử học đưa ra học thuyết Con rối Hitler này ban đầu cũng có một chút hàm ý đả kích những phần tử tàn dư của đảng Quốc xã vẫn còn mù quáng sùng bái Hitler. Theo tôi, dù là có một tổ chức như thế thật, thì giữa Hitler và tổ chức ấy quá nửa cũng là một thứ quan hệ lợi dụng lẫn nhau mà thôi. Đến thời kỳ sau của cuộc Thế chiến, đó tuyệt đối là một trận đại chiến diễn ra khắp toàn thế giới, không một tổ chức nào, không một con người nào có thể xoay chuyển được nữa. Huống hồ, có một tổ chức như vậy hay không vẫn còn rất khó nói. Đúng rồi, những người ủng hộ học thuyết này còn có một luận điệu nữa, chính là về sự bảo mật nghiêm ngặt của hai nước Xô Mỹ đối với các tài liệu trong Thế chiến II. Có rất nhiều tài liệu bị đặt thời hạn giải mật là một trăm năm, không những vậy, một số còn được bảo mật vĩnh viễn, cũng có nghĩa là, bất kể chế độ nào, những tài liệu ấy cũng phải chịu số phận phủ bụi, cho đến khi nhân loại biến mất mới thôi. Điều này hầu như nhà nghiên cứu nào cũng biết, chỉ có điều tại sao phải bảo mật vĩnh viễn thì thực khó hiểu vô cùng. Còn học thuyết Con rối Hitler chỉ ra rằng, chính vì tổ chức thần bí kia có rất nhiều quan chức cấp cao ở chính quyền hai nước Xô Mỹ, nên tất cả các tài liệu có đề cập đến tổ chức ấy đều bị bảo mật vĩnh viễn.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn theo ánh mắt của giáo sư Phương Tân, lẩm bẩm nói: “13 Hiệp sĩ Bàn Tròn, thật sự đáng sợ đến vậy sao?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Nếu cậu cho rằng bọn họ có liên quan rất lớn đến Bạc Ba La thần miếu chúng ta đang tìm kiếm… Hay là, để tôi tiếp tục tìm hiểu thêm?”

“Không cần đâu, thầy giáo!” Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Không cần thiết, nếu bọn họ thật sự đáng sợ như trong truyền thuyết, sao lại chú ý đến một nhóm nhỏ như chúng ta làm gì chứ, tốt hơn hết là cứ tập trung tinh lực vào chuyện Bạc Ba La thần miếu còn hơn. Ở đây còn bao nhiêu tài liệu như vậy, thầy còn phải phân tích tấm bản đồ và gương đồng nữa, những việc ở đây cứ giao cho chúng tôi làm là được rồi.”

Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Ừm, việc chỉnh lý sắp xếp tài liệu giao cho cậu và Mẫn Mẫn phụ trách, còn tìm chuyên gia thì cứ để tôi làm. Đừng nôn nóng, tư liệu nhiều lắm, vẫn còn chưa dịch ra hết, cứ từ từ thôi.”

Sau đó, Lữ Cánh Nam và Ba Tang, Nhạc Dương phụ trách huấn luyện các thành viên mới, Sean, Vương Hựu cũng đều tham gia huấn luyện. Pháp sư Á La và đội trưởng Hồ Dương đi khắp thế giới mua sắm các trang thiết bị cần thiết, thỉnh thoảng lại gửi một số dụng cụ về Tây Tạng, rồi đưa thẳng đến trại huấn luyện. Trương Lập ở trại huấn luyện, chuyên lo việc tháo gỡ các dụng cụ ấy ra phân tích rồi lắp ráp trở lại. Trác Mộc Cường Ba và Mẫn Mẫn được giáo sư Phương Tân hướng dẫn, đi sâu tìm hiểu Bạc Ba La thần miếu, tập trung phân tích các tài liệu mang từ Nga về. Giáo sư Phương Tân đã tốn rất nhiều tâm tư trong việc phân công điều chỉnh, sắp xếp kế hoạch. Mọi người phân tán, bình thường rất ít khi liên lạc với nhau để đảm bảo hành tung không bị kẻ địch phát hiện, mỗi tháng chỉ gặp nhau một lần để báo cáo tiến độ công việc. Cứ như vậy, nhóm người vì Bạc Ba La thần miếu mà tập hợp với nhau này bắt đầu phối hợp hành động một cách có quyluật.

Một tháng sau, Nhạc Dương và Trương Lập bí mật ghé qua, báo với giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba một chuyện lớn. “Cường Ba thiếu gia, dữ liệu máy tính của giáo sư Phương Tân lưu ở trong trại huấn luyện của chúng ta bị ăn trộm.” Trương Lập phẫn nộ nói.

“Rốt cuộc là chuyện gì?” Trác Mộc Cường Ba thầm kinh hãi. Để tiện cho việc tra tìm nghiên cứu, họ đã sao lưu lại tất cả các tài liệu của giáo sư Phương Tân dùng máy tính ghi lại, để ở trại huấn luyện. Đó là những tài liệu đầu tiên họ dùng tính mạng đổi về, ngoại trừ một phần của nhà nước, chỉ có của họ là hoàn thiện nhất, đầy đủ nhất, nếu bị trộm, chẳng phải những tổ chức từ lâu đã tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu kia sẽ cùng đường chạy với bọn họ hay sao? Hơn nữa, họ sẽ còn phát hiện ra các bí mật về tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, và tấm bản đồ da sói nữa.

Nhạc Dương nói: “Đĩa cứng vẫn luôn được giữ trong máy tính đặt trong phòng làm việc của giáo quan, bị trộm lúc nửa đêm, tên gian tặc ấy không làm kinh động đến người gác đêm. Kẻ này hiểu rất rõ về bố cục phòng ngự của chúng ta, phán đoán bước đầu là do người bên trong, hơn nữa còn không chỉ có một người. Giáo quan đã tổ chức thanh sát nội bộ, nhưng không phát hiện ra phần tử nào khả nghi. Ngoài ra, giáo quan còn sợ các tổ chức khác có thành viên tiềm phục trong trại huấn luyện, chúng có khả năng sẽ phá hoại hoặc ăn trộm các thông tin truyền qua đường mạng máy tính, vì vậy công việc báo cáo tháng này và các tháng về sau đều sẽ phải thực hiện mặt đối mặt.” Ngữ khí của Nhạc Dương vẫn còn giữ được bình tĩnh.

Trác Mộc Cường Ba chau mày nói: “Lẽ nào cả một đối tượng khả nghi cũng không có?”

Trương Lập nói: “Tôi cảm thấy Vương Hựu là khả nghi nhất, anh ta không phải bạn bè do chúng ta tìm về, tại sao cứ nằng nặc đòi gia nhập? Còn nữa, anh ta lúc nào cũng mang theo một lọ thuốc, người khỏe mạnh cứ phải uống thuốc liên tục như vậy sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ồ, thuốc đó tôi biết, Vương Hựu nói là vitamin. Nhưng anh ta có lẽ không thiếu tiền, nếu đúng là anh ta, lẽ nào còn mục đích gì khác? Nhạc Dương, cậu thấy sao?”

Nhạc Dương nói: “Ừm, chúng tôi cũng từng rất nghi ngờ Vương Hựu, nhưng giáo quan nói, Vương Hựu chẳng có thân thủ giỏi như vậy, anh ta không thể là người hành động chính được. Còn thuốc kia thì cũng không vấn đề gì cả.” Trong đầu anh nhớ lại lúc mình báo cáo tình hình với Lữ Cánh Nam: “Giáo quan, thứ thuốc Vương Hựu đang dùng kia không phải vitamin, mà là ma túy.”

“Cái gì, ma túy? Cậu chắc chắn chứ?” “Đúng vậy. Có lẽ nồng độ không cao lắm, nhưng trong đó chắc trăm phần trăm là có thành phần chất gây nghiện.” “Ý cậu là, có thể anh ta bị người khác dùng ma túy khống chế, ngấm ngầm ăn cắp dữ liệu của chúng ta?” “Không loại trừ khả năng đó, có cần tôi giám sát anh ta không?” “Ừm, đừng làm kinh động, ngấm ngầm giám sát thôi.” …

Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, nhất thời cũng không ra đầu mối gì, bèn nói: “Biết rồi, vậy các cậu phải thắt chặt huấn luyện nữa vào, chuyện này cũng ảnh hưởng khá lớn đến chúng ta đấy, phải không, thầy giáo?”

Giáo sư Phương Tân “ừm” một tiếng, như đang trầm ngâm suy nghĩ. Trác Mộc Cường Ba đột nhiên sực nhớ ra, khoảng thời gian trước chẳng phải gã đã thương lượng với bọn Trương Lập, lập ra một kế hoạch làm rò rỉ thông tin, để chuyển hướng chú ý của các tổ chức muốn tìm bọn họ nghe ngóng bí mật về Bạc Ba La thần miếu hay sao? Sự kiện bị trộm dữ liệu lần này, có phải là kế hoạch đó đã bắt đầu đi vào thực thi rồi hay không? Nhưng mà, tại sao gã hoàn toàn không hay biết gì, hơn nữa, lấy tất cả tư liệu ghi hình trong quá trình tìm kiếm thần miếu của bọn gã ra làm mồi câu, kế hoạch rò rỉ thông tin này chẳng phải đã làm rò rỉ quá nhiều hay sao? Hay là, thật sự có nội gián ăn trộm tư liệu? Tại sao thầy giáo không lộ ra vẻ kinh ngạc như gã tưởng tượng, rốt cuộc chuyện này là thế nào đây?

Trác Mộc Cường Ba đang suy nghĩ theo chiều hướng xấu, bỗng nghe giáo sư Phương Tân đằng hắng một tiếng, nói: “Ừm, được rồi, chuyện này chúng tôi đã biết, Cánh Nam nhất định phải tăng cường quản lý, hạn chế các thành viên mới đơn độc hành động, tôi tin là sau này sẽ không xảy ra chuyện đó nữa đâu. Các cậu báo cáo tiến độ công việc của mình đi. Trương Lập, việc cải tiến dụng cụ làm tới đâu rồi? Một mình cậu có hoàn thành được không?”

Trương Lập nói: “Các thiết bị mẫu gửi về không nhiều lắm, gỡ ra và lắp lại một mình tôi làm được. Rắc rối là ở các thiết kế cải tạo, mấy bản vẽ tôi thiết kế ra đều không thể thực hiện được. Thợ ở công xưởng nói, dựa theo bản vẽ của tôi không thể nào gia công ra được cái gì cả.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Chuyện này đơn giản, cậu quét bản vẽ và các số liệu vào máy tính, tôi sẽ tìm chuyên gia hoàn thiện lại là xong.”

Trương Lập gật đầu: “Vậy thì không còn vấn đề gì nữa, tôi sẽ đưa cho giáo quan xem trước nữa, cô ấy cũng hiểu rất sâu về thiết kế máy móc.”

Kế đó, Nhạc Dương báo cáo tình hình “tân binh”, nói liền một mạch: “Tuổi bình quân của đám người này là 35, đang độ tráng niên, có kinh nghiệm thám hiểm nơi hoang dã, rất ưa thích các môn thể thao cạnh tranh, bản thân mỗi người đều có cơ sở nhất định về thể năng, quan trọng nhất là tố chất tâm lý của những người này tương đối ổn định. Trước mắt họ đã qua được giai đoạn huấn luyện mở rộng, tiếp theo đây sẽ là huấn luyện cực hạn. Vì hiện giờ chúng ta không tiện để lộ hành tung, chỉ có thể chọn một vài ngọn núi tuyết ở Tây Tạng làm nơi huấn luyện thực địa. Trước mắt chúng tôi đã có kế hoạch sơ bộ, bao gồm leo vách núi, leo vách băng, trượt tốc độ cao trên núi tuyết… Trong những người này, đáng nhắc đến nhất chính là anh Sean, người làm luật sư trí nhớ rất kinh người, các kiến thức về mặt lý luận hoàn toàn không có gì để nói nữa. Mà kỳ thực, từ hồi ở trong rừng rậm châu Mỹ, tri thức lý luận của anh ấy đã hơn cả chúng ta rồi, giờ chủ yếu là tiến hành huấn luyện kỹ năng thôi. Thân thủ của anh Sean này cũng không kém chút nào đâu, phong độ rất giống pháp sư Á La năm xưa, bất kể là hạng mục huấn luyện nào, cũng chỉ cần làm một lần là thành công. Nếu họ có thể thuận lợi hoàn thành đợt huấn luyện cực hạn, chỉ còn đợi các thiết bị mới của Trương Lập để hướng dẫn họ sử dụng nữa là xong.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Vậy còn cần bao nhiêu thời gian nữa mới đảm bảo họ có thể theo chúng ta?”

Nhạc Dương đáp: “À, giáo quan nói, nếu tất cả thuận lợi, chỉ cần hai tháng nữa là có thể huấn luyện họ đạt tới trình độ của chúng ta lúc sang châu Mỹ rồi. Đương nhiên, nếu như cần xuất phát sớm hơn, chúng ta có thể rút ngắn giáo trình huấn luyện, chỉ cần họ đạt đủ điều kiện lên đường trong thời gian ngắn nhất, vấn đề mấu chốt vẫn là đầu mối cuối cùng kiathôi.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Ừm, không sai, mấu chốt vẫn là ở chỗ chúng ta. Tôi cũng báo cho mọi người biết một số tiến triển về mặt này, các cậu đã biết rồi, tôi và Cường Ba, Mẫn Mẫn chia làm hai tổ chuyên nghiên cứu các đầu mối khác nhau. Tôi phụ trách việc nghiên cứu phân tích trên mặt khoa học kỹ thuật, Cường Ba phụ trách tìm kiếm đầu mối trong các văn kiện lịch sử. Ban đầu, bản đồ đã được pháp sư Á La mang về nghiên cứu, cả tấm gương đồng cũng được Lữ Cánh Nam mang về cho tôn giáo của họ, nhưng đến nay vẫn chưa ra được kết quả gì, giờ mới gửi về chỗ tôi, hy vọng có thể sử dụng các máy móc hiện đại mà có được bước đột phá gì đó. Chúng tôi sẽ gắng hết sức, dù không thể phục nguyên tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, thì tôi cũng vẫn còn một đám bạn bè đang bò ra nghiên cứu tấm bản đồ kia, nếu họ tìm được đầu mối gì thì chúng ta hãy còn hy vọng. Về phía Cường Ba, cậu ấy cũng có được khá nhiều đột phá quan trọng khi nghiên cứu các tài liệu lịch sử. Cường Ba à, cậu nói cho mọi người nghe đi.”

Merkin và Stanley

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, tôi sẽ đi vào trọng điểm trước. Tôi nghĩ chúng ta đã tìm ra được một số thông tin về Merkin và gia tộc của hắn trong các tư liệu lịch sử rồi. Merkin mà chúng ta đang phải đối mặt hiện nay, cùng với Morton Stanley mà chúng ta đã biết quá rõ, giữa tổ tiên của hai người này có một mối liên hệ nào đó.”

“A!” Trương Lập và Nhạc Dương cùng giật mình ngạc nhiên.

Trác Mộc Cường Ba lại nói tiếp: “Đương nhiên, chúng ta không có chứng cứ lịch sử xác thực, mà chỉ có thể dựa vào suy đoán để đưa ra kết luận. Trước tiên, mọi người cần biết tới mấy cái tên này. Thứ nhất, là Diego de Landa, giáo sĩ người Tây Ban Nha theo quân viễn chinh tiến vào Maya, người này đã làm một chuyện lớn vô tiền khoáng hậu trong lịch sử văn minhMaya. Có thể nói, một nửa các di sản văn hiến của người Maya để lại đã bị hủy hoại trong tay giáo sĩ tên Diego de Landa này. Khi người Tây Ban Nha đặt chân lên châu Mỹ, nền văn minh Maya đã lụi tàn. Những người Maya bọn họ gặp toàn mặc da thú, không có chữ viết, xã hội vẫn còn ở hình thái nguyên thủy, trí lực thậm chí còn thấp hơn người nguyên thủy, vì vậy người Tây Ban Nha chẳng hề tốn chút công sức nào đã chiếm được châu Mỹ. Nhưng rồi sau đó, những người nguyên thủy ấy dẫn họ đến xem thành đá Maya, kiến trúc kỳ vĩ như là của người ngoài hành tinh xây nên, còn cả những đồ trang sức bằng vàng được chế tác hết sức tinh xảo, khiến đám người Tây Ban Nha thảy đều đỏ mắt thèm thuồng. Càng quan trọng hơn nữa là, những người nguyên thủy ấy đã lấy ra rất nhiều văn bản viết trên vỏ cây, đó có lẽ chính là tiếng Maya. Tuy họ đã quên hết ý nghĩa của văn tự, nhưng cũng biết đây là của tổ tiên để lại, nên đều cất giữ như bảo vật. Tất cả các ghi chép đó chỉ do một mình Landa đọc duyệt, nên các nhà nghiên cứu lịch sử Maya hiện đại hầu hết đều cho rằng, Landa hiểu tiếng Maya. Đáng tiếc, không hiểu vì nguyên nhân gì, ông ta đã đem tất cả tư liệu về Maya thu thập được thiêu rụi. Chính hành vi này của ông ta đã khiến người đời sau gặp phải vô vàn khó khăn trong việc nghiên cứu lịch sử Maya, đồng thời cũng khiến lịch sử Maya trở thành một câu đố đến nay vẫn chưa thể giải hết.”

Trác Mộc Cường Ba ngưng lại giây lát để đổi hơi, tiếp tục nói: “Còn lý do tại sao ông ta phải hủy hoàn toàn các dấu tích văn hiến Maya ấy, đồng thời gần như điên cuồng truy bắt, giày vò, giết chết những người đã dâng nạp những tài liệu tiếng Maya đó, hoặc những người biết ở đâu còn lưu giữ những dấu tích Maya khác, các nhà sử học đã đưa ra hai lối giải thích. Thứ nhất, là khi đó Landa muốn hủy diệt tín ngưỡng tinh thần của người Maya một cách triệt để, hòng khiến đám người nguyên thủy ấy tin theo Chúa, nên mới sử dụng những biện pháp cực đoan đó; ngoài ra còn một cách giải thích khác nữa là, từ những dấu tích văn hiến Maya có trong tay, Landa đã thực sự phát hiện ra điều gì đó mà ông ta cho rằng không thể tồn tại trên đời này, vì vậy mà Landa đã từng tuyên bố rằng, những tài liệu tiếng Maya đó đều là lời dối trá của ma quỷ, đồng thời gọi những người đã đọc, đã thấy qua những tài liệu ấy là giáo đồ dị giáo, còn nói nếu không thiêu chết bọn họ, những kẻ ấy sẽ trở thành người phát ngôn thay cho ma quỷ. Cũng vì chuyện này mà ông ta bị triệu hồi về Tây Ban Nha, đưa ra tòa án tôn giáo, đồng thời bị cầm tù ở Tây Ban Nha mười một năm. Về sau, Landa kháng án, một hội đồng bao gồm nhiều học giả đã xá miễn tội cho ông ta. Năm 1573, Landa lại trở về Maya đảm nhiệm chức Hồng y Giáo chủ. Nhưng trong lần trở lại này, thái độ của Landa lại quay ngoắt một trăm tám mươi độ, từ một kẻ điên cuồng hủy diệt văn hiến Maya, biến thành một kẻ sưu tầm và bảo vệ các tài liệu lịch sử ấy. Ông ta bắt đầu thừa nhận, trong các tài liệu tiếng Maya từng bị ông ta thiêu hủy, có rất nhiều ghi chép liên quan tới tập tục và khoa học của người Maya. Về sau, ông ta thu thập các tài liệu, viết ra cuốn sách nghiên cứu đầu tiên nền văn minh Maya, tên làRelación de las cosas de Yucatán (Phong vật Yucatan). Rất nhiều nhà nghiên cứu Maya hậu thế đều bắt đầu dựa trên nền tảng là cuốn sách này.”

