Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

HITLER LẦN ĐẦU TIÊN PHÁI NGƯỜI VÀO ĐẤT TÂY TẠNG

Phiên bản Dịch · 22344 chữ

CHƯƠNG 42:

HITLER LẦN ĐẦU TIÊN PHÁI NGƯỜI VÀO ĐẤT TÂY TẠNG

Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Không sai, tiểu đội Seifert chỉ là danh nghĩa, nhiệm vụ của bọn họ chính là che giấu mục đích thực sự của Đức Quốc xã khi cho người xâm nhập Tây Tạng. Cùng với năm người này vào Tây Tạng, còn tám thành viên khác, đây chính là nguyên nhân các bức ảnh không thể chụp đầy đủ. Làm như vậy là để đảm bảo rằng, tám người cùng đến Tây Tạng với bọn họ triệt để vô hình trên bất cứ tài liệu nào. Hơn nữa, ngoài các tài liệu đã được giải mật mà cậu và Ba Tang mang ở Nga về, chúng ta không thể tra ra được bất cứ thông tin nào liên quan đến tám người này ở những kênh khác. Từ điểm này, có thể thấy đảng Quốc xã đã bảo mật về tám con người này đến mức độ nào, có thể nói họ là tám con người hoàn toàn không hề tồn tại trên đời này vậy. Tài liệu ở đây, cậu xem thử đi.”

Suy đoán về Merkin

Sự chú ý của Lữ Cánh Nam tập trung dồn lên người Nhạc Dương, chỉ thấy tay trái Nhạc Dương không ngừng vân vê mép tập tài liệu, lật từng trang, từng trang một. Đột nhiên, ánh mắt anh dừng lại trên tấm hình của Đạt Kiệt, tay trái đột nhiên bóp chặt lại, như chỉ sợ bị ai giật mất tập tài liệu. Lữ Cánh Nam thoáng động tâm, thầm nhủ: “Quả nhiên là hắn.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng mà, hắn dùng thủ đoạn thống trị bằng sắt và máu ấy để khống chế cả một đám liều mạng, không sợ đám thuộc hạ đó tạo phản hay sao?”

Lữ Cánh Nam tạm gạt tâm tư về Nhạc Dương sang một bên, đáp: “Đây chính là điểm lợi hại và đáng sợ của tên Merkin này, cũng có nghĩa là, thuộc hạ của hắn đều cho rằng, năng lực và tư duy của chúng đều còn xa mới bì kịp được ông chủ lớn Merkin của mình. Muốn tạo phản hắn, trừ phi phải mạnh hơn hắn, hoặc ít nhất cũng phải có năng lực tương đương. Tôi nghĩ, mới ban đầu chắc chắn cũng có kẻ liều mạng bạo loạn, nhưng đến giờ Merkin vẫn sống rất thoải mái.”

Lúc này, Nhạc Dương đã lên tiếng: “Giáo quan, số tài liệu này, tôi có thể…” “Không được.” Lữ Cánh Nam ngắt lời: “Tài liệu này tạm thời vẫn chưa thể tiết lộ ra ngoài. Cậu biết quy củ rồi đấy, khi nào xác định được danh sách đội viên mới cuối cùng, mới có thể cho họ biết tư liệu về đối phương được.” Nhạc Dương trầm ngâm không nói gì nữa, lại nghe Lữ Cánh Nam lên tiếng: “Cậu có thể ra ngoài được rồi. À phải, mời pháp sư Tháp Tây đến đây giúp tôi.”

Nhạc Dương để lại tập tài liệu, xoay người đi ra cửa, trong lòng không đau nhói thấu tâm can, mà ngược lại còn trào dâng lên niềm sung sướng khôn tả xiết. Một giọng nói vẳng lên từ tận sâu thẳm đáy lòng, cứ không ngừng vang vang mãi trong óc, mỗi lúc một to hơn: “Tìm thấy hắn rồi, tìm thấy hắn rồi, tìm thấy hắn rồi!…”

Đạt Kiệt; Nam, 33 tuổi, người Tạng ở Thanh Hải; Sở trường: ngụy trang, phá cạm bẫy, giải phẫu. Mỗi một chữ đều in sâu rõ ràng vào trong óc Nhạc Dương, cả bút tích viết tay, thể chữ thế nào, hết sức rõ rệt, như đã khắc sâu vào xương vào cốt anh rồi vậy.

Đợi Nhạc Dương ra ngoài, Lữ Cánh Nam mới nói với Trác Mộc Cường Ba: “Trong bản tài liệu này đã chỉ ra rất rõ ràng, cần phải chú ý đến một người tên là Max. Kẻ này không có bản lĩnh gì, nhưng lại rất được Merkin tin tưởng, thường xuyên đi theo bên cạnh hắn, người đồng chí làm gián điệp kia có nhắc nhở chúng ta, muốn lấy được nhiều thông tin về Merkin hơn nữa, có thể bắt đầu ra tay từ kẻ này.”

Trác Mộc Cường Ba “ồ” lên một tiếng, lật tìm trong tập tài liệu, nhưng Lữ Cánh Nam đã nói: “Trong này không có tài liệu về Max đâu, thân phận của hắn cũng bí mật như là Merkin vậy. Dựa vào các tài liệu khác để phân tích, có thể thấy tên này là kẻ nhát gan ngại chuyện, bản lĩnh chẳng có gì hơn người, sở trường nhất cũng không ngoài tài nịnh hót lấy lòng ông chủ, nhưng hắn lại là người ở bên cạnh Merkin được lâu nhất đó.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ra là vậy. Nhưng nếu thường xuyên ở bên cạnh Merkin, chẳng phải cả hành tung hắn ra sao chúng ta cũng không nắm bắt được, thế thì làm sao hạ thủ với hắn được đây? Ừm, đây không phải là…?” gã lại lật một trang tài liệu mới, bên trên không có ảnh, chỉ viết:Hồ Lang; Sở trường: tất cả kỹ xảo sinh tồn nơi hoang dã và khả năng chiến đấu; Tuổi: không rõ, nghi ngờ là kẻ xuất thân từ lính đặc chủng cao cấp.

Lữ Cánh Nam giải thích: “Đây là Hồ Lang, chính là thủ lĩnh của tổ chức Hồ Lang ở Khả Khả Tây Lý, người này cực kỳ khó tiếp cận, tính cảnh giác rất cao, vì vậy không có cách nào chụp lén hình y được. Đồng chí nằm vùng của chúng ta đặt ra nghi ngờ hắn xuất thân từ lính đặc chủng cao cấp, chứng tỏ một điều, anh ấy cho rằng con người này, ít nhất cũng phải có năng lực của một đội trưởng trong quân đoàn đặc chủng.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Hoang đường quá, có thực lực của bộ đội đặc chủng mà lại ở Khả Khả Tây Lý săn trộm hay sao, không thể nào.”

Lữ Cánh Nam nói: “Đương nhiên, đây chỉ là kết luận của người nằm vùng kia, dựa theo lý giải của cá nhân anh ấy về bộ đội đặc chủng mà thôi. Thực ra tên Hồ Lang này chưa chắc đã có thực lực như thế, cũng rất có khả năng hắn không phải là quân nhân nước ta, nói không chừng là đội viên của một quân đoàn đặc chủng nước ngoài nào đấy…” Nói tới đây, cô bỗng ngừng bặt lại, liền thấy Trác Mộc Cường Ba cũng đang trợn tròn đôi mắt thô lố nhìn mình. Hai người cùng lúc liên tưởng đến mấy câu Ba Tang nói trong cung điện băng…

“Hắn tên là Tây Mễ, cũng là một con nhện.” “Lần cuối cùng đó, hắn không đi.” Trác Mộc Cường Ba còn nghĩ nhiều hơn nữa. “Hừ hừ, đáng tiếc thay, một đám lính đặc chủng lại suy bại đến mức phải sống bằng nghề săn trộm…” Một hồi lâu sau, Trác Mộc Cường Ba mới lẩm bẩm nói: “Thế này thì trùng hợp quá, khả năng là rất nhỏ.” Lữ Cánh Nam nói: “Nhưng dù sao vẫn có khả năng này, phải không?”

Trác Mộc Cường Ba vẫn còn muốn nói thêm, Lữ CánhNam đã chặn lại: “Chuyện này ngừng ở đây, tạm thời chớ nên nói cho họ biết. Anh có thể cầm về nghiên cứu, dựa trên sở trường của đối thủ, đưa ra suy nghĩ của mình, xem có thể giúp ích gì cho đợt huấn luyện mang tính định hướng cho các thành viên mới hay không. Dẫu sao chúng ta cũng phải nói hết chân tướng cho những người qua được khảo hạch cuối cùng, để họ biết được đối thủ cạnh tranh của mình là người như thế nào. Giờ tôi còn chuyện khác muốn nói với anh. Nghe giáo sư Phương Tân kể, lúc anh nằm viện ở Thượng Hải, có một người thần bí đến tìm anh, hy vọng anh tiết lộ những đầu mối chúng ta tìm được trong hai năm vừa qua. Mới rồi anh sang Nga cũng gặp lại người này, hơn nữa còn đụng rất nhiều thế lực không rõ thân phận nữa, đúng không?”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu, đây cũng chính là thông tin mà gã rất muốn biết.

Lữ Cánh Nam cầm một tập tài liệu khác lên, nói: “Ban đầu, chúng tôi vốn cho rằng công tác bảo mật của chúng ta đã làm rất tốt, chắc là sẽ không xảy ra xung đột với các tổ chức quốc tế, vì vậy cũng không cần thiết phải chỉ mặt điểm tên từng tổ chức một cho mọi người làm gì. Nhưng, lần này không biết là người nào trong nhóm huấn luyện đặc biệt, vì nguyên nhân gì đó mà đã để lộ những việc chúng ta đang làm ra ngoài, khiến cho bọn họ để ý tới rồi. Đây là tài liệu về một số tổ chức nước ngoài chúng ta thu thập được cho đến lúc này.”

Trác Mộc Cường Ba cầm tập tài liệu, nói: “Lần này không phải là đã tìm rất nhiều thành viên mới hay sao, muốn người ta gia nhập, cũng phải cho người ta biết chút gì đó chứ? Có lẽ chính vì vậy nên mới thu hút sự chú ý của các tổ chức nước ngoài kia thôi. Chắc không phải tiết lộ ra vì mục đích nào đó đâu?”

Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Không, tôi đã phân tích rất kỹ lưỡng thái độ và thời điểm tên béo đó đến tìm anh, hắn ta có vẻ khẳng định rất chắc chắn về những việc anh từng trải qua. Những tổ chức nước ngoài ấy cũng không phải mấy ngọn đèn cạn dầu đâu, nếu chỉ là tin đồn vỉa hè, thậm chí còn chẳng thể khiến bọn họ hứng thú nữa là. Tôi có thể khẳng định với anh rằng, người làm rò rỉ tin tức, nhất định ở trong nhóm của chúng ta, nhất định là một thành viên nào đấy đã từng vào sinh ra tử với chúng ta.”