Trác Mộc Cường Ba lại ngừng giây lát, rồi nói tiếp: “Sự việc của Landa tạm tới đây thôi, giờ tôi sẽ nói đến người thứ hai. Người này tên là Diego Garcia de Palacio, cũng là giáo sĩ người Tây Ban Nha, nghe nói ông ta và Landa có quan hệ thân thích. Landa chết năm 1579, nhưng từ khoảng năm 1576, vì tuổi tác đã cao nên ông ta không thể thực hiện công việc khảo sát và tìm kiếm các tài liệu lịch sử cũng như di tích cổ Maya trên phạm vi rộng được nữa. Lúc này, người tên Palacio này liền xuất hiện ở Maya, bắt đầu thâm nhập và tiến sâu hơn về phía Nam châu Mỹ, khảo sát thu thập các tài liệu về tổ tiên người Maya. Ông ta tập hợp các tài liệu mình sưu tập được, biến thành một tập bản thảo. Bản thảo này và cả bản thảo viết tay của Landa đều không được tiết lộ công khai, mà bị cất giấu ở một nơi bí mật đến tận thế kỷ mười chín mới lộ ra. Mọi người nhớ kỹ nhé, điểm này rất quan trọng.”

Trác Mộc Cường Ba đứng hẳn lên, nói tiếp: “Tiếp theo là vào chủ đề chính rồi. Trong số tài liệu chúng tôi mang từ Nga về lần này, có một phong thư viết từ khoảng cuối thế kỷ mười bảy. Một nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha tên là Marcus Merkin, viết cho một giáo sĩ Tây Ban Nha tên là Palacio Stanley, nội dung bức thư là người tên Merkin kia hỏi dò Stanley xem bản thảo viết tay của ông cố ngoại Stanley có còn không, trong đó có nhắc đến nơi nào tên là Bạc Ba La hay không.”

“Hả!” Nhạc Dương và Trương Lập kinh ngạc kêu lên thành tiếng.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Sau khi tìm kiếm ở nhiều nguồn, đối chiếu kỹ lưỡng, chúng tôi phát hiện ra ông cố ngoại của Palacio Stanley chính là Diego Garcia de Palacio. Mà trùng hợp hơn nữa là, Marcus Merkin và Palacio Stanley, hai người này vừa khéo lại trùng với họ của Merkin, và Morton Stanley. Mà số tài liệu này của chúng ta, là do Liên Xô đoạt được từ tay người Đức sau Thế chiến II. Có lẽ người Đức đã thông qua nhiều kênh khác nhau để thu thập tài liệu về Morton Stanley, đây rất có khả năng là một bức thư gia đình được Morton Stanley giữ lại. Càng trùng hợp hơn nữa là, Marcus Merkin và người tên Ben Merkin chúng ta đang đối đầu hiện nay, đều là người Bồ Đào Nha. Còn một điểm nữa, bản thảoviết tay của Palacio mãi đến năm 1840 mới lộ diện công khai, nhưng những nhà nghiên cứu Maya thời bấy giờ đã chỉ ra rằng, bản thảo này bị thiếu trang. Còn Morton Stanley, phán đoán dựa vào các tài liệu trước đây, cho rằng ông ta chịu ảnh hưởng của Stephens nên đã điều tra Maya trước, sau đó mới đột nhiên chuyển hướng qua Tây Tạng, rất có thể là một suy đoán sai lầm. Có khả năng là, ngay từ đầu ông ta đã có kế hoạch như vậy rồi. Có lẽ ông ta đã phát hiện được một số bí mật trong những thư tín của gia đình, mà chúng ta chỉ mới được xem qua một bức, những thư từ văn kiện khác còn nhắc đến gì nữa thì không rõ. Ngoài ra, việc Morton Stanley nói rằng ông ta nghe được tên Bạc Ba La thần miếu từ bài sử thiA Lý Vươngđã thất truyền, quá nửa cũng là chuyện bịa đặt, bởi vì ngoài ông ta ra, đâu còn vị học giả nào từng nghe bài sử thi ấy đâu chứ.”

Nhạc Dương nói: “Tôi lấy làm lạ, tại sao Marcus Merkin có thể trực tiếp gọi ra cái tên Bạc Ba La, hơn nữa bản thảo viết tay ấy chẳng phải đã bị giấu kín rồi ư? Làm sao ông ta biết đến nó được chứ?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Về chuyện này, không thể không nhắc đến lịch sử của Bồ Đào Nha. Bồ Đào Nha vốn thuộc Vương quốc Castilla, cũng chính là tiền thân của Tây Ban Nha. Năm 1140, Bồ Đào Nha thoát ly khỏi sự thống trị của Vương quốc Castilla, tuyên bố độc lập, đến năm 1143 được Giáo hoàng La Mã công nhận. Từ đó trở đi Bồ Đào Nha đã trải qua rất nhiều vương triều, cường thịnh nhất chính là vương triều Avis. Từ năm 1415 đến năm 1580, người Bồ Đào Nha đã mở đầu thời đại hải quyền, trở thành những người dẫn đầu thế giới về kỹ thuật hàng hải và thám hiểm thế giới. Nhưng khi vương triều Avis sụp đổ, quốc vương Tây Ban Nha đã dùng thế lực của mình ép buộc Bồ Đào Nha quy phục Tây Ban Nha trở lại. Cũng có nghĩa là, vào thời Palacio sống, Bồ Đào Nha từng là nước chư hầu của Tây Ban Nha. Chúng ta thậm chí có thể đặt giả thiết, tổ tiên của Marcus Merkin và Palacio có khả năng đã từng làm việc chung trong Giáo hội, vì vậy ông ta mới biết rõ những bí mật của họ. Ngoài ra, những vấn đề như rốt cuộc Landa đã đọc được gì trong các tài liệu lịch sử của Maya mà khiến ông ta có những hành động điên cuồng như vậy, Palacio nghiên cứu, điều tra những gì, tại sao lại bị giấu đi, đều không thể nào tra tìm lại được nữa.”

Trương Lập nói: “Vậy thì Marcus Merkin và PalacioStanley có thể là tổ tiên của Ben Merkin và Morton Stanley rồi?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Không những vậy, quan trọng hơn nữa là, chúng ta đã biết được từ đâu mà bọn họ thăm dò ra sự tồn tại của Bạc Ba La thần miếu.”

Nhạc Dương nói: “Tôi hiểu rồi, từ Cổ cách kim thưlưu lạc ở hải ngoại, chúng ta tìm hiểu được thông tin có thể từng có sứ giả đến châu Mỹ, và mang theo bí mật về Bạc Ba La thần miếu, vì vậy mới lên đường đến châu Mỹ tìm hiểu. Còn bọn Merkin thì vừa khéo ngược lại, bọn hắn biết được bí mật về Bạc Ba La thần miếu từ chỗ người Maya, vậy nên mới đếnTây Tạng thăm dò.”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Đúng vậy, đây chính là một thông tin quan trọng mà chúng ta có được nhờ suy đoán, thêm vào tập tài liệu Cánh Nam cho cậu xem lần trước, chúng ta đã nắm được sở trường của đám thủ hạ đi theo tên Merkin đó rồi. Giờ đây, có thể nói là chúng ta và hắn đã đứng ở cùng một độ cao, sau này nếu có gặp lại, chắc chắn chúng ta sẽ không bị dồn vào thế bị động nữa rồi.”

Mẫn Mẫn thấy Trác Mộc Cường Ba nói có vẻ hơi mệt, liền rót cho gã và giáo sư Phương Tân mỗi người một cốc nước. Trương Lập thò tay ra xin, liền bị cô đập cho một cái, nói: “Tự đi mà rót,” kế đó cười nói: “Ngoài ra, chúng tôi còn phát hiện một số điều khác nữa, để tôi nói cho mọi người nghe nhé.”

Mẫn Mẫn xoa xoa tay, nhoẻn miệng cười ngọt ngào nói: “Tôi muốn nói đến quan hệ giữa đảng Quốc xã và Bạc Ba La thần miếu trong Thế chiến II. Trước tiên, tôi cũng phải nhắc đến mấy cái tên trước đã. Nhưng người đầu tiên mà tôi nói đến ở đây nổi tiếng hơn mấy vị của anh Cường Ba nhiều. Ông ta tên là Heinrich Himmler.”

Trương Lập và Nhạc Dương đồng thanh “ồ” lên một tiếng. Người này là thủ lĩnh của Gestapo trong Thế chiến II, đương nhiên là không ai không biết đến.

Mẫn Mẫn nói: “Himmler là kẻ ủng hộ cuồng nhiệt chủ nghĩa chủng tộc. Ông ta sùng bái siêu năng lực và tin rằng người Aryan là chủng người ưu tú nhất. Từ nhỏ Himmler đã ảo tưởng mình có thể chỉ huy một đội quân chiến đấu vô địch, đồng thời có dã tâm thôn tính cả thế giới. Nói ra thật buồn cười, nghe đâu tư tưởng này của ông ta bắt nguồn từ một cuốn sách dạng nửa khoa học viễn tưởng nửa tôn giáo mà hồi nhỏ ông ta từng đọc. Tác giả cuốn sách đó viết rằng, người Aryan đến từ ngoài vũ trụ, họ đã xây dựng trên địa cầu một vương quốc Atlantic hết sức giàu có xinh đẹp. Về sau vì nạn đại hồng thủy, nên mới buộc phải đào vong, lần lượt trở thành tổ tiên của người Tây Tạng và người Đức bọn họ ngày nay. Vì số lượng người sống sót rất ít, nên người Aryan không thể không tạp giao với các giống người bình thường trên trái đất, vì vậy về sau đã mất đi siêu năng lực của mình. Himmler hết sức tin tưởng vào điều này, đồng thời cho rằng, chỉ cần để người Aryan thuần chủng giao phối với người Aryan thuần chủng, sinh ra những người Aryan thuần chủng, họ sẽ có lại được siêu năng lực của tổ tiên. Tư tưởng này hết sức quan trọng. Một loạt sự kiện xảy ra sau này đều bắt nguồn từ đâycả.”

Trương Lập và Nhạc Dương đều cảm thấy tức cười. Bọn họ chỉ biết Himmler là một sát thủ trong Thế chiến II, đã giết hại rất nhiều người Do Thái, đồng thời xây dựng vô số trại diệt chủng ở khắp châu Âu, còn về nguồn gốc tư tưởng ấy của ông ta, đây mới là lần đầu tiên họ được nghe.

Mẫn Mẫn nói tiếp: “Chính vì tư tưởng điên cuồng này, Himmler đã tổ chức một loạt các hành động, trong đó, mấy việc trứ danh nhất đều hoàn thành trong năm 1935 cả. Năm đó, ông ta thành lập Quân đoàn Đen, chính là lực lượng SS nổi tiếng sau này. Nghe nói, chỉ người nào có huyết thống Aryan thuần khiết mới được tham gia SS. Ngoài việc bản thân có năng lực ưu tú ra, người đó còn phải có gia phả để tra xét. Huyết thống Aryan của binh sĩ phải tra ngược đến năm 1800, còn sĩ quan thì cần tra ngược lên đến năm 1750. Nhưng sự tuyển lựa nghiêm khắc này của ông ta vẫn đem lại hiệu quả nhất định, về sau chính đội quân này đã trở thành lực lượng đáng sợ nhất của nước Đức. Ngay cả sau khi Thế chiến II kếtthúc, người ta mới dần dần phát hiện ra, có rất nhiều kiến trúc sư, bác sĩ, luật sư, nhà khoa học… nổi tiếng thế giới, trước đây đều ở trong lực lượng SS.Nhưng bọn họ đã che giấu thân phận rất tốt, đồng thời có nhiều cống hiến sau chiến tranh, vì vậy vẫn được mọi người tôn kính. Chuyện một nhà văn Đức từng được trao giải Nobel văn học, đến lúc hấp hối mới tiết lộ thân phận thực sự từng là một thành viên trong lực lượng SS của mình chính là một ví dụ.”

Nói tới đây, Mẫn Mẫn ngừng lại giây lát, Trác Mộc Cường Ba biết cô lại nhớ đến những nghi vấn lúc vừa mới phát hiện ra đặc điểm của lực lượng SS. Lúc đó, Mẫn Mẫn nói: “Giáo sư, anh Cường Ba, hai người xem này, mỗi người trong lực lượng SS này đều tinh anh cả, hai người không cảm thấy, bọn họ rất giống với 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn lần trước giáo sư nhắc đến hay sao? Hai người xem đi, sau chiến tranh bọn họ đều trở thành chuyên gia và người có địa vị trong một lĩnh vực nào đó, nhưng ai có thể ngờ trong quá khứ họ lại là những sát thủ bàn tay nhuốm đầy máu tươi cơ chứ. Mỗi người bọn họ đều có một thân phận rất tốt đẹp để ngụy trang, đồng thời lại được tôn kính nữa. Thật đáng sợ quá đi mất. Chẳng những vậy, trong số họ vẫn còn một số người vẫn luôn sùng bái chủ nghĩa sắc tộc. Nhìn tay bác sĩ này mà xem, nếu không phải ông ta lén lút làm quá nhiều thí nghiệm trên cơ thể người, bị phát hiện ra, thử hỏi ai biết được ông ta lại là tàn dư của lính SS cơ chứ, trong lĩnh vực y học, ông ta vẫn luôn là một người có uy tín được cả giới học thuật thế giới công nhận kia mà.”

Có điều lúc này, dường như Mẫn Mẫn không có ý định đả động thêm đến quan điểm đó của mình, cô nhanh chóng tiếp lời: “Đương nhiên, đây chỉ là một đơn vị trong lực lượng đó. Himmler còn triển khai kế hoạch Nguồn gốc Sinh mệnh, cũng chính là kế hoạch nhân giống người thuần chủng mà tiếng thối đã đồn khắp năm châu. Ngoài ra ông ta cũng thành lập Hiệp hội Di sản Tổ tiên, cái hội đồng này chính là điểm trọng tâm mà hôm nay tôi muốn nói với mọi người. Himmler biên hết các chuyên gia huyết thống Đức thuần chủng vào lực lượng SS. Nhưng ông ta cũng không ngu, vì ngoại trừ người Do Thái, các chuyên gia có huyết thống không thuần chủng khác được ông ta xếp vào một chỗ, thành lập ra cái gọi là Hiệp hội Di sản Tổ tiên. Hội đồng này, đã quy tụ những chuyên gia hàng đầu về các lĩnh vực trên khắp thế giới mà Himmler thu nạp được. Ngoài chuyên gia các ngành khoa học thông thường như vật lý, hóa học, sinh học, động thực vật học, y học… ở đây còn có cả những nhà nghiên cứu kỳ dị cổ quái thuộc các ngành như linh học, chiêm bốc học, tinh tượng học… Theo các số liệu thống kê, Hiệp hội Di sản Tổ tiên ước chừng có khoảng mấy trăm thành viên, nhưng không có con số cụ thể rốt cuộc là bao nhiêu người, đến nay cũng chưa thể tìm hiểu rõ hơn. Về sau, khi nước Đức tổ chức đội thám hiểm Seifert đến Tây Tạng khảo sát lần đầu tiên, có một nửa thành viên trong đó là người của cái hiệp hội này, nửa còn lại của lực lượng SS. Còn một điều quan trọng hơn nữa là, trong cái hiệp hội đó, có một người mà chúng ta không thể không nhắc đến.”

Nói tới đây, Mẫn Mẫn bước tới bên cạnh giáo sư Phương Tân. Ông đã chuẩn bị sẵn từ trước, không đợi Mẫn Mẫn lên tiếng, lập tức hướng màn hình máy tính về phía mọi người, rồi ngước nhìn cô mỉm cười.

Mẫn Mẫn cũng nhoẻn miệng cười đáp lại, đoạn nói với Nhạc Dương, Trương Lập: “Hai người xem tấm ảnh này đi.”

Trên màn hình máy tính hiện ra một bức ảnh đen trắng chụp chung hai người, một người hơi lùn, mặc quân phục của Đức Quốc xã, miệng cười hớn hở, hai tay nắm chặt bàn tay người kia, thái độ hết sức vui vẻ cao hứng; người còn lại trông hết sức cao lớn uy mãnh, mặc áo choàng dài có thắt lưng của quân nhân, nhưng không đeo bất cứ phù hiệu gì, đầu cũng đội mũ quân nhân. Y mới chỉ đứng đó thôi, đã khiến người ta cảm giác thấy một luồng áp lực đè nén rồi. Cả hai người trong ảnh Nhạc Dương đều không nhận ra, nhưng Trương Lập tức thì giật mình kinh hãi. Người đàn ông cao lớn kia gần như là cùng một khuôn đúc với Merkin, cũng gương mặt như đao tạc ấy, cũng vẻ lạnh lùng tàn khốc ấy, giữa đôi hàng lông mày cũng ẩn chứa nét ngông cuồng hoang dã ấy, chỉ có điểm khác biệt là, người đàn ông này trông còn trẻ hơn, thâm trầm hơn Merkin, ánh mắt cũng âm hiểm tàn độc hơn hắn. Trương Lập chỉ vào người đàn ông rất giống Merkin ấy, lắp bắp nói: “Người… người này, y là…”

Mẫn Mẫn nói: “Người thấp hơn ấy, chính là Himmler, rất ít ảnh bắt được vẻ mặt hớn hở xun xoe ấy của ông ta, kể cả là lúc ở bên cạnh Hitler cũng không, duy chỉ có người đứng bên cạnh y đây mới khiến y lộ ra vẻ mặt ấy mà thôi. Nếu phán đoán của chúng tôi không lầm, tên của người này, chính là… Hector Merkin.”

“Hả!” Nhạc Dương nhảy dựng, ngạc nhiên thốt lên: “Lại là một tên Merkin nữa!”

Mẫn Mẫn gật đầu: “Đúng vậy. Ban đầu, tấm ảnh này nằm lẫn trong một đống tài liệu văn kiện về Thế chiến II, chúng tôi cũng không hề chú ý đến, là anh Cường Ba tình cờ phát hiện ra người này trông rất giống Merkin, nên bọn tôi mới để ý đến nó. Mọi người chú ý nhìn bàn tay trái của Merkin mà xem, chiếc nhẫn ở ngón giữa ấy, nhìn thấy chưa?”

Nhạc Dương chú ý quan sát chiếc nhẫn bạc trên ngón giữa bàn tay trái của Merkin, trong tấm ảnh, chiếc nhẫn đó phản chiếu ánh sáng lấp lánh. Mẫn Mẫn phóng lớn bức ảnh trên màn hình máy tính, sau khi xử lý nhòe, chiếc nhẫn bạc liền hiện lên rất rõ nét. Chính giữa chiếc nhẫn là một hình đầu lâu kỳ dị, hai bên có hoa văn xoắn cuộn, sau phù hiệu ngôi sao sáu cánh ở bên phải là một hàng văn tự cổ. Mẫn Mẫn chỉ vào những chữ ấy nói: “Đây là tên dòng họ Merkin của y, được khắc bằng một loại văn tự hình chêm rất cổ xưa, cũng có thể coi như là tiêu ký của gia tộc. Chúng tôi tin rằng, tên của y được khắc ở mặt bên trong của chiếc nhẫn. Về sau, khi chế tạo nhẫn đầu lâu cho quân đội Đức, Himmler từng nói, ông ta có được linh cảm từ một người bạn. Tôi nghĩ, linh cảm đó của Himmler có quá nửa là đến từ người này. Tấm ảnh này không đề thời gian chụp, mà chúng ta lại chỉ có tài liệu trên máy tính nên cũng không có cách nào phán đoán được, chỉ có thể dựa vào trang phục trên người của Himmler để suy đoán đại khái. Có lẽ tấm ảnh này được chụp vào khoảng năm 1935. Mọi người chú ý xem bối cảnh phía sau đi, sau lưng hai người này chính là trụ sở Hiệp hội Di sản Tổ tiên thời điểm bấy giờ, sau năm 1935 thì đã đổi sang địa chỉ khác rồi.”

Nhạc Dương ngạc nhiên nói: “Nếu chỉ có mỗi tiêu ký của gia tộc Merkin, làm sao mà biết được tên đầy đủ của y chính là Hector Merkin cơ chứ?”

Mẫn Mẫn nói: “Có một tài liệu khác nhắc đến chuyện này, nhưng chúng ta không thể hoàn toàn đánh đồng hai sự việc này với nhau, vì vậy đây mới chỉ là suy đoán.” Mẫn Mẫn quay sang nói với Nhạc Dương và Trương Lập về khả năng Hector Merkin làm gián điệp hai mang xâm nhập vào Công viên Bletchley.

Nghe xong chuyện về Hector Merkin, Trương Lập lấy làm lạ nói: “Nhìn tấm ảnh này, thì Hector Merkin đã được mời đến Hiệp hội Di sản Tổ tiên rồi, sao lại vào được Công viên Bletchley nữa nhỉ?”

Trác Mộc Cường Ba lên tiếng: “Chuyện này chúng ta cũng chỉ có thể suy đoán thôi. Không biết lúc đó Hector Merkin đã dùng thân phận gì để gia nhập Hiệp hội Di sản Tổ tiên của Himmler, nhưng từ tấm ảnh này có thể thấy, y đã được Himmler hoan nghênh nhiệt liệt. Chúng ta đặt giả thiết, y đã lợi dụng cục diện hỗn loạn của chiến tranh và sự cuồng nhiệt của Himmler đối với siêu năng lực, trình ra kế hoạch tìm kiếm hậu duệ của người Aryan thuần chủng ở Tây Tạng, vì vậy mới có chuyến khảo sát đầu tiên của quân Đức ở Tây Tạng năm 1938. Còn lúc gia nhập vào Công viên Bletchley, có lẽ nhiệm vụ của y là phá hoại hoặc làm chệch hướng công tác phá giải mật mã Enigma của quân Đồng minh. Nhưng lúc đó, trên chiến trường, quân đội Đức đang rơi vào thế yếu, nếu Hector Merkin đã nhìn ra quân Đức không thể nào vãn hồi chiến cuộc nữa, y hoàn toàn có thể lợi dụng cơ hội này, trở mặt giúp quân Đồng minh phá giải mật mã của người Đức. Như vậy, y đã tự tạo cho mình một con đường rút lui. Ngoài ra, từ năm 1938 đến năm 1945, quân Đức đã hai lần vào Tây Tạng nghiên cứu, rồi Lạt ma Tây Tạng cũng xuất hiện một cách thần bí ở Đức. Những sự kiện này rốt cuộc có quan hệ trực tiếp với Hector Merkin hay không, tất cả vẫn còn là câu đố chưa lời giải đáp. Hơn nữa, dựa theo những tài liệu chúng ta nắm được trong tay, người tên Hector Merkin này, rất có khả năng đã tham gia chuyến đi Tây Tạng lần thứ nhất.” Kế đó, gã lại nói về hành động liên hợp của hai nước Anh Đức cùng tiến vào Tây Tạng, và chuyện người thần bí được gọi làHM.

Trương Lập kêu lên: “Cường Ba thiếu gia, đợi chút đã, anh nói cái ký hiệu kia là tiếng Ru ru gì ấy nhỉ…” “Tiếng Runic.” “Đúng rồi, chính là cái đó. Anh nhắc lại hộ tôi với, chữ HM trong tiếng Runic viết như thế nào vậy?” Trác Mộc Cường Ba liền bật đoạn tài liệu ấy lên màn hình máy tính, nói: “Đây, chính là cái này…”

Trương Lập chỉ ký hiệu đó kêu lên: “Tôi thấy rồi! Để tôi nhớ lại xem nào! Chắc chắn là thấy rồi, trong lịch sử Thế chiến II thôi! Cái ký hiệu ấy nổi tiếng lắm, sao không nhớ ra được nhỉ…”

Vẻ mặt Trương Lập hết sức nghiêm túc, mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba đều tạm thời ngừng nói chuyện, không quấy nhiễu anh nữa. Trương Lập đột nhiên vỗ mạnh vào trán mình, nói: “Điệp viên X, điệp viên thần bí nhất trong Thế chiến II! Tôi nhớ ra rồi!”

“Chuyện là thế nào vậy?” Nhạc Dương truy vấn.

Đảng Quốc xã lần thứ hai tiến vào Tây Tạng

Trương Lập nói: “Khi Thế chiến II mới bắt đầu, Đại sứ quán Anh ở Na uy có nhận được một bức thư nặc danh, nội dung thư hết sức kỳ quái, viết rằng, nếu nước Anh muốn biết thông tin tình báo của quân Đức, thì đài BBC của Anh trong chương trình phát đến nước Đức hãy thêm vào một câu, ‘Xin chào, đây là London’. Sau khi bức thư này chuyển về nước Anh và được các cơ quan tình báo nước này nghiên cứu kỹ, đài BBC liền bắt đầu thử thêm vào chương trình phát thanh đến nước Đức câu ‘Xin chào, đây là London’ đó. Sự việc phát sinh như vậy. Sau khi thay đổi nội dung phát sóng được một tuần, lính tuần tra Đại sứ quán Anh ở Na uy đã phát hiện một cái bọc trên bậc cấp. Không ai có thể ngờ được, bên trong đó lại là các thông tin tình báo quân sự cơ mật nhất, về tên lửa đạn đạo V-1, V-2, máy bay không người lái… của quân Đức. Nguồn tin duy nhất lộ ra ngoài là qua tay binh sĩ đã nhặt được cái bọc đó. Anh ta nói trên cái bọc có một ký hiệu hết sức kỳ quái hình dạng giống như chữ X. Điệp viên X từ đó đã trở thành điệp viên thần bí nhất, đặc biệt nhất trong lịch sử Thế chiến II. Nghe nói cả cơ quan tình báo Anh quốc cũng không thể tra ra lai lịch con người này. Cũng có giả thiết nói cục trưởng Cục Tình báo Anh biết người này là ai, nhưng ông ta đã mang theo bí mật đó xuống mồ. Sau khi Thế chiến II kết thúc, binh sĩ kia đã vẽ lại ký hiệu đó, vì nó không hoàn toàn giống chữ X, nên rất nổi bật, đúng là ký hiệu ấy, không thể sai được!”

Giáo sư Phương Tân trầm ngâm nói: “Nếu là vậy…”

Nhạc Dương đã không chờ được nữa, hấp tấp kêu lên: “Là Hector Merkin! Ngay từ lúc Thế chiến II nổ ra, y đã để lại cho mình một đường lui rồi. Đến lúc đó, bất kể là nước nào chiến thắng, y cũng có thể tự xưng mình là công thần, vì vậy về sau y mới có thể dễ dàng trà trộn vào Công viên Bletchley như thế, nói không chừng là đã liên lạc từ trước rồi!”

Trương Lập lè lưỡi nói: “Lợi dụng tham vọng giành được thắng lợi của các bên tham chiến, dụ dỗ cả một đất nước phục vụ cho mục đích của mình, rồi khi đất nước ấy đối diện với nguy cơ sụp đổ hoàn toàn, lại thành công hoán đổi thân phận, trở thành đại công thần bí mật của bên giành chiến thắng. Nếu tất cả những chuyện này đều do một tay người tên Hector Merkin đó làm, y thực quá đáng sợ, so với tên Merkin mà chúng ta phải đối mặt hiện giờ còn đáng sợ hơn nhiều.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Ba người tên Merkin này, đều có quốc tịch Bồ Đào Nha, vì vậy chúng ta có lý do để tin rằng, đây là một gia tộc đã tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu trong suốt một thời gian rất dài, mỗi đời bọn họ đều có người tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Nếu giả thiết này được xác thực, thì sẽ giải thích được rất nhiều nghi vấn mà chúng ta chưa tìm ra lời giải đáp. Nhưng vẫn còn một điểm cuối cùng không thể nào giải thích được, một gia tộc có lịch sử lâu đời như thế, đồng thời còn nắm trong tay một lượng thông tin khổng lồ, tại sao lại chú ý đến Trác Mộc Cường Ba, chú ý đến đội ngũ nhỏ nhoi hoàn toàn không đáng để mắt như chúng ta chứ?”

Nhạc Dương nêu ý kiến: “Tôi cho rằng đây có thể là trùng hợp. Ban đầu Cường Ba thiếu gia và mọi người không phải đã đi Mông Hà tìm người Qua Ba điên kia hay sao? Về sau, người điên đó bị bắt cóc đi mất, quá nửa là Merkin đã chú ý đến mọi người từ lúc đó rồi.”

Trác Mộc Cường Ba hỏi ngược lại: “Tên Merkin đó làm sao biết được thông tin về người điên ở Mông Hà nhỉ?”

Nhạc Dương nghĩ ngợi giây lát rồi đáp: “Có lẽ là thông tin từ nguồn nào đó thôi, xét cho cùng gia tộc bọn y cũng để ý đến Bạc Ba La thần miếu và bộ tộc Qua Ba đâu chỉ mới một hai năm. Còn chuyện anh biết được thông tin về người điên ở Mông Hà ấy, đó mới gọi là trùng hợp.”

Trác Mộc Cường Ba nghe xong, không nói gì cả. Cách nói của Nhạc Dương gần giống hệt như pháp sư Tháp Tây, nhưng giáo sư Phương Tân lại lắc đầu, giải thích kiểu như vậy rất khiên cưỡng. Nhạc Dương đã liên tiếp hai lần nhắc đến chữ “trùng hợp”, đây chính là một điều đại kỵ trong phân tích logic.

Trương Lập ngồi bên máy tính xem ảnh, vô ý ấn nhầm một cái, trên màn hình liền hiện ra một tấm hình khác, toàn là những đường diềm thẳng đứng tạo bởi các hoa văn hình vuông. Trương Lập lấy làm lạ hỏi: “Cái gì đây thế?” Mẫn Mẫn đáp: “À, đây là những thông tin vẫn chưa được dịch. Giáo sư đã liên lạc với các chuyên gia nhờ dịch giúp chúng ta rồi.”

Trương Lập lại hỏi: “Đây là văn tự gì thế?”

“Tiếng Bát Tư Ba.” Giáo sư Phương Tân mở lên một bức hình khác, cũng vẫn là thứ văn tự trông như hoa văn trang trí trên tường chùa miếu đó. Ông nói: “Đây là văn tự chính thức của Mông Cổ, do đại sư Tây Tạng Bát Tư Ba sáng tạo ra, nhưng vì nó không phù hợp với thói quen viết lách của người Mông Cổ thời bấy giờ, hơn nữa triều Nguyên tồn tại chẳng được bao lâu đã bị diệt vong, nên thời gian lưu hành của loại văn tự này rất ngắn. Bởi thế, về cơ bản chỉ có các văn thư chính thức của triều đình nhà Nguyên sử dụng loại chữ này, người biết đọc nó cũng không nhiều.”

Trương Lập nói: “Chuyện này liên quan gì đến Bạc Ba La thần miếu?” Nhạc Dương nói: “Nếu đã thu thập ở đây, thì chắc là có liên quan gì đó đến Bạc Ba La thần miếu rồi.”

Trương Lập “ồ” lên một tiếng, không hỏi tiếp nữa, nhưng Nhạc Dương lại hỏi tiếp: “Vậy, còn về Bạc Ba La thần miếu thì sao, Cường Ba thiếu gia có phát hiện gì mới không?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, tôi cũng đang định nói với các cậu đây. Tài liệu mang về lần này, hầu như đều có liên quan đến giai đoạn Thế chiến II, quân Đức thu thập thông tin tình báo của các nước về Tây Tạng, ngoài ra còn một số thông tin về thí nghiệm trên cơ thể người ở các trại diệt chủng. Các thông tin thực sự có liên quan đến Bạc Ba La thần miếu hay Shambhala kỳ thực rất ít, đại khái chỉ chiếm một phần ba trong số tài liệu, trong đó có rất nhiều tài liệu trùng lặp với những gì Lữ Cánh Nam đã đưa cho chúng ta từ trước, một số thư từ, bút ký gì đấy của Morton Stanley, chúng ta đều đã xem qua hết cả rồi. Thu hoạch lớn nhất của chúng ta, là đã vô tình phát hiện ra quan hệ giữa gia tộc Merkin và Bạc Ba La thần miếu. Đương nhiên, vẫn còn một số thứ chưa kịp phân tích, như là các tư liệu tiếng Bát Tư Ba này, đại khái chiếm khoảng một phần năm, có lẽ chúng ít nhiều cũng có quan hệ gì đó với Bạc Ba La thần miếu. Có điều, số tài liệu này có thể cung cấp cho chúng ta đầu mối để tìm được Bạc Ba La thần miếu hay không thì vẫn còn là ẩn số. Ừm, khoảng thời gian này, tôi và Mẫn Mẫn sẽ tiếp tục tìm kiếm thông tin về thần miếu trong các tư liệu lịch sử. Chúng tôi đang chỉnh lý sắp xếp và lập biên niên sử Bạc Ba La thần miếu, đã đi vào giai đoạn hoàn thiện rồi, không bao lâu nữa sẽ phát cho mỗi thành viên mới một bản, để mọi người biết chúng ta cần phải tìm kiếm thứ gì. Giờ tôi chỉ có thể cho các cậu biết thái độ của các nước trên thế giới đối với Bạc Ba La thần miếu trong thời kỳ Thế chiến II thôi, hoặc cũng có thể nói là, thái độ biểu hiện đối với Tây Tạng cũng được, có hứng thú muốn nghe không?”

Trương Lập và Nhạc Dương gật gật đầu.

Trác Mộc Cường Ba đổi giọng, lấy làm hứng chí nói: “Lúc nãy kể đến đoạn lần đầu tiên hai nước Anh, Đức phối hợp tiến vào Tây Tạng, cuối cùng HM giết hết tất cả người Anh, đồng thời để lại một bộ phận người Đức ở Tây Tạng, chúng ta có thể suy đoán, trong cả quá trình Thế chiến II, bọn họ vẫn đồn trú trong căn cứ địa ở Tây Tạng, thăm dò, đo đạc, tìm kiếm. Tiếp theo đây, tôi sẽ nói về lần thứ hai Đức Quốc xã phái người thâm nhập Tây Tạng như thế nào.

Năm 1941, nước Đức gặp phải một trận thảm bại xưa nay chưa từng có, tổn thất khoảng 500.000 binh sĩ dạn dày kinh nghiệm, 1.300 xe tăng, 2.500 khẩu pháo trong trận Moscow. Trong chiến dịch Stalingrad còn có khoảng 1.000.000 quân Đức phải chịu đựng mùa đông lạnh giá đói khát. Khi mới bắt đầu tấn công, không ai có thể dự đoán cục diện này sẽ xảy ra. Hitler nổi giận lôi đình, cả bộ tham mưu của ông ta cũng không nghĩ ra được phương sách nào, chỉ có thể hy vọng ông trời ban kỳ tích.

Các quan chức cấp cao của đảng Quốc xã nôn nóng muốn xoay chuyển cục diện trên chiến trường đã nghĩ đủ cách, có người đi cầu sự giúp đỡ của chiêm tinh thuật, có người làm phép phù thủy, Himmler cũng tích cực dự trù kế hoạch vì ngày mai tươi sáng của Đế chế thứ ba. Điều đầu tiên ông ta nghĩ đến chính là “trục trung tâm địa cầu” của Tây Tạng chúng ta. Chính vì vậy Himmler đã đến xin gặp Hitler, bí mật hội đàm sáu tiếng đồng hồ, đệ trình lên nhà độc tài một bản báo cáo dày hơn 2.000 trang, nghe nói trong đó còn có một tấm bản đồ đánh dấu vị trí suy đoán của Shambhala. Hitler đã trả lời rằng, phải lập tức tiến hành, tiến hành một cách trọng điểm kế hoạch này.

Himmler bắt đầu chuẩn bị cho chuyến thám hiểm Tây Tạng lần thứ hai. Ông ta tuyển lựa trong Hiệp hội Di sản Tổ tiên của mình đủ các loại kỳ nhân dị sĩ, đưa họ tới Tây Tạng qua nhiều đường khác nhau, hy vọng sử dụng năng lực kỳ dị của họ để phát hiện lối vào Shambhala, nhưng đám người đó hầu hết là lũ lừa gạt đường phố, làm sao có thể cung cấp nổi thông tin gì hữu dụng, thành thử kế hoạch này cứ thế bị kéo dài suốt một thời gian.

Đến năm 1943, tình hình trên chiến trường chuyển biến xấu hết sức nghiêm trọng, một bộ phận sĩ quan trong nước cũng đã bắt đầu nảy sinh cảm giác chán ghét chiến tranh, Hitler liền hạ lệnh, nhất thiết phải tìm được Shambhala, thay đổi trục trung tâm địa cầu, thay đổi vận mệnh của Đế chế thứ ba. Trước cơn giận dữ của Quốc trưởng, Himmler vội vàng thành lập một đội cảm tử, dự định để họ leo lên khảo sát những ngọn núi tuyết con người chưa từng chinh phục ở vùng Tây Tạng.