Trác Mộc Cường Ba tay trái cầm tập tài liệu vỗ vào bàn tay phải: “Nói như cô, đó lại là tên thủ hạ của Merkin mà trước giờ cô vẫn cho rằng hắn tiềm phục ở trong đội chúng ta phải không? Vậy lần này là do Merkin lệnh cho hắn làm rò rỉ tin tức hay sao? Hay là, hắn lại đổi chủ mới, muốn tìm người mua?” Gã đột nhiên cảm thấy lồng ngực tắc nghẹn, khó chịu vô cùng, dường như lời của Lữ Cánh Nam đã chạm đến yếu huyệt chí mạng nào đó, nhưng nhất thời cũng không thể nghĩ ra được cô nói có điểm nào không đúng, chỉ là cảm thấy Lữ Cánh Nam nói như vậy, khiến gã tổn thương rất lớn.

Lữ Cánh Nam nói: “Chuyện này, cũng chưa thể nói chắc được, có lẽ vẫn còn khả năng khác…”

Trác Mộc Cường Ba đột nhiên cao giọng lên: “Hừ, đúng rồi, còn một khả năng nữa, đó là trong đội của chúng ta lại có thêm một tên phản bội, hắn ta làm việc cho một thế lực khác nữa! Ha! Giáo quan của tôi ơi, nhóm của chúng ta tổng cộng có bao nhiêu người nào? Đếm được trên đầu ngón tay đấy, hôm nay cô nghi ngờ người này, ngày mai lại nghi ngờ người khác, cứ như vậy thì còn ý nghĩa gì nữa chứ?”

Lữ Cánh Nam biết, mình lại chạm đến chủ đề Trác Mộc Cường Ba khó chịu nhất, tiếp tục nói nữa chắc chắn sẽ khó tránh khỏi một trận tranh cãi nảy lửa. Thấy gã đang giận dữ đùng đùng lật giở tập tài liệu, cô đành nói lảng sang chuyện khác: “Ừm, cái người đến tìm anh nói tổ chức của bọn hắn đứng vào hàng Top 10 trong các tổ chức đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu trên toàn thế giới, nhưng theo thống kê của chúng tôi, cả thế giới, chỉ có bảy tổ chức lớn, có thực lực thật sự mà thôi. Những tổ chức này lần lượt ẩn mình ở Đức, Pháp, Mỹ, Nga, Nhật Bản, Ý vàIsrael.”

“Ừm.” Trác Mộc Cường Ba biết, Lữ Cánh Nam đã nhượng bộ mình, cảm giác giận dữ bất chợt dâng lên trong lòng ấy cũng từ từ xẹp xuống, tan biến đi. Gã bình tĩnh xem lướt qua tập tài liệu, tiện thể hỏi luôn: “Vậy Merkin thuộc về tổ chứcnào?” Lữ Cánh Nam nói: “Merkin không thuộc về tổ chức nào hết, hắn ta đột nhiên xuất hiện.”

Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu lên nhìn Lữ Cánh Nam, câu nói này của cô có thể giải thích theo hai cách, một là trước đây Merkin không hề biết đến Bạc Ba La thần miếu, gần đây, hắn ta mới đột nhiên hứng thú với nơi này; hai là Merkin trước giờ vẫn luôn theo đuổi tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, nhưng nguồn cung cấp thông tin của Lữ Cánh Nam lại không thể điều tra ra được.

Gã căn vặn: “Không thể nào chứ, tên Merkin này không phải chỉ dùng hai chữ ‘lợi hại’ mà có thể hình dung. Hắn chỉ đi một vòng quanh khu vực Đông Nam Á mà đã khiến cấp trên cao độ trọng thị, còn phái cả nhân viên đặc công ngầm bên cạnh nữa. Vậy mà, hắn bắt đầu hứng thú với Bạc Ba La thần miếu từ khi nào, tại sao lại tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, chẳng lẽ… chẳng lẽ… không có bất cứ tư liệu nào hay sao?”

Lữ Cánh Nam xòe tay ra, lắc đầu, tỏ vẻ chính cô cũng không biết. Chợt bên ngoài có tiếng người vang lên: “Vấn đề này, để tôi trả lời cho cậu, Cường Ba thiếu gia.”

Hai người ngoảnh đầu lại, hóa ra pháp sư Tháp Tây đã đứng ở trước cửa. Lữ Cánh Nam đứng dậy nói: “Pháp sư Tháp Tây, ngài đến rồi.”

Pháp sư Tháp Tây ra hiệu cho Lữ Cánh Nam ngồi xuống. Không kịp thấy pháp sư làm động tác gì, tập tài liệu Trác Mộc Cường Ba đang đọc bỗng đã xuất hiện trên tay ông rồi. Pháp sư Tháp Tây mỉm cười nói: “Tài liệu này là thống kê của phía chính phủ, những tổ chức được nêu trong này toàn bộ đều lộ mình ra ánh sáng, cho dù được liệt vào bảy tổ chức hàng đầu, chỉ cần điều tra cẩn thận là tra ra được hết, hơn nữa một số tổ chức nhỏ trong đây đã giải tán từ nhiều năm trước rồi, xem cũng chẳng ích lợi gì.” Nói xong, ông nhẹ nhàng đặt tập tài liệu lên bàn Lữ Cánh Nam, kéo một chiếc ghế gỗ ngồi xuống đối diện với Trác Mộc Cường Ba, lại nói: “Đối với các tổ chức tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, chúng tôichia ra làm ba loại lớn, một là tổ chức bí mật thuộc Tây Tạng, hai là tổ chức bí mật bên ngoài, ba là những tổ chức theo sau Morton Stanley. Trước tiên là nói đến các tổ chức thuộc Tây Tạng, khái niệm này chỉ các đại gia tộc biết được ít nhiều sự việc đằng sau tấm màn bí mật sau khi Đạo quân Ánh sáng đột nhiên biến mất. Tuy họ không biết đến cái tên Bạc Ba La thần miếu, nhưng lại biết về những báu vật chất chứa trong Tứ Phương miếu và chiến tích vô địch của Đạo quân Ánh sáng. Mặc dù được biết tin tức Đạo quân Ánh sáng biến mất rất muộn, lại thông qua nhiều con đường khác nhau, nhưng ngay từ lúc họ có được thông tin, họ đã bắt đầu tìm kiếm dấu vết của Đạo quân Ánh sáng để lại và những địa điểmcó khả năng chôn giấu kho báu rồi. Về sau khi vương triều Thổ Phồn sụp đổ, trải qua chiến loạn nhiều năm, các gia tộc ấy nếu không bị tiêu diệt trong chiến tranh, thì cũng chuyển biến thành các tôn giáo nhỏ không lưu danh trong lịch sử. Tóm lại, có thể gọi họ là những người đi đầu trong công cuộc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Cho đến ngày nay, hầu hết bọn họ đã trở thành lịch sử, không còn tồn tại nữa. Nhưng xét một cách nghiêm khắc, chúng ta, và cả Cương Nhật Phổ Bạc mà cậu đã gặp, đều thuộc về loại này.”

Nghe tới đây, Trác Mộc Cường Ba liếc sang nhìn Lữ Cánh Nam, phát hiện thấy cô cũng đang lắng nghe rất chăm chú.

Pháp sư Tháp Tây tiếp lời: “Còn các tổ chức bí mật bên ngoài, gọi tắt là ‘ngoại bí’. Sự xuất hiện của bọn họ hết sức kỳ quái, đến giờ chúng ta không thể nào còn tìm được nguồn gốc của họ nữa, có điều nghĩ lại, đại khái chắc là do một số tổ chức nhỏ phân tán của Tây Tạng làm rò rỉ thông tin ra ngoài. Thời gian họ xuất hiện còn sớm hơn Morton Stanley nhiều, phải trước đó hai trăm năm, nhưng vì khoa học kỹ thuật bấy giờ không phát triển, đa phần đều chỉ như hoa quỳnh bừng nở trong đêm rồi biến mất, hiếm có tổ chức nào làm nên được trò trống gì. Tuy nhiên, bọn họ cũng là những tổ chức ẩn tàng sâu nhất, cơ hồkhông hề để lại chút dấu vết gì trong lịch sử. Đến cả chúng tôi, cũng chỉ mới nghe nói về sự tồn tại của bọn họ, có rất ít ghi chép bằng văn tự, thậm chí ngày nay, bọn họ vẫn còn tồn tại, nhưng phía chính quyền không hề nắm được bất cứ một chút thông tin nào về sự tồn tại này. Vì vậy, ‘ngoại bí’ mà chúng ta nói ở đây, là chỉ những tổ chức bí mật đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu mà tài liệu chính thức chưa thể thống kê được.”

Trác Mộc Cường Ba buột miệng: “Vậy thì, Merkin chính là…”

Pháp sư Tháp Tây ngắt lời gã: “Để tôi nói hết đã. Cuối cùng là các tổ chức theo sau Morton Stanley, kỳ thực cũng thuộc về ‘ngoại bí’ thôi. Có điều cái tay Morton Stanley này quả thực quá nổi tiếng, với điều kiện thiết bị thời đó, vậy mà ông ta có thể khai quật lên được bao nhiêu trân phẩm chôn giấu, xét trên cả chiều dài lịch sử khai quật kho tàng của Tây Tạng, có thể nói là một kỳ tích lớn. Đương nhiên, cũng rất đáng tiếc, bởi vì ông ta là người nước ngoài, nên những báu vật ông ta khai quật lên đều không thể giữ lại ở Tây Tạng của chúng ta, giống như kinh Phật Đôn Hoàng vậy, giờ đã tản mát đi khắp thế giới rồi. Nhưng mấu chốt không phải ở điểm này, mà là ông ta đã đem cái tên Bạc Ba La thần miếu này lưu truyền đi khắp nơi, đồng thời dùng những trải nghiệm của chính mình cũng như các báu vật khai quật được kích thích vô số tổ chức nước ngoài đến Tây Tạng tìm kho báu. Vì thế, thuở ban đầu, cụm từ ‘các tổ chức theo sau Morton Stanley’ dùng để chỉ những tổ chức hình thành thông qua sự tuyên truyền của Morton Stanley hoặc có liên quan đến con người này. Bởi vì họ sống trong thời đại công nghiệp hóa, nên rất nhiều tổ chức đã có thông tin xác thực và sử liệu để tra xét. Cho đến hôm nay, ‘các tổ chức theo sau Morton Stanley’, mà chúng ta nói, đã chuyển biến thành những tổ chức tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu chính thức có thể thống kê được.”

Trác Mộc Cường Ba “ồ” lên một tiếng, nói: “Cũng có nghĩa là, tất cả những tổ chức chúng ta biết được từ trước đến giờ, đều thuộc loại theo sau Morton Stanley này?”