Quân đội Đức lần này đã huy động tất cả các chuyên gia leo núi có kinh nghiệm của cả nước, cầm đầu nhóm là một người tên Halle từng đoạt quán quân cuộc thi leo núi Alps. Mục tiêu nhóm là hội quân với các lính Đức đang đồn trú ở Tây Tạng, sau đó tiến vào khu vực không người trên núi tuyết để tìm kiếm Shambhala, nhưng nhóm chuyên gia do Halle dẫn đầu ấy không thể vượt qua được vùng kiểm soát của quân Anh trên đất Ấn Độ, toàn bộ bị bắt làm tù binh. Quân Anh thu được một lượng lớn tài liệu, tuy không phá được mật mã và dịch sang tiếng Anh, nhưng chính phủ Anh cũng đã lập tức biết mục đích của toán quân Đức này. Cục tình báo Anh MI6 đã đưa ra một phương án ứng phó, tạo cơ hội để Halle đào tẩu, sau đó bí mật theo dõi, hy vọng có thể thông qua người này để phát hiện nhóm quân Đức đóng ở Tây Tạng, từ đó nhắm đến Shambhala. Để bọn Halle không nghi ngờ, bọn họ còn cố ý tăng cường cai quản, khiến mấy lần vượt ngục trước của đám người Đức đều không thành công, sau đó mới cố ý sơ hở, khiến bọn Halle tưởng rằng mình phải khó khăn lắm mới thoát được ra ngoài. Nhưng sự việc này lại bị tình báo Đức tiềm phục ở Tây Tạng dò la được, thành ra phía Đức cũng lập tức đối phó, mật báo với Halle, để bọn họ cứ đi lòng vòng không mục đích ở Tây Tạng, khiến nhân viên tình báo Anh không biết đâu mà lần.

Tài liệu chúng ta có trong tay, chính là điện báo mà cơ quan tình báo Đức chặn được, từ đó họ biết được thông tin phía Anh đã bắt sống cả nhóm Halle và thu được một lượng lớn tư liệu, để có phản ứng trước đối sách của nước Anh. Vì vậy Halle không tìm thấy căn cứ của quân Đức ở Tây Tạng, người Anh cũng không thể tìm được Shambhala, nhưng quân Đức đồn trú ở Tây Tạng có đến được Shambhala hay không, nội dung tài liệu của chúng ta lại không nhắc đến, có lẽ phần này đã bị phía Mỹ lấy mất rồi. Sự thực là, trong Thế chiến II, hai nước Anh và Đức đã chiến đấu đến một mất một còn, sức cùng lực kiệt, mà vẫn không thể hoàn thành nhiệm vụ tìm kiếm Shambhala hay Shangri-la, ngược lại, kẻ đắc lợi thực sự lại là Liên Xô và Mỹ. Sau chiến tranh, bọn họ không những chia phần toàn bộ thông tin tình báo của quân Đức, mà cả trước và trong Thế chiến II, hai siêu cường này cũng chưa từng bỏ qua ý định tìm kiếm Shambhala.

Kỳ thực, thời điểm Liên Xô bắt đầu tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu chỉ sau có Anh, Pháp. Từ năm 1870, nhà địa lý học lừng danh người Nga Nikolai Mikhailovich Przhevalsky đã biết thông tin về kho báu của Morton Stanley, lập tức nêu khẩu hiệu ‘muốn hiểu Tây Tạng, phải đến Tây Tạng’. Ông ta cũng trở thành người Nga đầu tiên tiến vào vùng đất này. Chúng ta không rõ ông ta đã đến những nơi nào, nhưng theo tài liệu tìm được, ông này rất không được hoan nghênh ở Tây Tạng, có lẽ là do ảnh hưởng tiêu cực của nước Anh và Morton Stanley thời bấy giờ. Nikolai Mikhailovich Przhevalsky còn chưa đến được Lhasa thì đã bị trục xuất rồi. Nhưng ông ta vẫn không bỏ cuộc, mấy lần qua nhiều đường khác nhau tìm cáchtiến vào thám hiểm Tây Tạng, cuối cùng đã chết trên đường xâm nhập vùng đất của chúng ta. Nhưng cái chết của Nikolai Mikhailovich Przhevalsky không hề chấm dứt hoạt động thăm dò Tây Tạng của nước Nga, mà tiếp đó Piotr Kozlov đã lập đội thám hiểm, xâm nhập thành công Tây Tạng, tiến hành rất nhiều hoạt động thám hiểm, rồi còn viết lại thành sách các trải nghiệm của mình, đặt nhan đề là Cuộc thám hiểm Tây Tạng. Từ sau đó trở đi, vô số người Nga đã theo bước tiền nhân bắt đầu nghiên cứu Tây Tạng. Vậy là, từ trước khi kho báu của Morton Stanley lộ ra, vùng đất Tây Tạng gần như ít ai chú ý đến ấy đã bắt đầu có mỗi lúc một nhiều bóng người Nga xuất hiện.

Nghiên cứu của Nga về Tây Tạng rất sâu sắc, rất tường tận, mấu chốt ở chỗ mỗi lần các nhà thám hiểm người Nga vào đất Tạng, đều có một phát hiện gì đó. Họ đã mang đi rất nhiều kinh văn, quyển trục cổ, vàng bạc châu báu, tượng đá… và cũng xuất bản rất nhiều sách về Tây Tạng.Tây Tạng và Lạt Ma, Người hành hương Phật giáo ở Thánh địa Tây Tạng, Nhật ký du lịch Tây Tạng, Tượng Di lặc ở kim điện La Bốc Lăng…đều là về thám hiểm Tây Tạng cả, hơn nữa còn toàn đề cập đến các phát hiện chùa miếu hoang phế, kinh văn cổ, vàng bạc châu báu. Những cuốn sách ấy đã thu hút thêm càng nhiều người Nga khác đến Tây Tạng thám hiểm, hoặc nói chính xác hơn là đến Tây Tạng tìm báu vật. Đương nhiên, tất cả đều ngấm ngầm có một mục tiêu chung… tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu!

Đến thời kỳ Liên bang Xô viết, người Nga đã thành lập một cơ quan chuyên nghiên cứu Tây Tạng, tên gọi đầy đủ là ‘Phòng nghiên cứu Ấn-Tạng thuộc phân viện Leningrad của Viện Đông Phương học trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô’. Bề ngoài, cơ quan này chuyên nghiên cứu khu vực nói tiếng Tạng ở hai triền dãy Himalaya, bao gồm chế độ tôn giáo, phong thổ nhân tình, kiến trúc tự viện, đời sống của tăng lữ, sự chia rẽ của các giáo phái ở Tây Tạng, nhưng thực chất hướng nghiên cứu chính của họ lại là những khoảng trống trong lịch sử Tây Tạng, hành trình tiến vào Tây Tạng của Morton Stanley, khả năng tồn tại một nền văn minh thất lạc hoặc văn minh tiền sử trong những khu vực không người thuộcdãy Himalaya.

Sau năm 1922, Liên Xô đã nhiều lần đưa điệp viên vào Tây Tạng, một mặt đút lót mua chuộc quý tộc địa phương, bố thí quyên tặng chùa chiền miếu mạo, mặt khác lấy danh nghĩa đo đạc thăm dò, đi khắp nơi tìm kiếm dấu vết của Bạc Ba La thần miếu.

Ở thời điểm quan trọng nhất của Thế chiến II, trong cuộc tấn công Berlin, cũng là các sĩ quan thuộc Bộ Nội vụ Liên Xô xông vào tòa nhà đế quốc trước. Bọn họ đã phát hiện ở đây một thi thể lạt ma Tây Tạng, cũng có ý kiến cho rằng đó không phải thi thể. Tình hình cụ thể lúc ấy như thế nào không ai biết được, nhưng có thể khẳng định, người Nga đã lấy được rất nhiều tài liệu trong tòa nhà này, số lượng chúng ta đang nắm trong tay đây so với đó chỉ là một phần rất nhỏ.

Còn nữa, trong cả thời kỳ Nga Xô, không thể không nhắc đến gia tộc này, gia tộc Borovsky. Đây là thông tin từ phía pháp sư Tháp Tây. Ông tổ của gia tộc này là Roman Borovsky từng theo Nikolai Mikhailovich Przhevalsky và Piotr Kozlov đến Tây Tạng thám hiểm, con cháu đời sau của gia tộc cũng không ngừng tìm hiểu, nghiên cứu về Tây Tạng và Bạc Ba La thần miếu, hiển nhiên là họ đã đi xa hơn những người Nga khác rất nhiều. Thời kỳ Cách mạng Tháng Mười, gia tộc Borovsky di cư sang châu Âu, cháu đời thứ tư của Roman Borovsky từng theo học rất nhiều nhà Tây Tạng học và Hán học nổi tiếng ở Paris, London, ngoài ra còn sang Mỹ học nữa. Năm 1923, ông ta và cha mình đã đến La Khắc, Hòa Điền, Liên Xô, Mông Cổ, rồi lại từ Tây Tạng đến Sikkim, trải qua năm năm, khai quật được rất nhiều kinh văn, quyển trục cổ, nghe nói còn phát hiện được một ngôi đền của Bản giáo bỏ hoang ở gần Hắc Hà, lấy được hai kinh Đan Châu Nhĩ và Cam Châu Nhĩ[18] hoàn chỉnh của Bản giáo, và vô số thanga. Sau này ông ta viết một cuốn sách, giới thiệu rất tỉ mỉ dấu tích lịch sử của Bản giáo Tây Tạng. Borovsky rất tinh, ông ta biết lịch sử Tây Tạng vẫn còn tồn tại nhiều khoảng trống, và thời đó có rất nhiều người nghiên cứu lịch sử Tây Tạng, gần như cực khó để có được những khám phá đặc biệt, vì vậy, ông ta chuyển hướng, chuyên nghiên cứu các bức thanga cổ đại và tượng Phật, bích họa trong các chùa chiền, hòng tìm kiếm dấu vết của Bạc Ba La thần miếu. Về điểm này, Borovsky rất giống với Giuseppe Tucci.”

Đến đó Mẫn Mẫn liền lên tiếng bổ sung: “Giuseppe Tucci là nhà thám hiểm người Italia, chuyên nghiên cứu các đồ trang sức kim loại của Tây Tạng, đặc biệt là Thiên thiết, Thiên châu để tìm ra đầu mối dẫn đến Bạc Ba La thần miếu. Giuseppe Tucci kiên trì cho rằng, Thiên thiết và Thiên châu cùng những trang sức bằng kim loại khác, đều có khả năng là đồ vật của thời đại bị trống trong lịch sử ấy lưu lại. Từ những món trang sức ấy, rất có thể sẽ tìm ra đầu mối đưa ta đến với Bạc Ba La thần miếu.”

Trác Mộc Cường Ba tiếp lời: “Một phần các tài liệu của gia tộc Borovsky đã trở về Liên Xô, một phần khác có lẽ đã lưu lạc đến Mỹ. Có thể nói, Mỹ là siêu cường biết đến Bạc Ba La thần miếu chậm nhất, vì khoảng cách giữa Mỹ và Tây Tạng xa nhất, hơn nữa các nước kia đều tiến hành tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu một cách vô cùng bí mật. Nhưng mức độ coi trọng củangười Mỹ với Bạc Ba La thần miếu có thể nói là vượt xa so với các nước Anh, Nga, Đức, mà bản thân họ còn rất nhanh nhạy, hiệu suất làm việc cực cao. Năm 1939, họ mới biết thông tin về Bạc Ba La thần miếu, ngay cuối năm ấy, đã thành lập một cơ quan tình báo chuyên trách khu vực Tây Tạng, do người đứng đầu bộ phận Phân tích Chiến lược châu Âu thời bấy giờ, cũng là người sau này được xưng tụng là cha đẻ của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA), William Joseph Donovan trực tiếp phụ trách. Cuối năm 1942, chính vào thời điểm nước Đức đang tích cực chuẩn bị tiến vào Tây Tạng lần thứ hai, William Donovan mặc dù bộn bề công việc vẫn không thể không tách một phần nhân lực để nghiên cứu tất cả các thông tin liên quan đến Tây Tạng. Người Mỹ tinh ranh hơn người Anh, họ không tiếp xúc thẳng với bọn Halle, và cũng biết nước Anh chiếm ưu thế ở khu vực Ấn Độ. Cơ quan tình báo Mỹ lợi dụng thời cơ chính phủ Quốc dân Trung Quốc đang muốn xây dựng một con đường nối liền Trung-Ấn xuyên Tây Tạng để tiện vận chuyển vật tư chiến lược, phái đi một nhóm đặc công ưu tú xâm nhập Tây Tạng, tiến hành tiếp xúc bí mật với các quý tộc Tây Tạng cũng như nhiều thế lực khác tại địa phương, hòng phát hiện Shangri-la trước người Đức một bước.

Ngoài mấy nước lớn nói trên, cả Pháp, Ý, Nhật Bản và nhiều quốc gia khác cũng ào ào tiến về Tây Tạng. Trong Thế chiến II, tất cả đều phái gián điệp đến đây. Người ngoại quốc ăn mặc đủ kiểu, nói đủ loại khẩu âm khác nhau đi đi lại lại trên đường, Lhasa lúc bấy giờ thật chẳng khác gì một đô thị quốc tế lớn cả. Nhưng cũng không một người dân Tạng nào biết được, đám người nước ngoài qua lại tấp nập ấy rốt cuộc là đang tìm kiếm thứ gì.”

Ba nghi vấn lớn

Sau một thoáng trầm ngâm, Nhạc Dương lên tiếng: “Cường Ba thiếu gia, tôi có một nghi vấn. Nếu như nói, những đoàn thám hiểm đó đều lấy tiền làm mục đích, nên mới bất chấp tính mạng để đi tìm Bạc Ba La thần miếu thì tôi còn lý giải được. Nhưng cả một đất nước, đặc biệt là những cường quốc như Anh, Mỹ, Đức, Liên Xô… tại sao lại hứng thú với Bạc Ba La thần miếu đến thế chứ, e rằng không chỉ vì kho báu và văn vật thôi đúng không?”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu nói: “Tôi hiểu ý cậu, hành vi của những quốc gia này đúng là khiến người ta rất khó hiểu, nhưng sự thực lịch sử là như thế. Chúng ta đều biết, Tây Tạng trước nay vẫn là lãnh thổ của Trung Quốc, vẫn luôn tồn tại lặng lẽ âm thầm trên cao nguyên Thanh Tạng từ bao đời nay. Trước khi Morton Stanley tới Tây Tạng, gần như không có lấy một người ngoại quốc nào đặt chân lên vùng đất này, nhưng từ sau khi ông ta lan truyền thông tin về Bạc Ba La thần miếu, dường như chỉ trong một đêm, Tây Tạng đã trở thành tiêu điểm chú ý của toàn thế giới. Những quốc gia kia, mặc dù cách xa Tây Tạng bao nhiêu, mặc dù thực lực đến đâu, lãnh thổ cương vực lớn nhường nào, cơ hồ đều muốn lấy Tây Tạng bỏ vào túi mình cả vậy.”

Giáo sư Phương Tân tiếp lời Trác Mộc Cường Ba: “Kỳ thực, theo chúng tôi lý giải thì thế này, đoàn thám hiểm là một nhóm nhỏ, tìm thấy một kho tàng, là đủ cho mười mấy con người ăn no mặc ấm cả đời, người ta có thể vì thế mà bất chấp đem tính mạng mình ra mạo hiểm. Còn đất nước, là một tập thể rất lớn, nếu phát hiện ra một kho tàng lớn, đủ để một đất nước ăn mấy chục năm, tại sao họ lại không phát động chiến tranh vì nó? Thực ra, chúng ta đều biết Bạc Ba La thần miếu là một kho báu lớn, nhưng rốt cuộc là nó lớn như thế nào? Về điểm này, trước tiên phải làm rõ xem Bạc Ba La thần miếu tượng trưng cho điều gì đã. Xét theo nghĩa hẹp, Bạc Ba La thần miếu tượng trưng cho toàn bộ tài sản của vương triều cường thịnh nhất của Hán tộc trong lịch sử, triều đại nhà Đường, cùng với vương triều cường thịnh nhất trong lịch sử người Tạng, Thổ Phồn! Nhớ kỹ, cường thịnh ở đây không đơn thuần chỉ thực lực quân sự của nó, mà là chỉ trình độ khoa học kỹ thuật, nông nghiệp, máy móc, y dược, thiên văn thuật số… đều ở thời kỳ đỉnh cao, thậm chí còn bao gồm những thành quả khoa học kỹ thuật đã bị lấp chìm trong lịch sử, đến cả người ngày nay cũng không thể nào đạt tới. Xét trên nghĩa rộng, còn phải kể đến cả những quốc gia tiến cống cho Đại Đường, Thổ Phồn nữa. Bạc Ba La thần miếu có thể coi là kho báu tích lũy tài sản của toàn bộ châu Á trong thời kỳ lịch sử ấy. Chỉ riêng về giá trị văn vật lịch sử thôi, với những tài liệu chúng ta nắm trong tay, cũng có thể khẳng định nó đáng giá ngang một trăm vườn Viên Minh. Mà theo con số thống kê, các văn vật bị liên quân tám nước cướp đi từ vườn Viên Minh, còn chưa tính những thứ bị phá hủy, tổn hại đã giá trị tương đương với tổng giá trị kinh tế của Trung Quốc trong một năm rồi. Như thế, mọi người chắc có thể đoán được, rốt cuộc Bạc Ba La thần miếu là một kho báu lớn như thế nào hay chưa?”

Kết luận của giáo sư Phương Tân khiến Trương Lập và Nhạc Dương đều đờ người ra, chỉ bần thần nhẩm tính trong đầu xem “một trăm lần vườn Viên Minh” là khái niệm như thế nào.

Giáo sư Phương Tân quay sang phía Trác Mộc Cường Ba: “Cường Ba à, tôi có một chút kiến nghị với cậu.” Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Vâng.”

Giáo sư liền nói: “Mấy ngày trước Mẫn Mẫn có cho tôi xem biên niên sử về Bạc Ba La thần miếu mà hai người chỉnh lý và sắp xếp. Cá nhân tôi cảm thấy rằng, các tư liệu mà cậu tra tìm, quy nạp tổng kết đều là đi sâu vào chi tiết hơn những tài liệu trước đây chúng ta tập hợp được. Kỳ thực… nói thế nào nhỉ, cậu vẫn là cứ chỉ xoay quanh phạm trù tư liệu lịch sử để tìm kiếm đầu mối về Bạc Ba La thần miếu, vẫn chưa thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn của những người đi trước. Những tài liệu mà cậu có được hôm nay, e rằng có tường tận đến mấy cũng không thể hơn được các chuyên gia đã dùi mài nghiên cứu suốt mấy chục năm. Muốn phát hiện ra đầu mối mới, cần phải học theo Borovsky hay Tucci, cần phải tìm ra con đường người khác chưa đi qua.”

Trác Mộc Cường Ba chau mày, hỏi tiếp: “Thầy giáo, có thể nói kỹ hơn một chút được không? Tôi vẫn chưa hiểu lắm.”

Giáo sư Phương Tân cười đáp: “Cậu cần học theo Morton Stanley, bắt tay từ câu chuyện thần thoại còn lưu truyền đến ngày nay, vẫn chưa có sử liệu xác nhận tính chân thực, chẳng hạn như cuốn Ninh Mã cổ kinh chép rất nhiều câu chuyện thần thoại Phật giáo của gia đình cậu, ngoài ra còn có truyền thuyết về Shangri-la lưu hành rất rộng rãi ở Tây Tạng. Những truyền thuyết đó dù sao cũng là minh chứng duy nhất về sự tồn tại của kho báu mà đến ngày nay chúng ta vẫn còn ngheđược.”

Trác Mộc Cường Ba ngập ngừng hỏi: “Việc này… có tác dụng không?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Muốn có phát hiện mang tính đột phá dựa trên nền tảng của người đi trước, cần phải tìm được điểm có thể đột phá. Tôi có thể cho cậu một con đường. Kiểu gì chúng ta cũng không có cách nào lấy được tài liệu mà các thế lực nước ngoài đang nắm giữ trong tay, chẳng hạn như là thư từ qua lại giữa Morton Stanley và bạn bè ông ta, nhật ký, tự truyện…, nên phải đi đường vòng xa hơn một chút. Thứ nhất, là thông qua các truyền thuyết lịch sử có liên quan đến Shangrila; thứ hai, điều tra xem người Đức tìm kiếm gì ở Tây Tạng, nói không chừng đầu mối này cũng có thể cho ta một số tư liệu; thứ ba, không thể coi thường các tài liệu ở Maya; thứ tư, đi sâu vào tìm hiểu thôn Công Bố, nếu cậu cảm thấy khó khăn, có thể đợi pháp sư Á La trở về rồi mới liên lạc với họ cũng được.”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu, trầm ngâm suy nghĩ. Những điều thầy giáo nói cũng rất có lý, nếu không khám phá được gì từ các tư liệu lịch sử, chuyển sang tìm kiếm những nghi án lịch sử trong truyện cổ tích, thần thoại, nói không chừng sẽ có thu hoạch bất ngờ cũng nên.

Chợt nghe Mẫn Mẫn nói khẽ: “Thực ra, chỉ cần chúng ta có thể giải được ba nghi vấn lớn…” “Ba nghi vấn lớn?” Trương Lập ngạc nhiên thốt lên.

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Ừm, đúng thế. Chúng tôi đã nghiên cứu và phân tích tất cả các tài liệu hiện có trong tay, phát hiện ra có ba vấn đề không thể nào giải thích nổi. Có lẽ đây chính là mấu chốt của việc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Vấn đề thứ nhất, là nguyên nhân thực sự của việc Đạo quân Ánh sáng biến mất một cách thần bí.”

Nhạc Dương và Trương Lập đưa mắt ngơ ngác nhìn nhau, rồi cùng lắc đầu. Trác Mộc Cường Ba nói: “Với số tài liệu chúng ta đang có, thông tin về bộ tộc Qua Ba và Đạo quân Ánh sáng rất ít ỏi, có thể nói họ còn thần bí hơn cả Bạc Ba La thần miếu nữa. Là người tạo ra Bạc Ba La thần miếu, họ từng là lực lượng quân sự đáng sợ nhất trong lịch sử, lựa chọn biến mất tập thể như thế, quả thực là một việc khiến người ta khó mà hiểu nổi. Lẽ nào chỉ vì để bảo vệ bảo vật trong Tứ Phương miếu không bị cuộc chiến Diệt Phật phá hoại mà họ phải chọn cách toàn quân bí mật hộ tống di chuyển hay sao? Giải thích như vậy thực là có hơi quá khiên cưỡng, còn vô số xương cốt trong Đảo Huyền Không tự rốt cuộc là thế nào, hơn một nghìn năm trước đã xảy ra chuyện gì đến nỗi đạo quân mạnh mẽ nhất đó phải chọn lựa như thế?”

Nhạc Dương “phì” ra một tiếng, vấn đề này, đúng là không thể dựa vào trí tưởng tượng hay khả năng suy đoán mà đưa ra đáp án được.

Chỉ nghe Trác Mộc Cường Ba lại nói tiếp: “Vấn đề thứ hai, là hành vi của sứ giả Cổ Cách, đặc biệt dựa vào nội dung Cổ cách kim thư đã được các chuyên gia dịch ra, có thể thấy rằng ban đầu vị sứ giả này dự định giao ba món tín vật cho ba người khác nhau. Thế nhưng, nguyên nhân gì đã khiến ông ta đột nhiên đổi ý, tách hai tín vật còn lại ra, đặt ở hai nơi xa xăm tít tắp? Ông ta đến châu Mỹ làm những gì? Tín vật đã giao cho người khác ấy rốt cuộc là thứ gì?”

Nhạc Dương lại “phì” thêm một tiếng nữa. “Còn vấn đề thứ ba là gì vậy?” Trương Lập nôn nóng hỏi.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Vấn đề thứ ba, tổ chức của chúng ta vốn chỉ là một nhóm nhỏ không đáng nhắc đến, tại sao một nhân vật thế lực mạnh như Merkin lại bám chặt không buông, đặc biệt là trước khi thông tin bị tiết lộ ra ngoài. Điều này chứng tỏ hành động của chúng ta trước nay không hề bị các tổ chức quốc tế đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu chú ý đến, vì vậy, sự quan tâm đặc biệt của Merkin dành cho chúng ta, không thể không đặt một dấu chấm hỏi? Có điều, đến giờ vấn đề này hình như đã được giải quyết rồi.”

Giáo sư Phương Tân cải chính: “Giải quyết được một phần thôi, thực ra chuyện về gia tộc Merkin vẫn còn nhiều điểm nghi vấn lắm. Trước tiên, nếu có thông tin về Bạc Ba La thần miếu từ các tài liệu ở Maya, tại sao bọn họ cứ nhất định phải rêu rao rằng thần miếu là tài sản thuộc về mình? Người đầu tiên sở hữu các tài liệu lịch sử của Maya cũng không phải tên Merkin, mà là Landa. Còn nữa, sau khi Ben Merkin xuất hiện, một loạt hành vi của hắn khiến người ta cảm thấy rất kỳ lạ, hắn đã bắt cóc người Qua Ba điên ở Mông Hà rồi, tại sao vẫn còn đeo bám Cường Ba cậu làm gì? Ở châu Mỹ, tại sao lũ buôn ma túy và cả quân du kích lại hứng thú với các cậu như vậy, có phải là do Merkin sắp xếp hay không? Tên thao thú sư đột nhiên xuất hiện kia, liệu có phải do ý đồ của Merkin hay không? Hắn làm vậy có mục đích gì? Chỉ để kéo dài thời gian các cậu tìm thấy Bạch thành thôi hay sao? Hay là để tiêu diệt nhóm của các cậu ở châu Mỹ? Còn ở Đảo Huyền Không tự, hành vi của hắn lại càng kỳ quái hơn nữa. Hắn tốn bao nhiêu công sức như vậy, chỉ là để dùng một tấm bản đồ giả hòng khiến chúng ta đi sai đường thôi ư? Hơn nữa, từ những lời kể của dân làng Công Bố về Merkin, chính xác là hắn có biết đến sự tồn tại của Đảo Huyền Không tự, hắn và bọn chúng ta, đều đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Ngoài ra, thân phận Thánh sứ kia của hắn nữa, có thể nói chỉ là một sự trùng hợp thôi, phải không? Còn cả lần cuối cùng chúng ta đi núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc…” Giáo sư Phương Tân ngưng lại giây lát, rồi tiếp: “Cũng không hiểu hắn có theo dõi chúng ta hay không nữa.”

Trác Mộc Cường Ba cười đáp: “E là không có khả năng này đâu, hắn cố tình nhả tấm bản đồ giả ra, chắc chắn là đã đến nơi ấy rồi, giờ theo chúng ta nữa phỏng ích gì chứ?”

Giáo sư Phương Tân trầm ngâm lắc đầu: “Chưa chắc, nói không chừng hắn cũng tin tấm bản đồ đó là chìa khóa để tìm ra Bạc Ba La thần miếu, tự hắn không tìm được, nên mới cố ý trao lại cho chúng ta, để chúng ta đi thử vận may, rồi lại theo dõi. Đây cũng là một khả năng.”

Trác Mộc Cường Ba nhận thấy trong ánh mắt thầy giáo mình thấp thoáng vẻ ưu tư, như đang che giấu điều gì đó, là gì nhỉ? Tại sao thầy giáo lại khẳng định Merkin theo dõi bọn gã như thế?

Mẫn Mẫn nói: “Được rồi, hôm nay mọi người cũng nói nhiều quá rồi, chi bằng nghỉ ngơi một chút đã.” Trương Lập lập tức duỗi đờ người ra ghế: “Đúng đấy, bọn tôi đi cả ngày hôm nay đã mệt lử ra rồi.”

Giáo sư Phương Tân cũng gật đầu: “Cũng được, hôm nay tới đây thôi, các cậu đi nghỉ đi, tôi còn phải chỉnh lý nốt các tài liệu mới gửi về.”

Trương Lập và Nhạc Dương nghỉ ngơi một ngày, hôm sau trở về trại huấn luyện, đồng thời mang khoe cả các tài liệu mới nhất do bọn Trác Mộc Cường Ba phát hiện. Nhạc Dương báo cáo các thông tin nghe được với Lữ Cánh Nam. Cô chỉ khẽ gật đầu một cái, tỏ ý đã biết rồi, nhưng trong lòng thì lấy làm kinh hãi và chấn động. Cô không thể ngờ, một tên Merkin mà lại ẩn chứa biết bao bí mật đến vậy, nếu không phải có đống tài liệu người Đức thu thập được trong Thế chiến II ấy, thật khó lòng truy được bí mật gia tộc của hắn. Nghĩ tới đây, cô không khỏi nhớ lại tình cảnh lúc mình mới nhận nhiệm vụnày…

“Cánh Nam, cô thực sự nghĩ kỹ rồi chứ? Cô muốn đích thân dẫn dắt đội ngũ ấy hả? Bọn họ là một đám tay ngang không biết gì cả đâu đấy, để bọn họ tự chơi với nhau là được rồi. Cô đi, chẳng phải là lấy đại pháo đi bắn muỗi hay sao?”

“Tin vào năng lực của tôi đi, trong vòng nửa năm tôi sẽ huấn luyện nhóm người đó thành một đội thám hiểm đủ tiêuchuẩn.” “Nếu cô nhất quyết muốn đi, vậy thì dẫn theo tổ chuyên gia có phải tốt hơn không?”

“Không, tôi vẫn đang điều tra người tranh đoạt Cổ cách kim thư với chúng ta, nhưng hắn ta che giấu thân phận rất giỏi, những gì tôi điều tra được về hắn toàn là từ các tài liệu công khai cả. Ngoài việc biết tên thật của hắn là Merkin, mọi chuyện khác chúng ta hoàn toàn không nắm được chút gì. Hơn nữa tôi phát hiện, hắn đã theo dấu kim thư đến tận Tây Tạng, nguyên nhân gì khiến hắn ta tốn bao công sức, nhất định phải có bằng được cuốn Cổ cách kim thư ấy như vậy? Chúng ta không thể không đề phòng, có khả năng hắn là thám tử của một tổ chức lớn nào đó ở hải ngoại phái đến cũng không chừng.”

“Thám tử? Ha ha, làm gì có tổ chức nào phái đi một thám tử ưu tú như vậy được chứ? Tôi đoán, có khả năng hắn ta là thủ lĩnh của một tổ chức nào đấy. Có lẽ từ một kênh nào đó, hắn biết được tầm quan trọng của kim thư, nên mới truy tìm đến tận Tây Tạng. Có điều, nói đi thì cũng phải nói lại, chuyện này có liên quan gì đến nhóm người nghiệp dư kia chứ?”

“Theo thông tin tôi nhận từ Tây Tạng, Merkin và nhóm người tôi muốn dẫn dắt kia đã có va chạm, mấy ngày nữa sẽ có thông tin cụ thể gửi về. Có điều, Merkin đã theo dõi người tổ chức đội ngũ này đi một mạch đến tận Khả Khả Tây Lý. Hắn bỏ cả theo dấu kim thư mà đuổi theo người này, nhất định là đã phát hiện được điều gì đó, nói không chừng, người tổ chức nhóm nghiệp dư này đang nắm trong tay bí mật gì đó mà cả chúng ta cũng không biết. Sự việc lại thật trùng hợp, bọn họ cũng vừa báo cáo lên, thỉnh cầu chúng ta giúp đỡ. Vì vậy, tôi đi là tốt nhất rồi. Cá nhân tôi cho rằng, ngoài tôi ra, người khác không thể dẫn dắt một nhóm người nghiệp dư như vậy đối đầu với Merkin đâu.”

“Thật sự chỉ là như vậy thôi sao? Không còn nguyên nhân gì khác nữa à?”

“Đúng vậy. Hy vọng anh có thể giúp đỡ một chút, nhất định tôi sẽ điều tra ra bí mật phía sau tên Merkin này.” “Ừm… được rồi.” “Cám ơn, tôi nợ anh một lần nhé…” Một tuần sau, thị trấn Tobemori, nước Anh.

Merkin dựa hẳn người nghỉ ngơi trong chiếc sofa bằng nhung đỏ dát vàng phỏng theo phong cách cung đình châu Âu, một con báo đen cuộn tròn trên đùi y như con mèo con lười nhác. Bức tường sau lưng y treo một bức sơn dầu khổng lồ, ngọn đèn treo bằng pha lê tỏa ra những tia sáng chói mắt rực rỡ trong phòng khách hoa lệ.

Max bước trên tấm thảm Ba Tư mềm mại, dè dặt lại gần ông chủ. Hắn có cảm giác ông chủ mình lúc này giống như một bậc quân chủ uy nghiêm, bất cứ loài dã thú hung tàn đáng sợ nào, trước mặt y cũng chỉ còn nước ngoan ngoãn quy phục. Max vẫn còn nhớ rất rõ, lần đầu tiên hắn bước vào tòa nhà như cung điện này, lần đầu tiên trông thấy bức tranh sơn dầu khổng lồ ấy, cảm giác như thể bước vào Thánh đường của Giáo hoàng, hắn không sao tự chủ được đã quỳ xuống bái lạy.

“Ông chủ, cái đĩa cứng ấy đã bắt đầu lên đường rồi.” “Ừm.” Merkin vuốt ve tai con báo đen, nói: “Không ai nghi ngờ chứ?”

Max nói: “Không, người đó và các tổ chức kia phối hợp rất tốt, chúng ta đã tạo ra ba lần hỗn loạn trong toàn bộ quá trình ấy, hiện giờ các tổ chức đó đều hết sức tin tưởng rằng người kia vì thiếu tiền nên mới liều lĩnh trộm ổ đĩa cứng. Vì cái đĩa cứng đó mà có mấy tổ chức nhỏ đã bị tiêu diệt rồi. Theo tôi, chẳng mấy nữa, cái đám dám liều mạng tranh đoạt tư liệu về Bạc Ba La thần miếu với ông chủ ắt sẽ loạn lên thành một đống lộn xộn cho xem.”

Merkin kéo đuôi con báo đen, quấn thành từng vòng từng vòng trên ngón tay mình: “Không, chỉ có mấy tổ chức nhỏ bị tiêu diệt thôi, ngoài ra vẫn còn mấy đám thế lực rất lớn, quá nửa là ổ đĩa cứng ấy sẽ bị bọn chúng cướp vào tay.”

“Ông chủ, thực tôi không hiểu nổi, cái ổ đĩa cứng ở trong tay chúng ta chẳng phải là tốt hơn sao, tại sao cứ phải giả bộ để các tổ chức bên ngoài cướp đi làm gì thế? Những đầu mối của bọn chúng vốn đã bị đứt đoạn từ lâu rồi, không thể tiến lên được nữa, giờ cho chúng cái ổ đĩa ấy, chẳng phải là khiến cho chúng cũng biết nhiều như chúng ta rồi hay sao?” Max làm ra vẻ vắt óc suy nghĩ lung lắm.

Merkin cười nhe răng, nói: “Không, mày tưởng cái ổ đĩa cứng bị ăn trộm ra ấy thực sự là toàn bộ tư liệu bọn Trác Mộc Cường Ba quay chụp lại được hay sao? Mày tưởng rằng kẻ kia thực sự muốn hợp tác với chúng ta đấy à?” Max nói: “Lẽ nào không phải? Nhưng mà, đến cả nhiệm vụ như ăn trộm đĩa cứng hắn cũng mạo hiểm thực hiện được rồi còn gì, ông chủ?”

Vẻ mặt Merkin như cười mà không phải cười: “Rất nhiều đoạn phim trong ổ đĩa cứng ấy đã được xử lý cắt cúp, chỉ có điều, bọn chúng làm rất khéo léo. Vì toàn bộ được quay trong lúc nguy cơ bốn bề trùng trùng điệp điệp, nên những thước phim vốn đã chẳng hoàn chỉnh gì rồi, cứ thẳng tay cắt hết những đoạn quan trọng nhất đi, những kẻ chưa từng thấy các cảnh tượng đó bao giờ tuyệt đối không thể nhìn ra được sơ hở. Nhưng chúng ta thì khác, hai năm nay chúng ta và bọn chúng gần như là đã đi cùng một con đường, đương nhiên tao biết chỗ nào chúng nhất định phải quay chụp lại, nhưng trong cái đĩa cứng ấy lại không có. Ngoài ra, cả mớ tài liệu văn bản trong ấy cũng chắc chắn không thể nào đầy đủ được.Tao dám cược với mày, chuyện ăn trộm đĩa cứng lần này chắc chắn có người trong bọn đã biết, đồng thời còn giúp sức cho hắn hoàn thành nhiệm vụ nữa.”

Max vuốt mồ hôi lạnh túa ra trên trán, cẩn thận quệt tay vào vạt áo cho sạch, đoạn nói: “Nói, nói như vậy, tên đó đúng là muốn giở trò hai mặt? Nhưng… lẽ nào hắn tự nguyện nghiện ma túy chứ?”