Pháp sư Tháp Tây không khỏi bật cười, nói: “Chính xác hơn, trước mắt những gì mọi người biết đến, chỉ hạn hẹp ở một mình Morton Stanley mà thôi, không thể nói là đã hiểu biết về các tổ chức theo sau ông ta được, bằng không, khi một người trong số họ đến tìm cậu, cậu cũng đâu cần phải kinh ngạc đến thế.”

Trác Mộc Cường Ba thở dài một hơi, tự vấn bản thân, rốt cuộc, còn bao nhiêu bí mật mà gã hoàn toàn không hề hay biết như vậy nữa chứ? Gã lại không khỏi liếc sang phía Lữ Cánh Nam, nhưng cũng nhìn thấy nét mặt cô chẳng khác mình là bao nhiêu.

Pháp sư Tháp Tây mỉm cười nói: “Cậu không cần phải nhìn Cánh Nam. Cô ấy, và cả pháp sư Á La, cũng giống như tất cả mọi người trong đội của cậu, đều hoàn toàn không hề hay biết gì cả.” Thấy nụ cười gượng gạo trên mặt Trác Mộc Cường Ba, pháp sư Tháp Tây lại giải thích: “Cậu có biết rằng, dù là những tổ chức theo sau Morton Stanley ở ngoại vi nhất, bình thường nhất cũng đã tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu đến hai ba chục năm rồi, còn các cậu chẳng qua mới tiếp xúc với những gì liên quan đến Bạc Ba La thần miếu được hơn hai năm, vì vậy, không thể chuyện gì cũng biết hết được.”

Nói đoạn, pháp sư Tháp Tây quay sang nhìn Lữ Cánh Nam, nói: “Còn nhà nước chúng ta, mới thực sự chú ý đến Bạc Ba La thần miếu kể từ sau năm 19…, vì lúc đó có quá nhiều tổ chức trong dân gian ùn ùn kéo về đỉnh Chomolungma, nên mới khiến chính quyền lưu ý. Tuy rằng dự án khảo sát do nhà nước thành lập đã thu thập được một lượng tư liệu rất phong phú, nhưng dù sao cũng bắt đầu quá muộn, trong lịch sử nghìn năm mất tích của Bạc Ba La thần miếu, không thể còn lại quá nhiều thông tin bề mặt để họ tra xét được. Hiện giờ, các tài liệu mà nhà nước ta đang có trong tay, đại khái cũng không hơn kém gì nhiều so với một số tổ chức lớn thuộc nhóm các tổ chức theo sau Morton Stanley đâu.”

Nói tới đây, pháp sư Tháp Tây lại quay sang nhìn Trác Mộc Cường Ba: “Vì vậy, thành tích mọi người đạt được hôm nay, gần như đã có thể nói là một kỳ tích rồi. Dường như…” Pháp sư Tháp Tây hít sâu một hơi, nói tiếp: “Dường như đức Phật vạn năng trong cõi vô minh đang chỉ đường dẫn lối. Từ khi nửa quyểnCổ cách kim thưkia xuất hiện trên thế gian, rồi đến sự xuất hiện của Qua Ba tộc, sự xuất hiện của địa cung Maya, từng bước, từng bước đều đi vào nẻo chính. Và tấm bản đồ dẫn đến Cánh cửa Sinh mệnh và Đảo Huyền Không tự đoạt được của Merkin, càng khiến mọi người có những phát hiện xưa nay chưa từng có. Khi pháp sư Á La kể lại những gì mọi người đã trải qua, cả hội đồng trưởng lão thảy đều chấn động. Các vị trưởng lão đã nhất trí cho rằng, đây là lần tìm kiếm đưa chúng ta đến gần Bạc Ba La thần miếu nhất từ trước đến nay, vì vậy, đã phái tôi đến toàn lực trợ giúp mọi người.”

Vừa nghe thấy pháp sư Tháp Tây nói được hội đồng gì đó phái đến, Trác Mộc Cường Ba liền tỏ ra hết sức kính nể, thầm nhủ chức vị của pháp sư Tháp Tây trong tôn giáo của bọn họ nhất định phải cao lắm. Trong lòng nghĩ thế, gã liền hỏi luôn. Lữ Cánh Nam ở bên cạnh vội đánh mắt ra hiệu. Trác Mộc Cường Ba lúc ấy mới biết, nhất định là gã đã chạm đến vấn đề không nên hỏi.

Pháp sư Tháp Tây vẫn chỉ cười hiền: “Địa vị? Nói thế nào nhỉ, thực ra chúng tôi hoàn toàn không phải là một tôn giáo hoàn chỉnh, tất cả các Mật tu giả đều phân tán trong các giáo phái khác nhau, thậm chí trong đó còn có cả những người bình thường không có tôn giáo tín ngưỡng gì cả, chỉ tu hành một số thuật Du Già và phương pháp luyện khí. Cường Ba thiếu giamuốn hiểu rõ địa vị cao thấp của mỗi người e rằng hơi khó. Hơn nữa, thật đáng tiếc là, thân phận của tôi vốn không đủ để tham gia với mọi người đâu, chỉ vì Cường Ba thiếu gia đã trúng phải cổ độc, mà tôi vừa khéo lại biết một chút y thuật cổ xưa, các vị trưởng lão mới phái tôi đến thôi. Nếu nhất định muốn làm rõ địa vị của tôi, vậy… cứ coi như cỡ cỡ pháp sư Á La vậy.” Câu cuối cùng ấy, ông vừa nói vừa nhìn sang phía Lữ Cánh Nam. Lữ CánhNam liền lảng sang chủ đề khác: “Pháp sư Tháp Tây, phiền ngài cho chúng tôi biết thêm về tên Merkin đó với.” Trác Mộc Cường Ba cũng nói: “Đúng thế, vừa nãy nghe pháp sư nói vậy, chắc tên Merkin đó thuộc loại ‘ngoại bí’ rồi đúng không?”

“Đúng vậy,” pháp sư Tháp Tây nói: “Tên Merkin này, chính là một điển hình của ‘ngoại bí’. Trước khi xuất hiện, thân thế hắn là một dấu hỏi, sau khi xuất hiện, hành tung cũng hết sức ẩn mật, bất kể là dựa theo kênh nào, cũng rất khó thu thập được thông tin chuẩn xác về hắn. Thân thủ ấy, vốn liếng ấy, kiến thức ấy đều không thể một sớm một chiều mà có được, hắn cũng không phải vô duyên vô cớ mà tự dưng đi tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu đâu. Sau lưng con người này, ít nhất cũng phải có một gia tộc, hoặc là một tổ chức nào đó. Dựa trên những thông tin được pháp sư Á La đưa về, các vị trưởng lão nghiêng về hướng kẻ này thuộc về một tổ chức ngoại bí, tên gọi là 13 Hiệp Sĩ Bàn Tròn.”

“13 Hiệp sĩ Bàn Tròn?” Trác Mộc Cường Ba mới lần đầu tiên nghe thấy tên tổ chức ấy. Lữ Cánh Nam cũng giật thót mình. Tuy đã nghe pháp sư Á La nhắc đến tổ chức này, nhưng cô cũng rất xa lạ với nó. Nghe nói, cả các vị trưởng lão cũng không rõ thực lực của tổ chức này như thế nào.

Pháp sư Tháp Tây gật đầu: “Đúng vậy, tổ chức 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn này, thời điểm thành lập cụ thể không rõ là vào thời gian nào, nhưng tóm lại chắc là được thành lập sau Thế chiến II, và cũng chỉ bắt đầu hoạt động mạnh từ hai ba chục năm gần đây. Nhưng chúng lại là tổ chức ‘ngoại bí’ có thực lực mạnh nhất, bởi từ khi tổ chức này xuất hiện, những tổ chức bí mật khác thuộc loại này đều lần lượt biến mất. Theo suy đoán của các vị trưởng lão, có lẽ 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn đã tiêu diệt đối thủ cạnh tranh, đồng thời đoạt lấy các tư liệu trong tay đối phương. Trong tổ chức này, tất cả đều có kỹ năng thámhiểm chuyên nghiệp cực cao, chúng ta đã từng giao tranh mấy lần với chúng, có thắng có thua. Nhưng, những Mật tu giả từng tiếp xúc với đám người này kể rằng, mỗi người bọn họ đều có một hai sở trường đặc biệt, có kẻ sở trường chiến đấu tay không, cải tạo súng ống, vũ khí, cải trang giả dạng, lại có kẻ nắm rõ các loại cơ quan, cạm bẫy như lòng bàn tay, có người lại sở hữu y thuật cực kỳ cao siêu. Từng có vị tiền bối của chúng ta tìm được xác chết của đồng bọn bị chúng bỏ rơi lại trên đường chạy trốn, phát hiện ra đám người này còn có thể thực hiện phẫu thuật cấy ghép chi giữa vùng hoang dã.Ngoài ra còn một số kẻ nắm rõ giá cả thị trường của các loại cổ vật, mỗi lần trộm cắp, đều lấy đi những thứ giá trị cao nhất.”

Lữ Cánh Nam thần người, lẩm bẩm nói: “Không ngờ lại có một tổ chức như vậy? Sao chúng tôi hoàn toàn không hề hay biết về chúng nhỉ?”

Pháp sư Tháp Tây nói: “Nếu bọn chúng bị nhà nước để mắt đến, thì đã không gọi là ‘ngoại bí’ rồi. Hành tung của những người này hết sức bí mật, những Mật tu giả từng tiếp xúc nói rằng, mặc dù bọn chúng thống nhất dùng tiếng Anh trao đổi, nhưng khẩu âm mỗi người mỗi khác, vì vậy chúng tôi cho rằng, có khả năng các thành viên của tổ chức này đến từ nhiều nước khác nhau trên thế giới, chẳng những vậy, mỗi người đều có một thân phận xã hội làm vỏ bọc. Còn chuyện họ tiếp nhận huấn luyện ở đâu, rồi liên lạc với nhau như thế nào, đó đều là những câu đố chưa lời giải đáp. Có điều, theo những gì chúng tôi được biết, dường như biên giới giữa các nước hoàn toàn không hề tồn tại đối với đám người này. Bọn họ cũng không chỉ để mắt đến Bạc Ba La thần miếu, tất cả những nơi có khả năng xuất hiện lăng mộ lớn trên thế giới đều có đám người này thấp thoáng ẩn hiện, mỗi lần xuất hiện, đều là một nhóm mười ba người. Tôi phỏng đoán, danh xưng 13 Hiệp Sĩ Bàn Tròn hẳn cũng là từ đây mà ra.”

Gia tộc Bạc Ba La

“Phỏng đoán?” Trác Mộc Cường Ba thoáng sững người, rồi lập tức hiểu ngay, chức vị của pháp sư Tháp Tây quá thấp, ông cũng không có cách nào hiểu rõ được toàn bộ sự việc từ đầu chí cuối, hầu hết những gì ông biết đều là nghe các vị trưởng lão nói lại, còn những chuyện không biết, cũng chỉ còn cách phỏng đoán mà thôi. “Vậy thì, Merkin và 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn có quan hệ gì chứ?” Trác Mộc Cường Ba lại hỏi tiếp.