Merkin cười khẩy: “Thế có đáng gì, mày đã bao giờ nghe qua chuyện có những kẻ muốn lọt vào hàng ngũ địch làm nội gián, mà cam tâm tình nguyện dùng lửa đỏ tự thiêu hủy khuôn mặt, hoặc dùng sơn đen tự làm mù hai mắt, nuốt than để biến thành người câm hay chưa? Người Trung Quốc có một thứ gọi là nghĩa khí, vì cái thứ này, dù tự chà đạp bản thân đến mức chẳng bằng chó lợn, họ cũng vẫn có thể nhẫn nhục chịu đựng được hết. Hừ hừ, chỉ đáng tiếc, không thể dùng trò này với tao được. Thời gian và địa điểm hắn ta xuất hiện đều không chuẩn xác, dù là hắn có tài năng diễn xuất trời sinh cộng với tố chất tâm lý cực cao, tao cũng không tin. Hừ, muốn lợi dụng tao chứ gì, vậy thì để chúng ta lợi dụng lẫn nhauđi, đến cuối cùng, nhất định tao sẽ khiến hắn thỏa mãn. Max, mày biết mấu chốt để giành chiến thắng trong chiến tranh gián điệp là gì không? Chính là để đối phương trước tiên tin rằng hắn đã giành được tín nhiệm của phe mình, kẻ nào làm được điểm này trước, kẻ đó sẽ giành chiến thắng. Vì vậy, kẻ nào có thể không tin, tuyệt đối không được tin tưởng.”

Max hưng phấn đến độ bàn tay ướt đẫm mồ hôi lạnh, lắp bắp nói: “Vâng… cám… cám ơn ông chủ dạy bảo, ông chủ thật là, thật là anh minh, trí tuệ, ông chủ thật đúng là…”

Merkin hờ hững nựng nịu cằm dưới con báo đen, chán ghét nói: “Đây cũng là những điều các vị tiền bối trong gia tộc dạy tao thôi, muốn chơi trò chiến tranh gián điệp hử, vẫn chưa kẻ nào dễ dàng qua được mắt tao đâu, ngụy trang cao minh đến mấy cũng vẫn là ngụy trang, nhất định vẫn có sơ hở, mày nói có đúng không, Max?”

Nhìn Merkin cười vui vẻ, Max chợt thấy sống lưng mình lạnh buốt, hồi lâu sau cũng không thốt lên nổi tiếng nào, đột nhiên bỗng sực nghĩ ra một chuyện, bèn ngần ngừ nói: “Ông chủ… lần này còn một tin tức nữa, bọn chúng đã phát hiện ra một số bí mật… liên quan… liên quan đến gia… gia tộc của ông chủ.”

“Ừm…” Merkin kéo dài giọng mũi. Max cẩn thận chọn lựa từ ngữ, gắng hết sức thuật lại một cách chuẩn xác nhất tin tức hắn nhận được cho Merkin nghe, tuyệt đối không dám gặng hỏi gì thêm về bí mật gia tộc của ông chủ.

Hồi ức của Merkin

Nghe Max nói xong, Merkin cười ha hả, con báo đen trên đùi lườm y một cái, rồi lại vùi đầu ngủ: “Mày cảm thấy những thông tin này có đáng tin cậy không?” Merkin cười cợt, như thể vừa nghe một câu chuyện hết sức nhố nhăng vậy. Max nói: “Chuyện này… đây là thông tin vừa mới nhận được, nghe nói là bọn chúng lần ra dấu vết từ một tập văn kiện thời Thế chiến II, thoạt nghe thì hình như… hình như…”

Merkin nói: “Sao tao chưa nghe nói mình có vị tổ tiên nào từng hô phong hoán vũ trong Thế chiến II bao giờ nhỉ? Hừm, được rồi, mày đi điều tra xem, tin tức này rốt cuộc là do tên đó cố ý bịa ra gạt chúng ta, hay là bọn chúng nhận được thông tin giả. Hừ, nói không chừng lại là bọn Trác Mộc Cường Ba đó tung hỏa mù cũng nên. Đi đi.”

Trước lúc ra khỏi phòng, Max có liếc mắt lại, nhưng trên mặt Merkin từ đầu chí cuối vẫn giữ nguyên nụ cười giễu cợt ấy, không thể nhìn ra manh mối gì. Mãi đến khi cái bóng của Max ra khỏi tầm mắt, Merkin vẫn cứ đờ ra một nụ cười như thế, nét mặt như được đúc từ trong khuôn ra vậy. Nhưng trong lòng y lại đã tự hỏi mình không dưới một ngàn lần: “Sao có thể bị tra ra được nhỉ? Không, tuyệt đối không thể nào! Các vị tổ tiên đã từng để lại dấu vết như thế trong lịch sử hay sao? Họ lẽ ra phải giấu thân phận rất tốt mới đúng chứ. Thế nhưng, tại sao người ngoài lại biết được bí mật của gia tộc mình? Tuy chúng vẫn chưa tra ra được chân tướng, nhưng mà, nhưng mà chỉ còn một bước nữa thôi! Tuyệt đối không thể nào có chuyện này được. Kẻ nào đang giở trò quỷ với ta ư? Ông nội thực sự có để lại một tấm ảnh ư? Không, quyết không thể nào có chuyện này được!”

Nét mặt Merkin tuy không đổi, nhưng bàn tay y đã bất giác bóp chặt lại, con báo đen đột nhiên bị đau, giật bắn mình tỉnh giấc, cổ họng gầm gừ phát ra những âm thanh đe dọa, trợn trừng nhìn Merkin, nhe mấy chiếc răng nanh nhọn hoắt, móng vuốt đang rút sâu trong đệm thịt bật xoẹt ra.

Merkin cúi xuống nhìn con báo đen với ánh mắt lạnh lùng, hừ nhẹ một tiếng, buông tay ra, ánh mắt lại chầm chậm hướng về phía xa xa ngoài cửa sổ, để lộ toàn bộ phần cổ họng ra trước nanh vuốt của con hung thú. Con báo đen đột nhiên giật thót mình, rút cổ lại, trườn ra khỏi sofa, đứng đằng xa ngó về phía ông chủ của nó đầy bất an. Người đàn ông ở trước mắt nó đó, bỗng phát ra một thứ mùi thật đáng sợ, thứ mùi ấy khiến nó cảm nhận được nguy cơ, một nguy cơ cực kỳ khủngkhiếp!

“Cút!” Merkin lạnh lùng hạ lệnh. Con báo đen dường như nghe hiểu được ngữ khí ấy, vội cụp đầu, cụp đuôi dông tuốt ra khỏi phòng khách. Merkin đứng lên, chăm chú nhìn ra cửa sổ. Trên bãi cỏ xanh, một cây gỗ dẻ khổng lồ tựa như chiếc ô lớn xòe rộng tán, gã chậm rãi bước đến cửa sổ, cúi người nhìn xuống, dưới tán cây đó có một chiếc bàn đá dáng vẻ cổ phác và bốn chiếc ghế băng cũng bằng đá nốt. Bàn đá kiểu đó rất hiếm thấy trong những trang viên kiểu châu Âu thế này, nhìn như hình tròn mà không phải tròn, chính giữa còn khắc mười chín đường ngang dọc, nghe ông nội y bảo, đó gọi là bàn bát tiên.

Gió thoảng qua, trong tán cây đại thụ nổi lên âm thanh rì rào, như đưa Merkin trở lại với những năm tháng xưa cũ. “Ben, cháu đã bảy tuổi rồi.” Ông nội cầm một quân cờ đen đặt xuống mặt bàn cờ dọc ngang chi chít vết khắc vạch, nếp nhăn trên trán ông già cũng chằng chịt như bàn cờ ấy vậy.

“Vâng, thưa ngài Merkin.”Tam tam tinh. Quân cờ trắng của Ben hạ xuống đầy vững chãi. “A, bảy tuổi, bảy tuổi, nhanh quá, nhanh quá.” Cờ đen chiếm góc, tả thượng tiểu mục. Nụ cười của ông nội trông thật hiền hòa, nhưng trong lòng Ben, cái bóng cao lớn không nói không cười kia mới là tượng trưng của sức mạnh. Cờ trắng chiếm Tam tam tinh, đối kháng trực tiếp với cờ đen.

“Ông già rồi, sau này cái tên Merkin này, sẽ do cháu kế thừa, Ben ạ.” Cờ đen tiếp tục tấn công bên trái. Cờ trắng thủ biên, Ben không nói gì, nhưng nắm quân cờ trong bàn tay nhỏ xíu đã cọ vào nhau phát ra những âm thanh “lách cách”. Merkin, đó không chỉ là một cái tên, đó là một biểu trưng.

Cờ đen tấn công biên. “Có biết tại sao cháu có thể lấy tên Merkin, còn cha cháu thì không không?” Ben dè dặt ngẩng đầu lên nhìn ông nội, mái tóc vàng óng của ông già đã trở nên lưa thưa, chỉ khuôn mặt nhăn nheo vẫn giữ được nguyên những đường nét như đao tạc.

“Không rõ, thưa ngài Merkin.” Cờ trắng thử thâm nhập vào góc dưới bên trái, tấn công điểm Tinh hậu.

Thiên nguyên! Thua rồi à? Hay là cố ý? Ben ngạc nhiên nhìn ông nội. Ông già dường như không để ý, chỉ điềm đạm nói tiếp: “Ừm, di truyền, là một thứ rất kỳ quái mà cũng rất phức tạp, có những lúc cha mẹ sẽ truyền những gene không tốt của mình cho đời sau, nhưng đời sau của họ lại có thể loại trừ những gene xấu ấy, chỉ truyền cho con cái mình những gene ưu tú nhất của tổ tiên.”

Ben nghĩ ngợi giây lát,tả hạ đại phi, tốt hơn là cứ để lại một đường lui đã, không để ông nội dồn mình vào góc chết.

Cờ đen thủ biên trái, ông già lại tiếp tục nói: “Ben, cháu có biết không, một người đàn ông, một lần có thể phóng ra một trăm triệu con tinh trùng, trừ những con chết quá sớm, những con bị dị dạng, cũng còn tới sáu bảy chục triệu con, còn một người đàn bà mỗi lần chỉ có một trứng duy nhất thôi. Quả trứng ấy, chỉ có thể tiếp nhận một con tinh trùng, sau khi con tinh trùng đầu tiên được trứng tiếp nhận, cánh cửa sinh tồn sẽ đóng lại, chỉ có con tinh trùng kia và trứng kết hợp, sẽ biến thành một sinh mạng mới. Bởi vậy, mỗi sinh mạng trên thế gian này đều là có một không hai cả, trước khi ra đời, tất cả đều đã trải qua một cuộc đào thải cực kỳ tàn khốc, hoặc là phải mạnh nhất, hoặc là phải may mắn nhất. Ben, cháu cũng đã từng tranh đoạt cơ hội đến với thế giới này với một trăm triệu kẻ giống như mình, cháu cảm thấy, mình là loại nào vậy?”

“Mạnh nhất!” Cờ trắng không còn e ngại gì nữa, mạnh mẽ tấn công vào góc bên trái phía dưới của cờ đen.

Lúc này ông già mới ung dung đáp trả một nước. Góc trái phía dưới đó đã bị ba quân cờ trắng bao vây theo thế ỷ dốc, Ben bất giác bật cười. Ông nội lắc đầu nói: “Đạo của đen và trắng, có thể diễn sinh ra vạn sự vạn vật. Môn cờ này, có lẽ chính là môn nghệ thuật có sức tưởng tượng cao nhất, đồng thời cũng có tính chất cạnh tranh nhất mà loài người từng phát minh ra, một đen một trắng tượng trưng cho có và không. Sau này rồi cháu sẽ hiểu, những người nắm được bí mật huyền ảo của có và không, đã phát minh ra được những cỗ máy có thể làm thay đổi cả tương lai của thế giới đấy.”

Cờ trắng dũng mãnh tiến công, triển khai tàn sát cờ đen ở góc bàn cờ, cờ đen dường như vẫn liên tiếp thoái lui, nhưng lúc nào cũng thoát khỏi vòng vây ở giờ khắc nguy ngập nhất. “Không chạy được đâu.” Ben thầm nhủ trong lòng.

Có lúc ông già cũng nở ra một nụ cười, nhưng hầu như đa phần đều chỉ lắc đầu. Nhưng Ben không để ý, tất cả tinh thần của thằng bé đều tập trung vào cuộc chiến trên bàn cờ, một lòng muốn ăn sạch quân đen ở góc bàn cờ ấy. Đây là cơ hội hiếm có, đã mấy lần ông nội suýt bị dồn vào góc chết rồi. Có thể chiến thắng được người quyền uy nhất trong gia tộc, dù chỉ là trong một trò chơi thôi, đối với Ben cũng đã là một vinh quang rất lớn.

“Ben, cháu dũng cảm mạnh mẽ, ông rất thích, không hề nhớ các nước đi và định thức trong sách dạy đánh cờ, mà chỉ dựa vào cảm nhận trực quan để phân tích các biến cố trên bàn cờ, cũng là rất tốt. Nhưng một mạch tấn công hung hãn, thì lại không được, cháu không thể nào cứ bỏ mặc hậu phương của mình như thế. Phải biết rằng, có những lúc, kẻ địch sẽ xuất hiện ở những nơi cháu không nhìn thấy.”

“Đinh!” một tiếng kêu chát chúa vang lên, cờ đen đặt xuống. Khi ấy Ben vừa đưa mình ra khỏi cục diện rối ren tranh chấp ở góc, nhìn lại toàn cục mới sực nhận ra… cục thế của quân trắng, đã bị chia lìa!

Cục thế quân trắng bị dồn ép chết cứng, chưa thể tìm được vùng đất mới, nghĩa là trên bàn cờ đã không còn quân trắng nữa, dẫu vẫn còn mấy nơi có thể vùng vẫy, nhưng địa bàn cũng rất nhỏ, càng huống hồ còn bị ông nội liên tục tấn công, thằng nhóc Ben đó không thể nào kháng cự được. Ben bối rối đến ứa cả nước mắt, lại bực bội đến chỉ muốn hất tung hết cả đám cờ đen cờ trắng trên bàn kia đi thật xa.

Ông già không thúc giục Ben đi nước tiếp theo, chỉ ngồi một bên quan sát, rồi điềm đạm nói: “Có những lúc thoạt nhìn tưởng là mạnh nhất, nhưng thực chất lại không hề lớn mạnh. Kẻ địch đáng sợ nhất, bao giờ cũng đột nhiên xuất hiện ở những cảnh huống cháu hoàn toàn không nhận ra. Mỗi khi đặt một quân cờ xuống, cháu cần phải nghĩ tới đường rút lui của mình trước. Kỳ thực, thắng hay thua cũng chỉ là một thứ kết cục mà thôi. Ông hy vọng cháu có thể lĩnh ngộ quá trình của nó, quá trình, xưa nay vẫn thường quan trọng hơn kết cục gấp bội phần, thú vị hơn kết cục gấp bội phần.” Chiếc gậy của ông nội gõ nhẹ lên vai Ben: “Tại sao lại để cháu chơi trò này chứ? Ấy là bởi ông hy vọng cháu có thể học được cách lợi dụng tất cả những thứ có thể lợi dụng được, đồng thời, cũng phải biết đề phòng tất cả những sơ hở mà người khác có thể lợi dụng. Tính toán, là vô cùng vô tận, nhưng chỉ cần học được phương pháp tính toán, để mà tính toán nhanh hơn, chuẩn xác hơn kẻ khác, vậy là đã đủ rồi.”

“Không đúng! Chỉ cần sở hữu sức mạnh tuyệt đối, sẽ giành được thắng lợi tuyệt đối. Ông nội già rồi, tóc ông cũng sắp rụng hết rồi, đi đường còn phải chống gậy. Ông đã mất đi sức mạnh vô địch của ngày xưa rồi, vì vậy ông mới nghĩ đến đường lùi. Nếu là người đàn ông trên bức tranh sơn dầu kia, nhất định ông ấy sẽ không làm như thế!” Ben trẻ tuổi thầm khẳng định trong lòng.

Ánh mắt của Merkin rời khỏi cây dẻ lớn bên ngoài khung cửa sổ kiểu Pháp, trở về bức tranh sơn dầu khổng lồ treo chính giữa phòng khách. Trong tranh là bóng lưng của một người đàn ông cao lớn, khôi vĩ, thoạt nhìn rất giống Ben. Người trong tranh mặc áo choàng kiểu nhà binh, nhìn từ góc nghiêng, lộ ra nửa gương mặt góc cạnh rõ ràng, khóe mắt vẫn còn toát lên khí lạnh rợn người. Người bình thường, chỉ cần lại gần bức tranh lớn ấy đã như bị bóp nghẹt cổ họng, không thể thở nổi. Đối với Ben, người đàn ông trong bức tranh ấy chính là tượng trưng của trí tuệ và sức mạnh, cũng là hình tượng mà Ben trước giờ vẫn noi theo và khao khát đạt tới.

Merkin trầm tư bước đến trước bức tranh, đứng ở khoảng cách gần ngước lên, người trong tranh lại càng toát ra một vẻ uy nghiêm khó tả: “Max không thể nào biết được những chuyện ấy, còn người trong tổ chức thì sao? Không, ông nội đã sắp đặt tất cả rồi, mình không thể bị phát hiện được. Còn đám người trong chính giới nữa? Ừm, bọn họ lại càng không thể biết được. Ông nội, rốt cuộc ông đã tính sai điểm nào thế? Chẳng phải ông đã nói, những chuyện ông làm trong Thế chiến II tuyệt đối không có kẻ nào biết được hay sao? Sao bọn chúng lại biết ra vậy?”

Người đàn ông trong tranh vẫn lạnh lùng hờ hững, chỉ có một giọng nói già nua vẳng lên từ ký ức sâu thẳm của Merkin: “Cháu à, cháu đã bảy tuổi rồi, giờ ông sẽ nói cho cháu một bí mật. Bí mật này, ông nội cũng biết vào năm lên bảy tuổi đấy. Cháu có biết, lai lịch của Merkin không?…”

Theo chỉ đạo của giáo sư Phương Tân, vừa trở về Trác Mộc Cường Ba và Mẫn Mẫn liền bắt tay tra tìm các tư liệu khác. Thời gian cứ thế trôi, khi họ sắp xếp chỉnh lý xong tài liệu thì đã là chuyện của nửa tháng sau rồi. Trác Mộc Cường Ba vốn không tin vào chuyện thần ma quỷ quái, giờ cứ phải cắm đầu vào hàng đống chuyện thần thoại đếm không hết, kể không xong. Nói theo cách của gã, thật chẳng khác nào một vị đại sư huyền học cả. Nhưng đối mặt với vô số phiên bản khác nhau, nội dung gần như tương đồng của các câu chuyện thần thoại, cả Trác Mộc Cường Ba lẫn Mẫn Mẫn đều đã vắt kiệt tâm sức mà vẫn không lần ra nổi manh mối gì. Phía giáo sư Phương Tân cũng không có tiến triển gì hơn, riêng việc cải tạo trang thiết bị của Trương Lập và huấn luyện tân binh của Nhạc Dương lại đạt được tiến bộ thần tốc.