Pháp sư Tháp Tây nói: “Cậu không cảm thấy thân phận của Merkin và những thành viên khác của 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn rất giống nhau hay sao? Y đột nhiên xuất hiện, thân phận trước đó lại cực kỳ thần bí, hơn nữa còn có thân thủ cực cao cường, đã từng nghiên cứu tương đối về phương pháp tác chiến của bộ đội đặc chủng. Và quan trọng nhất là, từ lúc xuất hiện đến giờ, y vẫn ngấm ngầm làm nghề trộm báu vật trong các mộ cổ.”

Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi nói: “Cũng có khả năng ngẫu nhiên trùng hợp mà.”

Pháp sư Tháp Tây nói: “Còn một chuyện nữa, cậu nghe sẽ biết ngay. Từ khi xuất hiện trên cõi đời này, 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn lúc nào cũng hết sức hùng hổ, khí thế kinh người, thứ bọn chúng muốn là ắt phải giành cho bằng được, chưa từng có kẻ nào ngăn cản được bước chân chúng cả. Có điều, riêng đối với việc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn lại liên tiếp gặp trở ngại. Tổ chức này cũng tương đối tài giỏi, càng bị ngăn trở, càng thất bại càng mạnh mẽ, nếu lần nào bị tổn thất về người, chỉ hai ba năm sau là bọn họ lại có thể tập hợp đủ mười ba người, trở lại Tây Tạng lần nữa. Lần nào đám người này cũng hết sức hung hăng, đột nhiên xuất hiện, mà hễ rời khỏi Tây Tạng là biến mất tăm mất tích, chúng tôi đã giao thủ nhiều lần với chúng, nhưng từ đó đến giờ vẫn chưa tìm hiểu được nội tình bên trong tổ chức này như thế nào, quy mô của họ ra sao, căn cứ huấn luyện đặt ở đâu, cơ cấu và phân bố người ra sao, tất cả đều là những câu đố chưa lời giải đáp. Nhưng đại khái khoảng tám chín năm trước, tổ chức này dường như đã hoàn toàn từ bỏ tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, không thấy xuất hiện ở Tây Tạng nữa.”

“Tám chín năm trước…” Trác Mộc Cường Ba giật mình, “đó chẳng phải chính là…”

Pháp sư Tháp Tây tiếp lời: “Không sai, đó chính là khoảng thời gian Merkin đột nhiên xuất hiện. Cậu vẫn có thể nói đây là một sự trùng hợp, nhưng chớ quên rằng, bên cạnh Merkin còn có một người áo xám nữa, theo những gì pháp sư Á La báo về, rất có khả năng kẻ này là một thao thú sư. Mà trong 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn, vừa khéo cũng có một tên thao thú sư. Các Mật tu giả từng đụng độ với đám người đó, cũng có không ít người đã bị tên thao thú sư này cho nếm mùi thiệt thòi rồi. Nếu thân phận vỏ bọc ngoài xã hội của tên thao thú sư này là nhà động vật học Soares Kahn, thì lần đầu tiên y công bố luận văn làm cả giới học thuật chấn động, cũng vào khoảng tám chín năm về trước. Trước thời gian ấy, y chỉ là một nghiên cứu viên tầm thường không hề nổi bật, thậm chí có thể nói rằng, chẳng ai biết y đang làm gì nữa.”

Trác Mộc Cường Ba ngập ngừng nói: “Chuyện này…”

Pháp sư Tháp Tây lại tiếp lời: “Chúng tôi cũng cảm thấy hết sức kỳ quái, rốt cuộc trong nội bộ tổ chức 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn này đã xảy ra chuyện gì, tại sao chúng lại đột nhiên từ bỏ Bạc Ba La thần miếu? Mãi đến khi mọi người từ châu Mỹ trở về, chúng tôi mới có một kết luận giả định.”

“Kết luận giả định?” Trác Mộc Cường Ba lại thấy mơ hồ khó hiểu, gã lục lọi trong trí nhớ, cố nhớ trong rừng rậm châu Mỹ bọn gã đã gặp phải những gì? Điều đầu tiên lóe lên trong đầu gã, lại là lời cảnh cáo của Babatou, “kẻ địch không nhìn thấy mới là đáng sợ nhất”, cùng với đó, gã bắt đầu nhớ đến Babatou, đến làng của người Kukuer, đàn ong sát nhân, trận lũ, Bạch thành, nhưng những thứ đó, dường như chẳng hề có liên quan gì đến 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn và Merkin cả, sao có thể xếp chung vào với nhau được chứ? Gã tập trung tinh lực, chăm chú lắng nghe pháp sư Tháp Tây nói tiếp.

Nhưng những lời pháp sư nói tiếp sau đó, lập tức khiến Trác Mộc Cường Ba nhớ đến nhiều chuyện hơn nữa, đồng thời cũng bừng tỉnh ngộ. “Khi cuối cùng mọi người cũng đến địa cung Ahezt, tất cả châu báu trong đó đã biến mất, hơn nữa trên cánh cửa đá cuối cùng, có bảy lỗ khóa thì năm lỗ đã có chìa, điều này chứng tỏ rằng địa cung đã từng bị bọn trộm ‘ghé thăm’, có phải không? Trong đó có rất nhiều cơ quan, nghe nói đám quân du kích vào đó hầu như là chết sạch cả, bản thân cậu cũng từng đi qua đó, chắc hẳn cũng có cảm ngộ sâu sắc chứ, phải vậy không? Thế nhưng, cùng lúc đó, người áo xám bên cạnh Merkin lại có thể tìm ra trung tâm của địa cung một cách hết sức chuẩn xác, hơn nữa lại còn biết cách sử dụng chìa khóa mở cánh cửa cuối cùng ấy ra, tất cả những điều đó đều chứng tỏ một điều rằng, y đã từng đến đó rồi. Thậm chí y còn rất chắc chắn rằng, đằng sau cánh cửa cuối cùng vẫn chưa được mở ra ấy có thứ y muốn tìm.”

Thấy Trác Mộc Cường Ba mở miệng muốn nói gì đó, nhưng pháp sư Tháp Tây vẫn không ngừng lại: “Hơn nữa, người nô lệ được pháp sư Á La cứu ra khỏi bộ lạc ăn thịt người đã chứng thực thêm cho suy đoán của chúng tôi. Khoảng tám chín năm trước, y và mười hai người khác trong đội đã vượt qua trùng trùng hiểm nguy, tiến vào tòa địa cung nguy hiểm đó, nhưng những nguy cơ trong rừng sâu còn đáng sợ hơn nhiều so với những gì bọn y tưởng tượng, còn chưa đến được địa cung đã tổn thất mất mấy người. Bởi vậy, khi liên hệ tất cả các sự việc với nhau thì đã rất rõ ràng, không hiểu từ đâu mà 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn biết được thông tin rằng đầu mối để tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu có khả năng xuất hiện ở Nam Mỹ,vì vậy chúng mới vội vã rời khỏi Tây Tạng, tìm đến địa cung của người Maya. Kết quả là, lần đó bọn chúng đã tổn thất cực kỳ nặng nề, rất có khả năng là chỉ còn hai người Merkin và Soares sống sót, hơn nữa rốt cuộc bọn chúng cũng không mở được cánh cửa đá cuối cùng. Lần hành động đó, chắc chắn đã cho bọn chúng một bài học đau đớn nhớ đời, đồng thời cũng khiến tổ chức đó không thể nào hồi phục trong cả một thời gian dài. Mãi cho đến hai năm trước, Merkin mới tự đứng lên, lại bắt đầu tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, chỉ có điều, lần này đồng bọn của hắn không còn mười ba người nữa, mà chỉ còn có một người duy nhất.”

Những câu hỏi Trác Mộc Cường Ba đã sắp xếp sẵn trong óc giờ đã bị làm cho nháo nhào hết cả lên. Gã đành nhìn chằm chằm vào Lữ Cánh Nam, ánh mắt nghi hoặc rõ ràng như đang hỏi: “Chuyện này, sao tôi không biết gì cả vậy?”

Nét mặt Lữ Cánh Nam tỏ vẻ xin lỗi, như cười mà không phải cười.Pháp sư Tháp Tây lại nói: “Sự tình là như vậy đấy, cậu còn điều gì muốn hỏi nữa không, Cường Ba thiếu gia?”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Nếu nói như vậy, Merkin là một trong 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn, trong tay hắn chắc phải có rất nhiều tư liệu về Bạc Ba La thần miếu mới đúng, tại sao hắn lại để ý đến tôi? Trong mắt hắn, lẽ ra tôi phải là một kẻ vô danh tiểu tốt, nhỏ nhoi đến mức không đáng để mắt mới phải chứ?”

Pháp sư Tháp Tây nói: “Trước mắt chúng tôi chỉ có thể cho rằng, có lẽ người Qua Ba ở Mông Hà đã gắn liền hai người với nhau. Hoặc giả, khi cậu tiếp xúc với người điên ở Mông Hà, Merkin đã ngấm ngầm phát hiện ra. Theo tư liệu chúng tôi có được, Merkin là một kẻ rất đa nghi, nhất định hắn muốn làm cho rõ, tại sao cậu lại đi tìm người điên ở Mông Hà đó, vì vậy mới theo dõi điều tra cậu. Hơn nữa trong cuộc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu này, tổ chức 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn đã chịu tổn thất quá lớn, bọn chúng chắc chắn sẽ không chịu bỏ qua bất cứ đầu mối nào có liên quan đến thần miếu đâu.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi vẫn muốn hỏi, tại sao hắn lại tìm được người Qua Ba ở Mông Hà đó chứ?” Các ý nghĩ không ngừng xoay chuyển trong đầu, nhưng trước sau gã vẫn không thể lần ra một đầu mối rõ ràng. Những lời của pháp sư Tháp Tây tuy bề ngoài có vẻ rất thông tình đạt lý, nhưng lại có rất nhiều chi tiết không thể không cân nhắc. Chuyện này thoạt nghe cứ như câu chuyện bịa vậy, hơn thế nữa, có rất nhiều điểm khiến gã không khỏi nghi ngờ. Có thể Merkin đúng là thành viên của 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn thật, nhưng tại sao hắn phải tìm gã làm gì? Từ khi ở Khả Khả Tây Lý hắn đã bắt đầu lùng theo gã, nhưng lúc đó chẳng phải gã thậm chí còn chưa nghe thấy ba chữ “Bạc Ba La” bao giờ hay sao? Nghĩ tới đây, Trác Mộc Cường Ba thầm cười khổ một tiếng, rồi lại thở dài, khi gã tưởng mình đã nắm được rất nhiều tư liệu rồi, bỗng nhiên lại phát hiện ra, những thứ đó chỉ là một phần rất nhỏ, nhỏ đến không thể nào nhỏ hơn được nữa, rốt cuộc Bạc Ba La thần miếu kia còn ẩn chứa bao nhiêu điều bí mật nữa đây?