Hôm ấy, Trác Mộc Cường Ba đang đọc “Bát thời bác đường toán đồ”, đột nhiên bị thu hút bởi một âm thanh kỳ dị, nghe như rất xa, lại tựa như rất gần, cảm giác hơi chói tai. Gã ngoảnh đầu lại tìm kiếm, chỉ thấy một vật thể hình cầu sáng lấp lóa bay vọt qua trước mắt, nguồn âm thanh chính là từ quả cầu này. Trác Mộc Cường Ba đang định đứng lên xem cho rõ rốt cuộc là thứ gì, đột nhiên thấy cả người lạnh toát, cổ họng mình tựa hồ như bị người ta bóp nghẹn. Chuyện này trước nay chưa từng xảy ra, ngoài pháp sư Á La ra, Trác Mộc Cường Ba không thể nghĩ ra ai có thân thủ cao cường đến mức ấy. Nhưng pháp sư Á La chắc chắn là không bao giờ chơi trò này, lẽ nào là kẻ địch?

Đang nghĩ ngợi thế, bỗng nghe tiếng Trương Lập cười lớn: “Ha ha, Cường Ba thiếu gia cũng trúng chiêu à.” Nhạc Dương ở phía sau nói: “Coi như anh lợi hại.”

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại, thấy người vừa đánh lén mình hóa ra là Trương Lập, không khỏi lấy làm ngạc nhiên. Bị Trương Lập áp sát thế mà gã hoàn toàn không có cảm giác gì cả, lẽ nào lâu không rèn luyện, thân thủ đã cùn mòn đi rồi? Không thể như vậy được, ngày nào gã cũng tập thể năng và luyện phản ứng đều đặn kia mà?

Trương Lập bước lên mấy bước, nhặt quả cầu phát sáng và phát ra âm thanh kia lên, cười bảo: “Cường Ba thiếu gia ngạc nhiên lắm hả, đây cũng là một công cụ rất quan trọng được Đường Thọ nhắc đến trong cuốn nhật ký của anh ta, ‘đạn hấp dẫn’, hoặc gọi là ‘quả cầu thu hút’ cũng được. Âm thanh biến tần mà nó phát ra có phạm vi âm tần mà tất cả sinh vật sống trên địa cầu này đều có thể tiếp nhận được, ánh sáng nhiều màu tổ hợp của nó cũng đảm bảo rằng chỉ cần là sinh vật có thị lực đều có thể nhìn thấy. Đây là trang bị cuối cùng pháp sư Á La mới gửi về trong tuần này. Mấy người bọn họ cũng đã về đếnLhasa rồi, chắc ngày mai là tới đây thôi.”

Trác Mộc Cường Ba cầm lấy vật thể hình cầu, chỉ thấy nó to cỡ bằng quả bóng tennis, vẫn không ngừng rung động phát ra các âm thanh từ thấp đến cao, vỏ ngoài vừa giống kim loại vừa như bằng nhựa dẻo, lại có thể nhìn xuyên qua vỏ để thấy các linh kiện điện tử bên trong đang phát ra những màu sắc lấp lóa. Không hiểu vì sao, vừa nhìn thấy quả bóng nhỏ này, sự chú ý của gã dồn hết cả vào nó, đến nỗi quên cả những thay đổi ở môi trường xung quanh. Chỉ nghe Trương Lập giải thích: “Trong nhiều lần thám hiểm, Đường Thọ đã gặp phải vô số sinh vật không rõ lai lịch tấn công. Vì vậy anh ta dựa trên nguyên lý của lựu đạn mù và một số máy móc điện tử mà phát minh ra thứ này, nhằm thu hút sự chú ý của cácđộng vật cỡ lớn, để mình có thể bình yên di chuyển hoặc tẩu thoát. Nếu trong rừng Mãng xà mà chúng ta có thứ này, thì đã không bị con cá sấu khổng lồ kia đuổi cho thê thảm đến thế rồi.”

Trác Mộc Cường Ba lại cầm “quả cầu thu hút” ấy lên ngắm nghía, cảm thấy thứ này quả thực có thể phát huy một số công dụng bất ngờ, chỉ có điều hơi to. Gã quay sang Trương Lập, Nhạc Dương, hỏi: “Ủa, mà cả hai cậu đến đây làm gì?”

Nhạc Dương đáp: “Giáo sư Phương Tân gọi mọi người tập hợp, đợi lát nữa cả giáo quan và anh Ba Tang đến, hình như lần này cả Vương Hựu cũng tham gia nữa, chắc là có sự việc gì đấy cần quyết định đây. Tôi nghĩ, có lẽ là liên quan đến tấm gương đồng tay Vương Hựu nhặt được trong địa cung Maya thôi.”

Đường Mẫn cầm hai cốc nước ra, nói: “Này, uống nước đi.” Trương Lập đón lấy, ực một ngụm lớn, nói: “Ồ, mấy ngày không gặp mà Mẫn Mẫn thanh tú hơn nhiều đấy nhé.” Đường Mẫn nở một nụ cười tươi tắn: “Đồ thối mồm.”

Trác Mộc Cường Ba nghịch quả cầu trong tay, tung lên tung xuống, ánh mắt lại bất giác bị nó hút vào. Đường Mẫn “ủa” lên một tiếng, hiển nhiên đã chú ý đến trái bóng vừa phát sáng lại vừa phát ra âm thanh này. Trác Mộc Cường Ba liền tung nó cho cô, đoạn bảo Nhạc Dương: “Đúng là rất hay, có phải tất cả đều được trang bị thứ này rồi không?”

Nhạc Dương lắc đầu: “Tạm thời thì chưa, mọi người vẫn đang được huấn luyện sử dụng dây móc. Phải rồi, Cường Ba thiếu gia, đây là danh sách cuối cùng.” Nói rồi, anh chàng lấy ra một tờ giới thiệu sơ lược về nhóm thành viên mới.

Trác Mộc Cường Ba nhìn lướt qua, ngoài Vương Hựu, Sean và pháp sư Tháp Tây ra, hơn hai mươi người yêu thích hoạt động thám hiểm dã ngoại đã bị đào thải chỉ còn bảy người, lần lượt là Nghiêm Dũng, 39 tuổi, chuyên gia địa chất, địa mạo, nhà thám hiểm chuyên nghiệp, người đi đầu và khai phá hoạt động leo núi dân gian, vận động viên leo núi ưu tú của Tây Tạng, người dẫn đường leo núi cao nổi tiếng khắp toàn quốc. Người Thành Đô.

Chư Nghiêm: 40 tuổi, nhà thám hiểm nghiệp dư, từng là thành viên cốt cán của Đại Phi Ưng xã, đội trưởng đội leo vách đá. Năm 1998, là đội viên chủ lực của Đoàn phiêu lưu trên sông Nhã Lỗ Tạng Bố. Từng giành được giải quán quân trong giải thi đấu leo vách băng ở Scotland năm 2002.

Mạnh Hạo Nhiên: 34 tuổi, hội viên Hiệp hội các Nhà leo núi Trung Quốc, hướng đạo chuyên nghiệp vùng núi cao, nhà nhiếp ảnh trẻ. Từng làm việc ở Tây Tạng 16 năm. Người Quảng Châu.

Lê Định Minh: 38 tuổi, nhà động vật học chuyên ngành lưỡng thê. Nhà thám hiểm nghiệp dư, từng tham gia huấn luyện kỹ thuật leo vách băng ở Hiệp hội Leo núi Trung Quốc, năm 2004 xếp thứ ba trong cuộc thi băng rừng, đã qua kỳ thi lấy chứng chỉ cấp cứu viên trung cấp, năm 2003 đã một mình leo lên đỉnh Ngọc Châu ở dãy Côn Luân.

Trương Kiện: 35 tuổi, công chức đội địa chất Tây Tạng. Triệu Trang Sinh: 27 tuổi, thiếu úy bộ đội thuộc Quân khu 325 tỉnh Thanh Hải, học sinh ưu tú của Lữ Cánh Nam. Lý Hồng: 27 tuổi, thanh tra cảnh sát cấp hai, giảng viên Học viện Cảnh sát Thanh Hải, học sinh của Lữ Cánh Nam. Trong danh sách này không có thành viên nữ nào, Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc hỏi: “Sao không thấy chị Trương?”

Nhạc Dương nói: “Vốn là chị Trương cũng vượt qua được khảo hạch, nhưng công ty chị ấy có chuyện gấp, thực không thể nào lo việc ở cả hai nơi được, chị Trương rất lấy làm tiếc, nói sau này nhất định sẽ còn đến Tây Tạng lần nữa.” Trác Mộc Cường Ba cũng thở dài đầy tiếc nuối, gật gật đầu, cất bản danh sách ấy đi. Gã thấy Trương Lập vẫn đang hết sức hào hứng giảng giải cho Mẫn Mẫn về tác dụng và nguyên lý của “quả cầu thu hút”, tâm trí hình như đã bị vật thể nhỏ nhưquả bóng tennis ấy cuốn hút toàn bộ. Trác Mộc Cường Ba nói: “Trương Lập hình như rất phấn chấn thì phải.” Nhạc Dương nói: “Từ lúc nhìn thấy cuốn nhật ký của Đường Thọ, anh ta đã như tên võ sĩ gặp được bí kíp võ lâm, ngày nào cũng hưng phấn muốn phát điên lên như vậy đấy.”

Nhìn vẻ rạng rỡ của Trương Lập, trong lòng Trác Mộc Cường Ba chợt lóe lên một tia bất an, nhưng vì duyên cớ gì mà có nỗi lo lắng mơ hồ ấy thì gã lại không thể nói ra được. Chỉ nghe Nhạc Dương lớn tiếng: “Được rồi, nhìn bộ dạng dương dương đắc ý của anh, còn bảo bối gì mau lấy ra cho mọi người xem đi.”

Trương Lập đặt cốc nước xuống, hướng về phía Trác Mộc Cường Ba, ngón tay đung đưa qua lại: “Hì, không giấu mọi người, còn một thiết bị hộ thân cực kỳ siêu cấp nữa, pháp sư Á La và đội trưởng Hồ Dương vừa gửi bên Úc về tuần trước.” Trương Lập chỉ bộ quần áo đang mặc người, hỏi: “Cường Ba thiếu gia, anh thấy tôi ăn mặc thế này có gì đặc biệt không?”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt quan sát Trương Lập một lượt từ đầu đến chân, thấy anh chàng khoác một chiếc áo gió ngắn, che kín cả bên trong, không nhìn ra có gì đặc biệt, bèn nói: “Ừm, nhìn bên ngoài chẳng có gì khác lạ cả.”

Trương Lập lại hỏi: “Nếu nói, dùng dây móc và áo cánh dơi, chúng ta có thể hạ xuống mặt đất thẳng từ độ cao hai mươi mét, nhưng nếu hơn hai mươi mét, chẳng hạn như một trăm mét thì sao? Cường Ba thiếu gia, anh có chắc mình an toàn chạm đất được không?”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Cao quá, áo dơi không giữ được lâu như thế, nếu là pháp sư Á La…” Trương Lập nói: “Có bộ trang bị này, nếu vị trí chạm đất tốt, đừng nói là một trăm mét, hai trăm mét, hay ba trăm mét cũng không thành vấn đề.”

Trác Mộc Cường Ba lấy làm hứng thú, hỏi: “Ồ, một loại dù hả?”

Trương Lập lắc đầu: “Nếu khoảng cách ngắn quá, dù không kịp mở ra đâu, bộ trang bị này có thể mở ngay lập tức…” rồi đưa mắt nhìn quanh, nói: “Ở đây chật hẹp quá, phải ra bên ngoài mới biểu diễn được, tôi nói nguyên lý hoạt động của nó trước đã vậy. Cường Ba thiếu gia, anh thử sờ chiếc áo này xem, xem có gì đặc biệt không.”

Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương cầm một góc áo lên, sờ thử, cảm thấy rất chắc và dày. Cổ áo không có gì đặc biệt, ở rìa ống tay có một vật hình tròn như cái vòng sắt, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Đây là cái gì?”

Nhạc Dương hỏi: “Có phải bình khí nén không?”

Tập hợp lại

Trương Lập chỉ tay về phía Nhạc Dương, gật đầu cười khen: “Thông minh.” Anh vén một vạt áo lên, nói: “Đây vốn là bộ đồ cấp cứu trên biển, được Đường Thọ cải tiến, đã trở thành trang phục cấp cứu khi bị rơi từ trên cao xuống. Chiếc áo này của tôi thoạt nhìn có vẻ bình thường, nhưng dày đến tám milimet đấy, giữa hai lớp áo là những màng mỏng dạng tổ ong được cường hóa, chỗ ống tay áo này là bình khí nén, van đóng mở sử dụng kết cấu gần giống dây móc, có một cái vòng tròn để móc vào ngón giữa, chỉ cần giơ tay lên, cửa van sẽ tự động mở, toàn bộ quá trình bơm khí có thể hoàn thành trong năm giây. Sau khi bơm khí xong, áo sẽ hình thành nên hai túi khí, lớp bên ngoài là một hình cầu lớn, bêntrong là một hình cầu nhỏ hơn. Toàn thân người mặc áo được bao bọc trong hình cầu nhỏ này, nếu bên dưới có triền dốc cỏ, anh ta hoàn toàn có thể chịu được lực tác động do rơi từ độ cao ba trăm mét xuống. Nếu bên dưới là dòng nước hoặc bùn đất, thì dẫu có rơi từ độ cao nghìn mét xuống cũng không thành vấn đề.” Trương Lập liếm môi, rồi nói tiếp: “Tôi có một suy nghĩ hơi táo bạo, đó là kết hợp thứ này với áo dơi, điều chỉnh lại một chút, sẽ không ảnh hưởng đến khả năng bay lượn trên không trung của chúng ta, tay trái móc vòng điều khiển, dây móc ở tay phải, như vậy thiết bị bảo hộ trên không của chúng ta có thể coi là hoàn hảo được rồi.”

Nhạc Dương nói: “Nhét bình nén khí vào trong áo, chẳng phải là quá phiền phức hay sao, mà chỉ có thể dùng một lần, nếu cải tiến để có thể gấp đi gấp lại dùng nhiều lần như dù thì sao?”

Trương Lập nói: “Ý cậu là, gấp lại cho vào ba lô ấy hả? Cũng được!” “Cái gì cũng được?” giọng Lữ Cánh Nam vang lên ngoài cửa.

“Giáo quan.” “Giáo quan.” Trương Lập và Nhạc Dương không hiểu có phải đã quen rồi hay là sao, vừa nghe thấy giọng Lữ Cánh Nam, liền lập tức đứng thẳng người lên theo phản xạ.

Lữ Cánh Nam và Ba Tang, Sean, Vương Hựu lần lượt đi vào, căn phòng lập tức trở nên hơi chật chội. Mọi người trò chuyện thêm một lúc, thì giáo sư Phương Tân xuất hiện trên màn hình máy tính: “Mọi người, làm ơn yên lặng một chút.”

Căn phòng trở nên im phăng phắc, chỉ nghe giáo sư Phương Tân nói: “Lần này, tôi triệu tập mọi người tới đây là vì có một chuyện rất quan trọng, bản thân tôi không thể đưa ra quyết định được, nên muốn thương lượng với mọi người một chút.” Trên màn hình xuất hiện một hình ảnh khác, một ông già áo trắng, đeo kính hiện ra, phía sau là một đống chai lọ thí nghiệm. Giáo sư Phương Tân giới thiệu: “Đây là tiến sĩ Bác Truyền Hùng, một người bạn già của tôi, chuyên nghiên cứu ngành hóa học cơ sở.”

Tiến sĩ Bác Truyền Hùng chào hỏi cả bọn, rồi lại nghe giáo sư Phương Tân tiếp tục nói: “Ở chỗ tôi, tình hình nghiên cứu tấm bản đồ kia vẫn chưa có tiến triển gì hơn. Vì chưa có đột phá gì, nên đang chú trọng cả vào tấm gương đồng. Sau khi nhận được chiếc gương, tôi đã lập tức liên lạc với một số chuyên gia, tiến hành phân tích âm thanh, ánh sáng, và bằng dòng điện, và đã thu được một chút hiệu quả. Mọi người xem thử, đây là bề mặt gương đồng dưới kính hiển vi điện tử.”

Một hình ảnh được phóng to, chiếm cả toàn bộ màn hình máy tính, thoạt nhìn trông hơi giống như bề mặt tinh cầu chụp bằng máy ảnh đen trắng, có chỗ lại giống như núi lửa hình tròn trên mặt trăng, lại có chỗ xuất hiện các mạch núi chia tách. Trương Lập nói: “Đây là bề mặt tấm gương đồng sao?”

Giáo sư Phương Tân trong máy tính gật đầu: “Đúng vậy, đây là bề mặt tấm gương đồng đã được phóng to lên một trăm nghìn lần, gần như trơn nhẵn và trơn nhẵn là hai khái niệm cách nhau cũng khá xa đấy phải không?”

Trác Mộc Cường Ba liền lên tiếng: “Nói như vậy, cổ nhân vẫn sử dụng nguyên lý chiết xạ trong quang học để tạo thành hình ảnh rồi?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Đúng thế, nếu trên tấm gương đồng này có ẩn chứa điều bí mật gì, thì cũng chỉ có thể bắt tay tìm kiếm theo hai cách. Thứ nhất, là thông qua hoa văn và văn tự trên đó, tìm kiếm thông tin ẩn giấu, nhưng chúng ta đã hết sức nỗ lực mà vẫn không phát hiện ra điều gì đặc biệt. Văn tự cũng chỉ có mấy chữ đó, dường như khả năng có ý nghĩa ẩn chứa thật cũng không nhiều nhặn gì cho cam. Dù sao chúng ta cũng không chuyên nghiệp được như chuyên gia bên tôn giáo, đến họ còn không phát hiện ra nữa cơ mà. Vì vậy, chúng ta coi trọng việc tìm đầu mối theo cách thứ hai hơn, tức là theo hướng phản xạ tạo ra hình ảnh của tấm gương đồng. Có hai lý do khiến chúng tôi chọn cách thứ hai này làm hướng nghiên cứu chính. Thứ nhất, loại gương thấu quang này đã được sản xuất rất sớm từ thời Hán, công nghệ chế tác nó có lẽ đã tương đối thành thục. Trong thời kỳ Đại Đường và Thổ Phồn thông giao, người Tạng cổ hoàn toàn có khả năng nắm bắt được kỹ thuật này. Thứ hai, từ ý nghĩa quyển trục biểu đạt, có thể thấy rằng, Cổ Cách vương đã dựa theo tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu để điêu khắc ra một vật thể rất lớn, mà nguyên bản của tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu lại chỉ là một chiếc gương đồng nhỏ, sự khác biệt về kích cỡ như vậy, e rằng cũng chỉ có sự phản xạ và chiết xạ của tia sáng mới tạo ra được. Đồng thời, thông qua nghiên cứu quang học đã chứng minh được rằng, bề mặt tấm gương này đích thực đã được xử lý đặc biệt. Dưới kính hiển vi điện tử, bề mặt nó đã hiện ra những hoa văn lồi lõm có quy luật, chúng tôi lại dùng tia laser để quét bề mặt tiết diện của nó, phân tích bằng máy quang phổ màu, kết luận đều nghiêng về hướng nó là một tấm gương thấu quang, nhưng…”

Giáo sư Phương Tân nói tới đây, tấm gương thấu quang liền bắt đầu xoay chuyển trên màn hình máy tính, một chùm sáng đỏ chiếu lên mặt gương, góc độ giữa chùm sáng và mặt gương không ngừng thay đổi, mặt gương cũng không ngừng xoay chuyển; kế đó trên bức tường trắng dần dần có thay đổi, xuất hiện một hình bóng mờ mờ. Góc chiếu của ánh sáng thay đổi, cùng với sự xoay chuyển của tấm gương, hình trên tường dần rõ hơn đôi chút, nhưng nhìn thế nào cũng vẫn chỉ là một cái bóng mờ tịt, rồi khi góc chiếu sáng và góc quay của mặt gương thay đổi, cái bóng mờ đang rõ dần lên lại từ từ biến mất. Cả bọn đang trố mắt ra nhìn, kêu “ồ” lên một tiếng. Hình ảnh trên máy tính đảo ngược trở lại, dừng ở chỗ bóngmờ kia rõ nét nhất. Giáo sư Phương Tân nói: “Chúng tôi đã thử tất cả các góc độ, chiếu xạ bằng các loại chùm sáng nhìn được và không nhìn được, đây là hình ảnh rõ nhất mà chúng tôi có cho đến thời điểm này. Còn khi dùng ánh sáng thường chiếu vào tấm gương này, mắt thường gần như không thể nhìn thấy hình bóng mờ nhạt kia. Đây cũng là nguyên nhân khiến khi mới có được tấm gương đồng, mọi người không tìm ra điều gì khác lạ.”