Đúng lúc Trác Mộc Cường Ba bắt đầu tin rằng Merkin là một trong 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn, điện thoại di động của Lữ Cánh Nam chợt đổ chuông. Cô bắt máy rồi nói với Trác Mộc Cường Ba và pháp sư Tháp Tây: “Giáo sư ở trên mạng, bảo bật máy tính lên, ông có thứ này muốn cho chúng ta xem.” Nói rồi, cô với tay bật máy tính.

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, hỏi: “Ở đây cũng có mạng không dây à?” Lữ Cánh Nam chỉ tay sang căn phòng bên cạnh: “Chúng tôi lắp hệ thống khuếch đại tín hiệu, chỉ cần nằm trong tầm che phủ của vệ tinh là có mà.”

Hệ thống webcam kết nối xong, giáo sư Phương Tân hỏi: “Cường Ba đến rồi hả?” Thấy Trác Mộc Cường Ba đứng một bên, ông liền cầm tập tài liệu lên nói: “Đây là tài liệu các cậu mang từ Nga về, mọi người xem cái này đi.” Trên màn hình máy tính xuất hiện một vật trông như bức thư, chữ viết tay, văn tự đều là chữ cái Latin, nhưng Trác Mộc Cường Ba không đọc được. Lữ Cánh Nam cũng không biết thứ tiếng này, liền hỏi: “Đây là tiếng nước nào vậy?” Lúc này, Trác Mộc Cường Ba bỗng trông thấy tên người viết thư ở phía dưới. Nhóm ký hiệu cuối cùng đó trông hết sức quen mắt, gã lập tức có phản ứng, tên của Merkin, ký hiệu này chính là biểu thị tên của Merkin.

Giáo sư Phương Tân nói: “Tiếng Bồ Đào Nha, tôi đã nhờ người dịch ra rồi, bản dịch đây. Bức thư này được viết từ thế kỷ mười bảy, do một nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha tên là Marcus Merkin viết cho một giáo sĩ Tây Ban Nha tên là Palacio Stanley.”

Trên máy tính xuất hiện bản dịch, mấy đoạn đầu đều là hỏi han xã giao và thảo luận về tôn giáo, từ đoạn thứ tư trở đi được giáo sư đánh dấu bằng bút đỏ, nội dung là người tên Merkin ở thế kỷ mười bảy kia hỏi về bản thảo viết tay của ông ngoại Palacio. Trong thư, Merkin nói, ông ta biết ông ngoại của Palacio đã từng đi Maya, đồng thời còn đọc rất nhiều thư tịch của họ, mong được xem thứ văn tự Maya đã được ông ngoại của Palacio giải dịch, và hỏi dò xem trong các ghi chép của người Maya có nhắc đến một nơi nào gọi là Bạc Ba La hay không. Bên cạnh bức thư còn có chú thích riêng của các chuyên gia, ghi rằng dịch âm có thể đọc là“mubala”hoặc“shamubala”.

Căn phòng xây bằng đá tĩnh lặng như tờ, không khí toát lên một vẻ kỳ dị khó tả, cả ba người nhìn chằm chằm vào bức thư đã được dịch ra trên màn hình máy tính, suốt một lúc lâu, không ai cất tiếng nói gì cả. Trác Mộc Cường Ba đọc đi đọc lại ba lần, xác định không bỏ sót một chữ nào, mới dè dặt lên tiếng: “Merkin này, và Merkin kia…”

Giáo sư Phương Tân mỉm cười nói: “Tôi xem nội dung bức thư trước, rồi sau mới chú ý đến cái tên này, không chỉ có Merkin thôi đâu, cậu nhìn rõ đi, đây là thư Merkin gửi cho Stanley, nếu cậu vẫn chưa chú ý, để tôi nhắc cho cậu nhé, chúng ta còn có một nhà thám hiểm tên là Morton Stanley đấy.” Cặp mắt vốn đã trợn tròn lên của Trác Mộc Cường Ba lại càng trợn to hơn nữa.

Giáo sư Phương Tân tiếp tục nói: “Sau khi phát hiện ra điểm này, tôi liền lập tức dùng máy tính tìm kiếm trong tất cả tài liệu mà cậu và Ba Tang đi Nga mang về những tổ hợp chữ cái tương tự, thì thấy cái tên Merkin này còn xuất hiện ở một nơi khác nữa. Trong một văn kiện khác, quân Đức có phái một nhân viên điệp báo quốc tịch nước ngoài tên là Hector Merkin đến tiềm phục tại Công viên Bletchley[13], nhưng sau khi thâm nhập vào đó thành công liền mất liên lạc. Văn kiện này là do tuyến trên của điệp viên mật ấy gửi đi cho cấp trên của họ, báo cáo rằng Hector Merkin rất có thể là gián điệp haimang. Sau đó không lâu, quân Đồng minh phá giải được mật mã Enigma của Đức. Thông qua một số nguồn khác nhau, tôi tìm hiểu được, người tên Hector Merkin ấy đã từng làm việc chung một tổ với Alan Turing, tham gia phá giải mật mã của quân Đức, nhưng khi Thế chiến II kết thúc, quân Mỹ lại che giấu thông tin về thân phận của người này. Về sau Liên Xô đã từng thử tìm kiếm người tên Merkin đó, nhưng cuối cùng cũng không có kết quả gì. Tuy nhiên, dựa theo hồi ức của một thành viên trong tổ phá giải mật mã ấy, tay Merkin này có giọng Bồ Đào Nha rất nặng. Còn Stanley thì ngoài Morton Stanley sau này ra, không phát hiện ra người nào khác nữa. Tôi cũng không biết đây rốt cuộc có phải trùng hợp hay không, vì vậy mới lập tức báo với mọi người ngay.”

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại, nhìn Lữ CánhNam và pháp sư Tháp Tây, hỏi: “Đây, đây rốt cuộc là như thế nào?”

Gương mặt Lữ Cánh Nam không để lộ ra cảm xúc gì, nói như lẩm bẩm một mình: “Chắc không phải là trùng hợp, tuy Merkin trước sau đã có quốc tịch ba nước Mỹ, Anh, Pháp, nhưng quốc tịch gốc của hắn là ở Bồ Đào Nha, đây là thông tin chính xác đã được điều tra xác minh hết sức cẩn thận.”

Thần sắc pháp sư Tháp Tây lại phức tạp lạ thường, hồi lâu sau, mới thở dài cất tiếng: “Nói như vậy, hóa ra những suy đoán trước đây của chúng ta về Merkin là sai rồi? Không ngờ hắn lại là người của gia tộc Bạc Ba La!” “Gia tộc Bạc Ba La!” Trác Mộc Cường Ba, Lữ Cánh Nam và cả giáo sư Phương Tân trong máy tính cùng lúc thốt lên.

Pháp sư Tháp Tây nói: “Đúng thế, gia tộc Bạc Ba La, có thể nói là tổ chức ‘ngoại bí’ xuất hiện tương đối sớm, trong các tư liệu xưa cũng có nhắc đến một chút. Gia tộc này xuất hiện vào khoảng năm 1700. Vì thời bấy giờ ở Tây Tạng rất hiếm người nước ngoài tóc vàng mắt xanh, nên trong các thư tịch cổ mới có ghi chép về gia tộc này. Từ lúc xuất hiện ở Tây Tạng, những người này đã tuyên bố Bạc Ba La thần miếu là sản nghiệp của gia tộc nhà họ, họ đến Tây Tạng là để thu hồi tài sản. Gia tộc này xuất hiện còn sớm hơn cả Morton Stanley, nhưng họ đã đưa ra ba chữ ‘Bạc Ba La’ trùng khớp với cách gọi Bạc Ba La thần miếu trong sử thi Cát Đức Ni Mã Cổn. Có điều, dựa theo những ghi chép trong sách cổ, thành viên trong gia tộc này tự xưng là họ ‘Mục’ mới đúng.”

“Họ người nước ngoài thường ở phía sau, Mục hay Merkin chắc chỉ là vấn đề dịch âm thôi.” Giáo sư Phương Tân nói: “Có còn tư liệu gì khác về gia tộc này nữa không, pháp sư?”

Pháp sư Tháp Tây đáp: “Cũng không nhiều lắm, mới đầu gia tộc này còn xuất hiện tương đối nhiều. Đại khái cứ cách khoảng hai ba chục năm lại có một người tự xưng là thành viên gia tộc này đến Tây Tạng, nhưng về sau họ cũng dần dần biến mất. Trước khi Morton Stanley xuất hiện, bọn họ đã hoàn toàn không còn tăm tích gì nữa rồi. Nhưng còn lá thư này, lẽ nào từ thời đó, gia tộc này đã biết có đầu mối liên quan đến Bạc Ba La thần miếu bị đưa sang châu Mỹ rồi hay sao? Làm sao họ biết được? Không lẽ gia tộc họ và Bạc Ba La thần miếu thật sự có mối quan hệ gì đó hay sao?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Xem ra, tôi còn phải đọc thêm một số tài liệu nữa. E rằng những sự việc và con người liên quan đến tòa thần miếu nghìn năm này đều vượt quá những gì chúng ta suy tính rồi.”

Sau khi giáo sư ngắt tín hiệu, Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam vẫn nhìn chằm chằm vào bức thư trên màn hình máy tính. Lúc đưa mắt nhìn nhau, cả hai người cùng lúc dâng trào một cảm giác, rằng đời người so với lịch sử, quả thực là quá ngắn ngủi.

Sau đó Lữ Cánh Nam và pháp sư Tháp Tây muốn bàn chuyện riêng, Trác Mộc Cường Ba ra ngoài trước, thậm chí gã còn không nhớ mình đã đi ra khỏi gian phòng đá ấy như thế nào, trong đầu đầy những dấu hỏi. 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn, gia tộc Bạc Ba La, những thông tin chưa từng biết đến bao giờ ấy cũng cần một thời gian mới tiêu hóa được hết, mà những vấn đề kéo theo đằng sau chúng cũng mỗi lúc một nhiều. Rốt cuộc Merkin là thành viên của 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn hay của gia tộc Bạc Ba La? 13 Hiệp sĩ Bàn Tròn đã tiêu vong thật chưa? Tại sao gia tộc Bạc Ba La kia lại tuyên bố rằng Bạc Ba La thần miếu là sản nghiệp của họ? Ban đầu, cứ cách hai ba chục năm lại có một người nước ngoài họ “Mục” đến Tây Tạng tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, cũng có nghĩa là, mỗi đời gia tộc Merkin đều có người đến Tây Tạng tìm kiếm, nhưng cuối cùng đều phải trở về không công, vậy về sau họ đã biến đi đâu mất? Làm sao họ biết được thông tin về Bạc Ba La thần miếu ở châu Mỹ? Những vấn đề này, Trác Mộc Cường Ba không hề có một chút đầu mối nào, càng không nói gì đến chuyện làm rõ quan hệ giữa chúng. Còn cả cảm giác tức giận khó hiểu đối với Lữ Cánh Nam lúc trước khi pháp sư Tháp Tây vào căn phòng đó nữa, tại sao gã lại đột nhiên tức giận như vậy nhỉ?

Trác Mộc Cường Ba vừa đi vừa nghĩ, tâm tư rối bời, định bụng bước thẳng ra ngoài hít thở chút không khí trong lành, đang ở chỗ ngoặt ra cửa thì đụng phải một người. Đúng lúc hai người va phải nhau, Trác Mộc Cường Ba sực nhớ, lần đầu tiên tên béo đến tìm gã, gã đang ở Thượng Hải, làm sao hắn biết được địa chỉ của gã cơ chứ? Sự thực thì người có thể nghĩ ra được gã có khả năng ở Thượng Hải, lại biết gã đang đi tìm Bạc Ba La thần miếu, e rằng chỉ có một mà thôi… Đó chính là thầy giáo của gã, giáo sư Phương Tân!

Trác Mộc Cường Ba hiểu ra tại sao mình lại đột nhiên phẫn nộ như vậy. Lữ Cánh Nam đã ngầm ám thị, trực tiếp chỉ đầu mũi giáo về phía người gã tôn kính nhất. Trác Mộc Cường Ba thầm mắng mình một tiếng: “Nếu ngay cả thầy giáo cũng bị nghi ngờ, chuyện tìm kiếm Tử kỳ lân thử hỏi còn ý nghĩa gì nữa, chi bằng giải tán cho sớm đi còn hơn!”

Những ý nghĩ ấy chỉ lóe lên trong óc gã rồi lập tức tan biến, Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng không nghĩ đến nó nữa. Thấy người đụng phải mình kia ngã bổ ngửa ra đất, gã vội đỡ anh ta dậy. Người ấy có gương mặt vuông vắn, chắc khoảng hơn ba mươi, nhưng dung mạo hơi già cỗi, tay cầm một quyển sách, vừa thấy Trác Mộc Cường Ba, liền lập tức nở một nụ cười rạng rỡ ánh nắng “kiểu Nhạc Dương”: “Ồ, Cường Ba thiếu gia, anh ra ngoài tản bộ hả?”

Trác Mộc Cường Ba đang nhoẻn miệng mỉm cười, nói: “Anh…” đột nhiên bỗng đờ người ra. Gã nhớ rất rõ, vừa mới lúc nãy Nhạc Dương đã giới thiệu anh chàng này với mình rồi, nhưng bây giờ gã lại không thể nào nhớ ra nổi anh ta tên là gì nữa. Nhớ lại hồi hai năm trước, trong đại hội thương nghiệp hơn trăm người, mình chỉ nghe một lượt đã có thể nhớ hết toàn bộ tên những người bạn xa lạ đó, nụ cười của Trác Mộc Cường Ba không khỏi cứng lại, thầm nhủ: “Già rồi, già thậtrồi.”

Anh chàng kia hoàn toàn không để ý, gấp cuốn sách vào, rồi tự giới thiệu lần nữa: “Tôi tên là Trương Kiến, do đội trưởng Hồ Dương giới thiệu đến đây.” Anh ta vốn muốn bắt tay với Trác Mộc Cường Ba, nhưng thấy gã không đưa tay ra, lại thoáng ngần ngừ.

Thành viên mới (1)

“Rất vui được biết anh,” Trác Mộc Cường Ba chìa tay ra nắm lấy tay Trương Kiến. Gã chú ý đến cuốn sách anh ta đang cầm, một cuốn sách bọc bìa da màu vàng, đề sáu chữSuối ngọt giữa lòng hoang mạc[14].

“Không ở chung với mọi người à?” Trác Mộc Cường Ba tiện miệng hỏi.

Trương Kiến đáp: “Tôi thích yên tĩnh, nên một mình ra ngoài đi dạo chút.”

“Vậy anh dẫn tôi đi quanh đây một vòng được không? Tôi cũng muốn xem xung quanh.” Trác Mộc Cường Ba nói. Trương Kiến gật đầu: “Được thôi.”

Hai người đi ra phía sau dãy nhà đá, vòng lên vách núi, qua khe sâu. Rừng sâu rậm rạp, suối nước róc rách âm vang, lũ chim sau một ngày kiếm ăn mệt mỏi đã trở về. Nghe những tiếng chim ríu rít ấy, Trác Mộc Cường Ba có cảm tưởng như ban mai đang chầm chậm thả bước trong công viên vậy, chỉ có điều thay vì ánh nắng sớm là ráng chiều hoàng hôn rực rỡ.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Anh xem sách gì thế?” Gã thấy dọc đường Trương Kiến cầm cuốn sách ấy hết sức cẩn thận. Trương Kiến giơ cuốn sách lên, đưa tới trước mặt Trác Mộc Cường Ba: “Giảng đạo…” nhưng rồi, hình như chợt nhớ ra Trác Mộc Cường Ba có thể không hiểu, liền đổi lại thành: “Một cuốn sách bồi dưỡng tâm linh.”

Trác Mộc Cường Ba đón lấy, lật qua phần giới thiệu và mục lục, đọc luôn vào trang đầu tiên, chỉ thấy viết: Ngày 1 tháng 1. Vùng đất các ngươi sẽ đến, là vùng đất có núi đồi, có thung lũng, có mưa thấm nhuần. Là vùng đất được Đức Jehovah chăm Vùng đất các ngươi sẽ đến, là vùng đất có núi đồi, có thung lũng, có mưa thấm nhuần. Là vùng đất được Đức Jehovah chăm. [15]

Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người, bỏ qua một đoạn, lại thấy viết:

Có thể chạy nhảy trên đất bằng, không nên đã xem là đủ, chúng ta nên gắng sức đạt tới đỉnh cao nhất. Trên đỉnh núi, hạt sương thật sáng trong biết bao, đẹp đẽ biết bao, không khí thật trong lành tươi mới, cư dân nhàn hạ thanh thản, chỉ cần đẩy cửa ra là có thể thấy Jerusalem.

Có bao nhiêu tín đồ cam tâm tình nguyện sống cuộc đời như những người thợ mỏ, quanh năm không thấy mặt trời. Trên gương mặt họ lẽ ra phải là niềm vui hân hoan, nhưng lại phải gạt đi hàng nước mắt. Họ lẽ ra phải được tản bộ trên cung điện xa hoa, thưởng thức cảnh đẹp của Lebanon, nhưng lại thỏa mãn với sự khô cằn trong lao ngục. Tỉnh lại đi, hỡi các tín đồ, rời khỏi đất bằng của các ngươi, hãy nỗ lực vươn lên cao! Hãy vứt bỏ sự mệt mỏi, lười nhác, lạnh giá, và tất cả những gì ngăn cản ngươi theo đuổi Christ. Hãy để Người làm ngọn nguồn, làm trung tâm của ngươi, hãy đặt Người lên địa vị cao hơn tất thảy vạn vật. Chớ nên thỏa mãn với những gì ngươi đang sở hữu. Hãy khát khao một cuộc sống cao quý hơn, giàu có hơn.

Hãy hướng đến mùa xuân! Hãy đến gần Thiên đường hơn nữa, gần Chúa Trời hơn nữa! – Spurgeon[16].

Trác Mộc Cường Ba gấp sách lại, ngắm nghía bìa bọc màu cát sa mạc, rồi trả cho Trương Kiến, ngước mắt nhìn rừng núi màu xanh thẫm xung quanh, chậm rãi nói: “Anh tin vào… Thiên Chúa à?”

Trương Kiến đáp: “Cuốn sách này, khiến tâm hồn tôi được lấp đầy.” Anh ta hỏi ngược lại: “Cường Ba thiếu gia, anh không tin Phật à?”

Trác Mộc Cường Ba rảo chân bước lên hai bước, ra khỏi bóng râm, đứng bên mép con dốc, lặng lẽ nhìn rặng núi xa xa: “Không tin, Thần và Phật đều là những thứ do con người tạo ra mà thôi.” Nhưng tự sâu trong đáy lòng, lại có một tiếng nói hết sức nhỏ nhẹ cất lên: “Con à, con có tín ngưỡng đó…” Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu, tựa hồ như muốn hất tung đập vụn những mảnh hồi ức ấy mà gạt ra ngoài tâm trí.

Trương Kiến bước lên, đứng sánh vai với Trác Mộc Cường Ba, đón ngọn gió chiều, chậm rãi nói: “Tôi từng bị ung thư, ung thư tế bào dạng vảy, một loại ung thư da ác tính, khi bệnh viện phát hiện ra thì đã di căn sang tế bào bạch huyết rồi, các bác sĩ nói, tỉ lệ sống sót của tôi rất thấp.”

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu liếc nhìn Trương Kiến, thấy người đàn ông rắn chắc có làn da ngăm ngăm đen này thoạt nhìn còn khỏe mạnh hơn cả Trương Lập, thật khó mà tưởng tượng anh ta đã từng bị ung thư.

Trương Kiến tự nói với mình: “Việc chữa trị đã tiêu sạch tiền của gia đình tôi tích lũy được, vợ tôi đòi chia tay, vậy là ly hôn luôn.”

Trác Mộc Cường Ba tròn mắt lên nhìn anh ta, chỉ nghe Trương Kiến lại nói tiếp: “Tôi không trách cô ấy, cô ấy vẫn còn trẻ, cần phải tiếp tục sống, cũng may là chúng tôi không có con. Có điều, sau khi cô ấy ra đi, chỉ còn lại một mình tôi nằm trên giường bệnh, trần nhà màu trắng, ga trải giường cũng màu trắng, tôi nghĩ, đời mình thôi thế là hết rồi, cảm giác cô độc khi bóng đêm về đó là thứ đáng sợ nhất trên đời. Đúng lúc ấy, các anh chị em trong giáo hội đã đến giúp tôi, họ cầu nguyện cho tôi, nói với tôi rằng Chúa sẽ không bỏ rơi bất cứ con người bất hạnh nào. Tin vào Chúa, cầu nguyện nơiNgười, Người sẽ gieo vào lòng mình hạt giống của Đạo, cứu rỗi linh hồn mình.”

Trác Mộc Cường Ba thầm giật thót mình, gã cũng vừa mới thoát ra khỏi nỗi cô độc tĩnh mịch đáng sợ ấy. Những lời của Trương Kiến khiến gã không khỏi hồi tưởng khách sạn nhỏ nơi gã bị dồn ép vào cửa. Nếu lúc đó có người vươn bàn tay về phía gã, giúp đỡ gã, liệu gã có giống như Trương Kiến hay không?