Đầu mọi người chụm lại một chỗ, chỉ thiếu điều chui cả vào trong màn hình máy tính, nhưng nhìn mãi bức hình rõ nét nhất ấy mà vẫn không thể nhìn ra là cái gì cả, tựa như có nước chảy trên bức tường, ánh đèn chiếu vào, còn có cảm giác lấp lóa nữa. Giáo sư Phương Tân điều chỉnh cho hình ảnh lại gần rồi ra xa, để mọi người nhìn rõ hơn chút nữa, nhìn xa thì giống bút pháp tranh sơn thủy vẩy mực truyền thống của Trung Quốc, còn nhìn gần thì chẳng ra gì hết, chẳng giống gìhết. Trác Mộc Cường Ba nói: “Liệu có phải do khoảng cách nguồn sáng và độ sáng hay không?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Những thứ ấy cũng thử hết cả rồi, không có hiệu quả. Đương nhiên, trước mắt chúng tôi đang nghiên cứu các hoa văn phức tạp ở mặt sau tấm gương để xem có thể phát hiện thêm được gì không. Còn nữa, chúng tôi đã hỏi Vương Hựu về tình hình lúc anh ấy phát hiện ra chiếc gương đồng này. Vương Hựu nói, lúc vừa tỉnh lại chỉ thấy một màn đêm đen kịt, vô ý quờ quạng dưới đất thì chạm phải một vật tròn tròn, một mặt trơn nhẵn một mặt gồ ghề, cảm giác giống như cái gương, lúc ấy cũng không nghĩ ngợi gì, chỉ tiện tay bỏ vào trong ba lô. Ở đây có một vấn đề rất lớn…”

Trác Mộc Cường Ba sực hiểu ra: “Ý thầy giáo là, chỉ sợ còn sót lại thứ gì đó!”

Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Đúng thế, còn nhớ hình ảnh trùng điệp trong Maya địa cung dạo trước tôi cho cậu xem không, khi ấy người Maya đã gắn ngược tấm gương này lên đỉnh vòm thông đạo phía sau cánh cửa cấm kỵ, nhưng Vương Hựu lại quờ được nó ở dưới đất. Nếu nói, thời gian năm tháng đã khiến tấm gương đồng rơi từ trên đó xuống, vậy liệu còn thứ gì khác cũng bị rơi xuống nữa hay không, chúng ta đều không biết. Giờ chúng ta chỉ còn cách tiếp tục nhờ chuyên gia nghiên cứu địa cung Maya, xem xem có phát hiện ra được đầu mối gì ở đó hay không. Tuy rằng vụ nổ ấy có thể đã phá hủy tất cả, nhưng mà, không chừng chúng ta vẫn còn một tia hy vọng nào đó.”

Nhạc Dương ủ rũ như trái bóng xì hơi: “Nói như vậy, nếu chẳng may tấm gương đồng này không hoàn chỉnh, vậy thì không thể chiếu ra tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu rồi.”

Trác Mộc Cường Ba kích động nói: “Nhưng địa cung Ahezt đó đã bị phá hủy rồi mà!” Nhạc Dương nói: “Nếu đúng là vậy, lẽ nào chúng ta không thể nào phục nguyên tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu nữa hay sao?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Đã phân tích toàn diện rồi, nhưng vẫn không có bất cứ kết quả nào. Giờ chỉ còn phương diện hóa học là chưa tiến hành thí nghiệm thôi, nhưng có điều, một khi tiến hành các thao tác hóa học, rất có khả năng sẽ gây cho tấm gương đồng những tổn hại không thể phục hồi. Tôi hy vọng, có thể nghe ý kiến của mọi người.”

Tiến sĩ Bác Truyền Hùng chỉ vào cỗ máy sau lưng: “Tôi đã sơ bộ phân tích tấm gương đồng, đây rõ ràng là một tấm gương đồng mạ vàng, nếu sử dụng phương pháp hóa học để xử lý, tôi có thể bóc đi một lớp trên bề mặt nó. Các thiết bị và máy móc cần thiết đều đã chuẩn bị xong xuôi, nếu mọi người biểu quyết thông qua thì có thể lập tức tiến hành ngay.”

Bầu không khí nhất thời trở nên trầm mặc, không ai biết làm vậy rốt cuộc sẽ hiệu quả gì không. Nếu vô hiệu, tấm gương đồng sẽ bị phá hủy, không thể nào phục nguyên được nữa, chính vì thế giáo sư Phương Tân gọi mọi người tề tựu cả về đây. Giáo sư nói: “Vương Hựu, về mặt pháp luật, tấm gương này là tài sản sở hữu cá nhân của anh, ý kiến của anh hết sức quan trọng. Tôi nghĩ, chắc anh cũng từng do dự trước chuyện này rồi phải không? Nhưng cuối cùng vẫn lựa chọn bỏ cuộc, bây giờ thì sao, thử nói ra ý kiến của anh xem.”

Vương Hựu vặn vẹo hai bàn tay: “Ừm. Trước đây tôi không hiểu rõ về nó lắm, vậy nên không dám tùy tiện thí nghiệm, nhưng chẳng phải các vị đã nghiên cứu sự việc này một thời gian rất dài rồi hay sao? Theo ý tôi, mọi người cứ dựa theo nhu cầu thực tế mà quyết định, nếu tất cả đều tán đồng, tôi cũng không phản đối. Có điều, nếu không chắc chắn trăm phần trăm, tôi nghĩ, chưa đến đường cùng, chớ nên tùy tiện hủy hoại nó thì tốt hơn.”

Giáo sư Phương Tân lại nói: “Cánh Nam, còn cô? Đây là cổ vật của tôn giáo, cô có ý kiến gì không?”

Lữ Cánh Nam nói: “Thực ra mọi người trong giáo vẫn đang nghiên cứu những điển tịch thời cổ xem có phát hiện ra đầu mối gì mới không. Nếu phân tích theo góc độ lý tính, tốt nhất vẫn là không làm tổn hại, còn về việc người xưa có ẩn giấu gì dưới bề mặt của tấm gương này hay không, đúng là đã đặt ra cho chúng ta một vấn đề khó…”

Giáo sư Phương Tân nói: “Tôi hiểu suy nghĩ của mọi người, kỳ thực tất cả đều cho rằng, không đến lúc vạn bất đắc dĩ thì vẫn cố gắng hết sức để giữ cho tấm gương được hoàn chỉnh, đúng vậy không? Thực ra, lẽ nào tôi lại không nghĩ như thế cơ chứ. Có điều, chúng tôi đã sử dụng tất cả các phương pháp có thể sử dụng rồi, và thực sự là không có bất cứ tiến triển nào, nếu đúng là người xưa đã giấu bí mật ở bên dưới bề mặt tấm gương thì sao? Không mạo hiểm một chút, vĩnh viễn sẽ không thể nào biết được chân tướng sự thật. Ý kiến của tiến sĩ Bác là, chúng ta có thể bắt đầu từ ngoài rìa, lần thí nghiệmđầu tiên, sẽ khống chế ở mức làm tổn hại tấm gương dưới một phần nghìn, toàn bộ trình tự đều tuyệt đối hợp lý và khoa học. Nếu muốn nói đến lý do, kỳ thực cả hai phía phản đối và ủng hộ đều có lý do của riêng mình. Ở đây chỉ là vấn đề có muốn liều một phen hay không, tôi trưng cầu ý kiến đa số, hy vọng mọi người có thể biểu quyết.”

“Tôi tán thành!” Đường Mẫn là người bày tỏ thái độ đầu tiên, giọng rất nhỏ nhẹ, nhưng nghe rõ ràng từng chữ một: “Vấn đề chuyên nghiệp thì giao cho chuyên gia làm. Nếu đúng là đã nghĩ đến tất cả mọi cách rồi, tại sao chúng ta không mạo hiểm thử một lần chứ? Chuyên gia có thể nghiên cứu đi nghiên cứu lại nhiều lần, nhưng chúng ta đã hết thời gian rồi, chúng ta hết thời gian rồi!”

Tất cả cúi gằm mặt, bọn họ đều hiểu rõ, đúng vậy, thời gian của Trác Mộc Cường Ba không còn nhiều nữa, chỉ có Vương Hựu và Sean là lộ vẻ ngạc nhiên không hiểu vì sao.

“Có thể thử một lần.” Lữ Cánh Nam cũng nói. “Vậy thì thử đi.” Trương Lập và Nhạc Dương đồng thanh lên tiếng. Ba Tang nói: “Tôi không có ý kiến.” … Giáo sư Phương Tân nói: “Mọi người đều đã đồng ý, vậy thì…” “Cốc cốc cốc,” ngoài cửa vang lên tiếng gõ.

Những người trong phòng giật mình kinh ngạc. Nơi này rất hẻo lánh, vốn là để tránh tai mắt nhòm ngó, mọi người đến tụ họp ở đây cũng hết sức bí mật, lo lắng nhất chính là bị người khác theo dõi.

Nhạc Dương nhìn qua lỗ quan sát, lập tức mở cửa ra, lớn tiếng kêu lên: “Pháp sư Á La, đội trưởng Hồ Dương, hai người trở về rồi!”

Đội trưởng Hồ Dương cười ha hả, nói: “Cuối cùng cũng về được đến nơi rồi, cái việc mua mua bán bán này đến là mệt. Nào, giúp tôi cầm ba lô đi. Ồ, ở đây hết cả, mở cuộc họp hả?”

Trương Lập nói: “Không phải, giáo sư Phương Tân nghiên cứu tấm gương đồng chưa có phát hiện gì, đang chuẩn bị phân tích hóa học…”

Pháp sư Á La bước vào phòng, đặt ba lô xuống rồi nói: “Tấm gương đồng? À, tạm thời đừng thử nghiệm vội, tôi nghĩ, phía bên tôn giáo chắc đã có phát hiện rồi.”

“Gì hả!” Giọng giáo sư Phương Tân trong máy tính vang lên, tiến sĩ Bác vừa chuẩn bị bật thiết bị lên, cũng ngừng tay lại. “Pháp sư Á La, có phát hiện gì vậy?”

Pháp sư Á La nói: “À, vừa về tới Lhasa, tôi liền nhận được tin của các vị trong giáo, nói một phần tấm bản đồ đã được giải khai rồi, tấm gương đồng dường như cũng có điều tương tự, vì vậy tạm thời chớ nên thực hiện bất cứ thí nghiệm hóa học nào có thể gây tổn hại đến nó.”

“Một phần bản đồ đã được giải mã rồi ư!” Trác Mộc Cường Ba vô cùng kích động. Pháp sư Á La nói: “Chỉ là một phần thôi, các vị trưởng lão trong giáo đã đọc rất nhiều cổ thư cổ tịch, sơ bộ cho rằng, những ký hiệu màu sắc khác nhau trên tấm bản đồ ấy, là biểu thị thời gian.”

“Thời gian?” Giáo sư Phương Tân lập tức cho hiện lên màn hình tấm bản đồ mà ai xem cũng chẳng hiểu gì ấy.

Pháp sư Á La nói: “Trước tiên, những đường nét được vẽ bằng năm màu khác nhau này, có lẽ là chỉ thuyết ngũ hành truyền thống của Tây Tạng, thiết, mộc, thủy, hỏa, thổ. Còn những hình vẽ bên cạnh đường nét ấy, nhìn bề ngoài không hề có bất cứ quy luật nào, nhưng sau khi nghiên cứu kỹ, các vị trưởng lão phát hiện ra rằng tưởng như không có quy luật nhưng chúng lại có những quy luật nhất định. Những hình vẽ đó, hoàn toàn có thể chia làm hai nhóm, một nhóm ở gần những đường nét tô màu, nét vẽ thô ráp, một nhóm cách những nét màu hơi xa một chút, nét vẽ tinh tế tỉ mỉ hơn. Nhóm hình vẽ thô ráp, bất kể biến hóa thế nào, tổng cộng chỉ có mười hai hình khác nhau, chính là mười hai con giáp. Tây Tạngthời cổ sử dụng lối tính thời gian một ngày mười hai canh giờ, nếu thêm cả ngũ hành âm dương, có thể ghi thời gian chuẩn xác đến từng phút. Dựa vào lý luận đó, các trưởng lão đã xem kỹ lại toàn bộ tấm bản đồ, phát hiện những đường nét như mạng nhện ấy, từ trên xuống dưới theo thời gian tăng dần, hai nét cách nhau khoảng từ hai đến bốn tiếng đồng hồ. Còn nhóm hình vẽ tương đối tinh tế sắc nét kia lại hoàn toàn không ăn nhập gì với lý luận về thời gian này cả, rất nhiều hình vẽ thậm chí còn chẳng hề có ý nghĩa gì, rất có thể là một loại tranh trừu tượng, hiện giờ các trưởng lão vẫn đang tiếp tụcnghiên cứu. Dựa trên nghiên cứu về tấm bản đồ này, các trưởng lão cho rằng, hoa văn phía sau tấm gương chắc cũng hàm chứa một điều gì đó chứ không phảikhông hề có ý nghĩa như chúng ta đoán lúc đầu. Sau khi nghiên cứu bản rập mặt sau tấm gương, cuối cùng họ đã tìm ra được cửa đột phá, nhưng chúng tôi cần lại tấm gương ấy.”

Giáo sư Phương Tân nghĩ ngợi giây lát, rồi nói: “Được, ngày mai tôi sẽ gửi tấm gương về.” Ông lại quay sang phía chiếc camera còn lại: “Ngại quá, làm phiền anh rồi, Truyền Hùng.”

Tiến sĩ Bác nói: “Đâu có, tôi còn chưa giúp được gì mà. Anh Phương à, bao nhiêu năm nay anh đã mấy lần vào Tây Tạng tìm chó, không ngờ lại tìm được một món bảo bối lớn đấy nhé.”

Giáo sư Phương Tân cười: “Già rồi, lần này chỉ là giúp đám người trẻ tuổi đây làm công tác hậu cần thôi, thế giới xa xăm bí ẩn kia, giờ là của đám người trẻ tuổi ấy rồi.”

Trương Lập và Nhạc Dương thì đã bắt đầu vây lấy đội trưởng Hồ Dương hỏi han đủ thứ: “Đội trưởng Hồ Dương, anh và pháp sư Á La đã đến Guatemala rồi à?”

“Ở Congo có phải cũng có nhiều bộ lạc ăn thịt người lắm không? Hai người có gặp họ không?” “Linh kiện làm quả cầu thu hút ấy mua ở đâu thế?” Đội trưởng râu xồm ung dung đốt một điếu thuốc, chậm rãi nói: “Chuyện này à, nói ra dài lắm…”

Đội trưởng Hồ Dương bắt đầu kể lại hành trình đi qua các nước trên thế giới của họ, làm Đường Mẫn nghe mà trợn tròn hết cả mắt lên, Trương Lập và Nhạc Dương thì ảo não vì không được tham gia vụ mua bán lần này.

Trác Mộc Cường Ba lại chỉ vào tấm bản đồ hỏi pháp sư Á La: “Pháp sư, thế còn cái này là chỉ gì vậy?” Chỗ gã chỉ tay vào, là một nhóm ký hiệu kỳ lạ ở ngoài rìa, chỉ do nét thẳng và nét ngang tổ hợp lại mà thành. Trên đầu là nét thẳng, kế đó là nét ngang, rồi lại là nét thẳng. Trên tấm bản đồ da sói giả cũng có những ký hiệu tương tự như vậy, duy chỉ có số lượng nét thẳng và nét ngang là có chút khác biệt mà thôi. Hình vẽ trên hai tấm bản đồ đều là hình chữ nhật, thoạt nhìn giống như ấn chương thời cổ đại vậy.

Pháp sư Á La nói: “À, ký hiệu này có lẽ là tiêu ký để người xưa phân biệt thật giả, trong giáo có vị trí giả đã từng nhìn thấy hình vẽ gần giống vậy trong kinh văn, trước mắt vẫn đang tra tìm lại, tin rằng không lâu sau là sẽ có kết quả thôi.” Ngày hôm sau, tấm gương đồng đã được gửi về chỗ giáo sư Phương Tân. Pháp sư Á La nói: “Giáo sư, phiền ông làm cho tấm gương này chiếu ra hình ảnh trước đã.”

Giáo sư Phương Tân gật đầu nói: “Được.” Tấm gương đồng liền được đặt lên một bệ bằng kim loại, trên bệ có hai cái vòng, vòng trong kẹp vào gương đồng, để chiếc gương có thể xoay ba trăm sáu mươi độ theo hướng trên dưới, vòng trong có thể xoay chuyển ba trăm sáu mươi độ theo phương trái phải bên trong vòng ngoài, bệ kim loại đồng thời cũng di chuyển được từ trước ra sau, từ sau ra trước. Sau khi cắm điện, tấm gương đồng bắt đầu chầm chậm xoay, một chùm tia sáng đỏ từ góc tường bắn ra, phủ lên mặt gương, góc độ và phương vị không ngừng được chỉnh, một lát sau đã vào được vị trí tốt nhất, trên mặt tường liền xuất hiện một hình bóng mờ mờ màu đỏ nhạt.

Bạn đang đọc Mật Mã Tây Tạng của Hà Mã
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 72

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.