Trương Kiến không biết tâm tư của Trác Mộc Cường Ba, vẫn tiếp tục nói: “Lúc đầu, tôi cũng không sùng kính gì cho lắm, chỉ là hy vọng được giáo hội giúp đỡ cho phần nào mà thôi. Về sau, tất cả phí tổn nằm viện của tôi cũng đúng là được anh chị em trong giáo hội quyên góp lại mà trả giúp. Trong vòng năm năm, tôi làm hóa trị liệu bảy lần, bác sĩ nói, tôi sống được đúng là một kỳ tích. Giờ đây, trong cơ thể tôi đã không còn tế bào ung thư nào nữa. Có lẽ, anh nói rất đúng, thần thánh không hề tồn tại, nhưng có sao đâu, khi những người anh chị em đó của tôi chìa cánh tay họ ra, tôi có thể cảm nhận được sự ấm áp tồn tại xung quanh mình. Tôi yêu họ, cũng như họ yêu tôi, tôi cần đến họ, cũng như họ cần đến tôi, dưới ánh sáng của Chúa, chúng tôi lo lắng, thương yêu lẫn nhau, tương thân tương ái, đó mới là điều mà tôi tin thờ.”

Trương Kiến ngoảnh đầu lại nói: “Đội trưởng Hồ Dương từng nói với tôi, con người là một loài động vật có tính xã hội cao, sinh tồn trong cùng một môi trường, họ khát khao được giao lưu và chia sẻ, dựa dẫm lẫn nhau để sống sót. Một con người, nếu muốn sống một mình cô độc trên thế gian này, thực sự rất khó khăn đấy. Có nhìn thấy những ngọn núi kia không? Cường Ba thiếu gia,” Trương Kiến chỉ tay về phía rặng núi xa xa: “Tại sao chúng lại hình kim tự tháp chứ? Sở dĩ chúng cao như vậy, chẳng phải là vì chúng chồng chất lên nhau? Không có phần chân nền phía dưới, ngọn núi sao có thể nguy nga hùng vĩ? Nếu chỉ có một tảng đá lớn cao bằng cái gậy, liệu nó có thể cao được bao nhiêu đây? Một trăm mét, hai trăm mét? Làm sao có thể vút lên cả nghìn mét, chọc tới tận mây xanh? Con người cũng như vậy, sắt thép xi măng ở các thành phố khiến chúng ta trở nên xa lạ, nhưng trong lòng chúng ta trước sau vẫn khát khao được người khác tin cậy, được người khác cần đến, giống như một đại gia đình sống hòa thuận bên nhau vậy. Giáo hội của chúng tôi, chính là một đại gia đình như thế. Ở đó, ít ra anh cũng không cảm thấy cô độc. Khi tâm tình phiền muộn, tôi sẽ lấy Cựu Ước ra xem, bao nhiêu phiền não sẽ dần dần tan biến. Những lúc đối mặt với những lựa chọn khó khăn, tôi cũng tìm kiếm lời giải đáp trong Kinh Thánh. Trong đó, anh có thể tìm thấy lời giải cho tất cả mọi vấn đề.”

Trác Mộc Cường Ba không khỏi bật cười, dường như điển tịch của tất cả các tôn giáo đều như vậy cả. Cứ như có thể tìm thấy bất cứ đáp án nào trong đó, tất cả các vấn đề đều có thể giải quyết. Nếu thực sự có thể giải quyết tất cả các vấn đề, chỉ cần một tôn giáo, một cuốn kinh điển là đủ rồi, tại sao lại còn sinh ra nhiều giáo phái như thế, lại còn không ngừng tranh đấu với nhau nữa.

Trương Kiến nhướng mày nói: “Con người đều như vậy đó, những lúc nguy nan thì hy vọng được cứu rỗi, sống bình thường thì mong mỏi kỳ tích xuất hiện. Con người, cần phải có tín ngưỡng.”

Câu cuối cùng này đột nhiên lại trùng khớp với ký ức của Trác Mộc Cường Ba, âm thanh đó lại vọng lên từ nơi sâu thẳm đáy lòng gã: “Con à, con người, cần phải có tín ngưỡng.”

“Ê, Trương Kiến.” Phía xa xa có người gọi tướng lên. Trác Mộc Cường Ba nhìn về phía có tiếng gọi, thấy hai bóng người đang từ bên kia dốc núi lại gần chỗ họ. “Cậu đang ngắm cảnh à!” Một người lớn tiếng hỏi. Trương Kiến cũng nói to đáp lời: “Hai người các anh, đi tuần xong rồi hả!”

Lúc hai người kia đến gần, Trác Mộc Cường Ba mới nhìn rõ, một người trong đó tuổi tác lớn hơn hẳn, khoảng ngoài ngũ tuần, đầu đã hơi hói, trán hằn ba nếp nhăn vừa rộng vừa sâu, lại đeo thêm đôi kính tròn gọng nhựa đen khiến vẻ ngoài trông càng già nua, bước đi hết sức cẩn thận dè dặt; còn người kia, trông còn trẻ hơn Trương Kiến, đầu tóc bù xù, bước chân sải rộng, thoạt nhìn giống như một công nhân vừa ở công trình đi xuống, trước ngực đeo một chiếc máy ảnh kỹ thuật số dòng SLR to tướng, lúc bước đi, hai tay vẫn ôm khư khư cái máy ảnh, như thể sẵn sàng để có thể chụp bất cứ lúc nào.

“Uầy, Định Minh, đó là loài bướm gì thế? Đẹp quá!” Lúc Trương Kiến hỏi người tuổi tác tương đối lớn kia, Trác Mộc Cường Ba mới trông thấy, trên vai anh ta đang có một con bướm đậu vào, hai cánh chấp chới vẫy nhẹ, hiển nhiên là đã coi bờ vai người đó làm nơi dừng lại nghỉ ngơi. Chẳng trách anh ta lại bước cẩn thận như thế, hóa ra là sợ làm con bướm kinh động bay đi mất.

Người trung niên tên là Định Minh kia đáp: “… bên cạnh cậu là người mới đến hả?” Không đợi hai người họ bước lại gần, Trương Kiện đã hấp tấp giới thiệu: “Cường Ba thiếu gia đến rồi! Đây là Cường Ba thiếu gia!”

“Ồ!” Hai người liền guồng chân rảo bước lên, nhìn lom lom vào Trác Mộc Cường Ba ở khoảng cách gần. Người trẻ tuổi cười cười nói: “Đã nghe tiếng từ lâu!”

Còn người lớn tuổi hơn đã chìa tay ra, nói: “Tiền bối Trác Mộc Cường Ba, chào anh, tôi là Lê Định Minh, cũng là học sinh của thầy Phương Tân.” Con bướm đón gió bay lên, lượn quanh người Lê Định Minh một vòng, rồi vỗ cánh vút đi. “Vậy hả!” Trác Mộc Cường Ba vội nắm lấy bàn tay Lê Định Minh, cảm giác thân thiết hơn nhiều. Nghe anh ta gọi mình là tiền bối, gã liền hỏi: “Anh học khóa nào?”

Lê Định Minh đáp: “Sau anh một khóa. Tôi vẫn thường nghe thầy giáo Phương kể nhiều về anh.” Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Vậy năm nay anh…”

Lê Định Minh gượng cười đáp: “Qua mùa hè này là ba mươi tám rồi. Kha kha…” Anh ta sờ tay lên những nếp nhăn trên trán, nói: “Có lẽ trông tôi hơi già hơn một chút, đều do nghĩ ngợi lung tung cả đấy.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy anh cũng học chuyên ngành động vật họ chó à?” Lê Định Minh lắc đầu: “Không, tôi chuyên nghiên cứu động vật lưỡng thê. Nghe thầy giáo nói, lần này mọi người đi thám hiểm, đã gặp được không ít loài động vật hiếm.” Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Rừng rậm nguyên sinh mà, chắc chắn là còn rất nhiều giống loài vẫn chưa được phát hiện.” Gã thấy người trẻ hơn kia nói chuyện với Trương Kiến mấy câu, rồi lặng lẽ đứng bên cạnh, liền nói: “Đây là…”

Trương Kiến đang chuẩn bị giới thiệu, người đó đã cướp lời anh ta, tự giới thiệu luôn: “Tôi ở cùng một đơn vị với Trương Kiến, đều do đội trưởng Hồ Dương giới thiệu đến. Tôi tên là Mạnh Hạo Nhiên, thời Đường có một nhà thơ Mạnh Hạo Nhiên, ông ấy cùng tên cùng họ với tôi.”

Trương Kiến đứng bên cạnh nói đùa: “Cứ chém gió đi, có cậu cùng tên cùng họ với người ta ấy.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Hai người làm ở đơn vị nào thế?”

Trương Kiến nói: “Tôi làm ở đại đội địa chất Tây Tạng, còn cậu ta thực ra không phải người của đơn vị chúng tôi, cậu ta là nhiếp ảnh gia núi cao, làm nghề tự do, còn cả bọn Nghiêm Dũng nữa, trước đây chúng tôi đều từng làm việc dưới quyền đội trưởng Hồ Dương.”

Mạnh Hạo Nhiên cười hì hì nói: “Nói dễ nghe một chút thì là nhiếp ảnh gia, thực ra chỉ là một tên nhàn rỗi hết chuyện, chỗ nào náo nhiệt là tôi tìm đến, phàm chuyện gì liên quan đến núi tuyết Tây Tạng là tôi đều khoái hết.” Nói rồi anh ta bật lại những bức ảnh mình vừa chụp được cho mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba xem.

Lê Định Minh nói: “Trở về thôi, chắc đến giờ cơm chay rồi.” Trương Kiến nhìn Trác Mộc Cường Ba, cười cười nói: “Hôm nay không ăn chay.” Ba người phá lên cười. Nhìn gương mặt vui vẻ của họ, trong lòng Trác Mộc Cường Ba cũng lấy làm cao hứng.

Bốn người cười cười nói nói trở lại dãy nhà đá. Thì ra Mạnh Hạo Nhiên cũng gần bằng tuổi Trương Kiến, vậy mà nhìn bề ngoài trông còn trẻ hơn cả Nhạc Dương. Anh ta hết sức đắc ý nói, đó là vấn đề bảo dưỡng thôi. Người đàn ông, cả ngày phơi sương phơi gió, cần giữ gìn nhất chính là gương mặt này.

Lúc về đến nơi, chị Trương đã sắp xếp ra một bàn đầy thức ăn. Các thành viên mới cứ ra ra vào vào, bận không ngơi tay. Thường ngày, việc ăn uống của những người này đều bị Lữ Cánh Nam khống chế nghiêm khắc, hôm nay nhân cơ hội Trác Mộc Cường Ba đến, bọn Nhạc Dương và Trương Lập đã xúi bẩy mọi người phá giới, ngấm ngầm bày cách, nói như đinh đóng cột rằng chắc chắn giáo quan sẽ không trách mắng, còn nguyên nhân tại sao lại như vậy, thì… hì hì hà hà, mọi người đều cười cười hiểu ý.

Thấy Trác Mộc Cường Ba trở về, ai nấy đều nhiệt tình chào hỏi, khiến gã có cảm giác như thể trở về buổi tiệc chiêu đãi doanh nghiệp thuở trước vậy. Mẫn Mẫn lại gần khẽ trách móc, căn vặn Trác Mộc Cường Ba sao mà nói chuyện lâu quá vậy. Trác Mộc Cường Ba cười gượng gạo, nói mình vừa ra ngoài tản bộ, nghĩ ngợi vài vấn đề. Hai người mới nói chuyện được hai ba câu, đã bị chị Trương kéo về phía bàn ăn. Nói theo kiểu của chị ta thì, đôi chim non nhà cô cậu thiếu gì thời gian chàng chàng thiếp thiếp, không cần phải nôn nóng làm gì, nghe nói Cường Ba của cô khỏe lắm, rất thích hợp làm cu li. Trác Mộc Cường Ba đỏ bừng cả mặt, cuống cuồng xua tay rối rít nói: “Nào dám, nào dám, sao so được với chịTrương.”

Chị Trương lại nói: “Ấy, cái gì mà chị Trương chị Trương chứ, gọi thế nghe già chết đi được. Cứ gọi tôi là Đình Hổ đi, tôi lớn hơn anh mấy tháng, gọi là Hổ Nhi thì không ổn lắm nhỉ.” Kế đó, chị lại gọi toáng lên: “Tiểu Nguyệt đâu, Nhạc Dương, cậu đi gọi mấy người nữa, mang thùng ra đây. Chúc Dật, cái đồ đần, còn ngây ra đấy làm gì hả, đi giúp bọn họ một tay nhanh lên. Mẫn Mẫn, vào bếp xem thử có đủ đồ ăn không.”

Một lát sau, Trương Lập và hai anh chàng trẻ tuổi khác đã khiêng vào một vò rượu to tướng. Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: “Còn có cả rượu à?”

Chị Trương nói: “Phải đấy, giáo quan nghĩ rất chu đáo, biết đám người chúng tôi đây gần như tên nào cũng là sâu rượu, nên đã đích thân chuẩn bị rượu thuốc sẵn đấy, mỗi ngày huấn luyện xong chúng tôi đều có rượu uống cả. Thứ rượu này mùi vị cũng không tồi, lát nữa anh phải uống nhiều một chút đấy, không sợ say đâu.”

Trác Mộc Cường Ba bất giác nhớ lại lúc bọn họ huấn luyện bị Lữ Cánh Nam bắt uống thuốc bắc, đắng không chịu nổi, xem ra đây đúng là xem người bốc thuốc rồi. Chị Trương lại quay sang sắp đặt sai phái mọi người dịch chuyển các thứ để đặt thêm mấy chiếc bàn nữa trong phòng.

Trác Mộc Cường Ba cười khen: “Chị Trương thật biết sắp xếp.”Trương Đình Hổ nói: “Đám lười nhác này, còn khó quản lý hơn nhân viên công ty nhiều, vẫn phải học theo Cánh Nam, dùng chút thủ đoạn sắt mới khiến họ phục được. À, phải rồi, nghe nói Lữ Cánh Nam thích anh, không biết có thật khôngvậy?” Trác Mộc Cường Ba: “…”

Bữa tối hôm ấy hết sức thịnh soạn, có thể nói là vượt xa tiêu chuẩn bình thường mà Lữ Cánh Nam quy định, nhưng quả nhiên cô chỉ phê bình một hai câu, chứ không nổi trận lôi đình. Chị Trương hướng về phía Trác Mộc Cường Ba chỉ chỉ trỏ trỏ, mọi người ai nấy đều ngầm hiểu, ánh mắt cực kỳ hàm ý, trong khi đó, hai kẻ gây chuyện là Nhạc Dương và Trương Lập lại giả bộ như chẳng hề trông thấy.

Cả một phòng đầy chật người, tổng cộng chia làm ba bàn, người nào người nấy đều tranh nhau kéo Trác Mộc Cường Ba lại ngồi bàn mình, nhưng tất nhiên là chẳng ai tranh được với chị Trương. Đối với Trác Mộc Cường Ba thì vừa kéo vừa lôi, còn người khác thì vừa đạp vừa quát, há miệng gầm lên một tiếng, khí thế chẳng khác nào sư vương Tạ Tốn ngày xưa. Có người nấp phía sau kêu lên: “Cướp chú rể đấy hả!” Cả đám lại cười ồ lên.

Bàn này thực ra chỉ có mình chị Trương là phụ nữ, còn lại toàn là đàn ông râu ria xồm xoàm, thân thể cường tráng, nhưng không một ai có cảm giác chị ta ngồi đây không thích hợp cả. Phải nói là quá thích hợp mới đúng. Tửu lượng của chị Trương này càng khiến Trác Mộc Cường Ba nhớ lại chính mình trong thời kỳ đỉnh cao nhất. Được ba tuần rượu, Ba Tang và một người râu ria xồm xoàm, mặt mũi rất hung hãn chơi oẳn tù tì uống rượu, tiếng qua tiếng lại, càng lúc càng ầm ĩ nhức óc. Chị Trương giới thiệu với Trác Mộc Cường Ba, người tướng mạo hung hãn ấy tên là Nghiêm Dũng, một chuyên gia leo núi rất có kinh nghiệm, anh ta cũng là bạn của đội trưởng Hồ Dương. Hai bàn còn lại cũng chè chén rất hăng say. Vương Hựu và Sean cũng đã hòa đồng được với những người khác, mỗi khi nói chuyện đến chỗ cao hứng lại phá lên cười ầm ĩ. Cả gian phòng ngập tràn trong một bầu không khí ồn ào náo động như thế.

Giữa buổi tiệc, Nhạc Dương đi sang bàn khác, dẫn hai thanh niên đến chúc rượu Trác Mộc Cường Ba. Vừa nhìn bước chân chuẩn xác của bọn họ, gã đã biết ngay hai anh chàng này xuất thân trong quân đội. Quả nhiên, Nhạc Dương giới thiệu, cả hai đều là chiến hữu cùng nhập ngũ với anh, người gầy tên là Triệu Trang Sinh. Nhạc Dương gọi luôn là Cu Gầy, còn đùa đùa bảo từ nhỏ Cu Gầy đã có tố chất của Lãng Lý Bạch Điều Trương Thuận trongThủy Hử, nên bạn bè đồng ngũ đều gọi cậu ta là Nhị Điều. Cậu này xuất ngũ xong còn sang Đức phát triển nửa năm, vừa trở về đã bị Nhạc Dương gọi đi luôn. Người còn lại tên là Lý Hồng, tướng mạo giản dị, ít nói. Trương Lập cũng dẫn theo mấy quân nhân đã giải ngũ đến, vì nhiều người nhiều miệng quá, thành thử Trác Mộc Cường Ba chẳng nghe rõ họ nói những gì nữa.

Mẫn Mẫn và Lữ Cánh Nam ngồi chung một bàn. Ngồi ở bàn đó còn có mấy người phụ nữ nữa, Trác Mộc Cường Ba hỏi qua loa một lượt, biết một cô tên Lâm Tiểu Quyên, còn một cô tên là Phương Phương hay gì gì đó. Được một lúc, mọi người bắt đầu tùy ý nói chuyện phiếm. Trác Mộc Cường Ba và chị Trương tự nhiên là nói đủ thứ chuyện trời Nam bể Bắc, nói qua nói lại, rồi cuối cùng nói đến chuyện Mẫn Mẫn. Chị Trương nói với Trác Mộc Cường Ba, cảm giác đồ mỹ phẩm của Mẫn Mẫn dùng có mấy món đã nhạt mùi đi mất rồi, quá nửa là do để lâu quá, chắc chắn là Trác Mộc Cường Ba chưa bao giờ chọn đồ mỹ phẩm tặng cho người ta cả.

Trác Mộc Cường Ba nói, mấy chuyện đàn bà con gái ấy gã làm sao biết được. Chị Trương liền vỗ ngực nói, sau này muốn mỹ phẩm gì cứ bảo Mẫn Mẫn nói một tiếng, đảm bảo sẽ có hàng mới nhất, chất lượng tốt nhất.

Nói lung tung lang tang một lúc nữa, Trác Mộc Cường Ba lại bảo chị Trương cái gì cũng tốt, chỉ có mỗi cái tên nghe không ổn lắm. Nhạc Dương liền vặn lại, tên chị Trương thì có gì không ổn. Trác Mộc Cường Ba nói, đấy là tên đàn ông. Mấy người cùng bàn càng thêm hiếu kỳ, lại tiếp tục căn vặn. Tới khi Trác Mộc Cường Ba nói ra ba chữ “Trương Đình Hổ”, cả bọn lại cười phá lên. Trương Lập nói: “Cường Ba thiếu gia, tai của anh có vấn đề rồi, chị Trương tên là Trương Đình Phù, chữ đình trong câu ‘đình đình ngọc lập’, chữ phù trong ‘phù dung’ ấy, vậy mà anh lại nghe thành tên đàn ông, thật đúng là chỉ có anh thôi đấy!”

Nhạc Dương lại nói: “Cái tên Trương Đình Hổ này nghe cũng không tồi đâu, nghe rất oai phong, cảm giác như Ngự tiền đới đao thị vệ ấy.”

Nói chuyện một lúc nữa, Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ ra một vấn đề, định hỏi Nhạc Dương thì phát hiện ra anh chàng đã không ngồi đấy nữa, ngoảnh sang hai bàn kia cũng không thấy đâu, liền hỏi chị Trương. Chị ta đáp: “Thằng nhóc ấy sợ uống rượu, trốn đi tiểu rồi. Nào, cạn ly!” Trác Mộc Cường Ba nâng ly lên cụng, liếc nhìn Đường Mẫn, thấy cô đang trợn mắt nhìn mình, liền gượng cười tỏ ý xin lỗi. Nhưng gã không nhận ra, Lữ Cánh Nam cũng không ngồi cùng bàn với Mẫn Mẫn nữa.

Rời khỏi gian phòng ồn ào huyên náo, đứng ngoài hành lang lặng lẽ tăm tối, ánh trăng từ ô cửa đá chiếu xuống, Lữ Cánh Nam nói: “Được rồi, cậu ngầm ra hiệu cho tôi ra ngoài là có chuyện gì vậy?”

Nhạc Dương nói như chém đinh chặt sắt: “Giáo quan, tôi có thể tin tưởng cô không?” Trong bóng tối, ánh mắt anh sáng rực lên, tựa như vì sao lấp lánh trên bầu trời đêm vằng vặc.

Hồi lâu sau, Lữ Cánh Nam ngẩng đầu lên nói: “Thì ra là cậu!”

Thành viên mới (2)

“Không ngờ lại là hắn ta!” Merkin nhìn Max đang đứng trước mặt. Max gật đầu hết sức chắc chắn, nói: “Đúng vậy ông chủ, theo các đầu mối tôi nắm được, tôi dám khẳng định chính là hắn.”

Đầu ngón tay Merkin gõ khe khẽ lên tay vịn sofa: “Mày nói xem, tại sao hắn lại làm vậy nhỉ?”

Max đáp: “Cần tiền, bởi vì trong đội ngũ đó hắn không hề xuất chúng, nên trước đây chúng ta không hề chú ý đến con người này. Sau khi điều tra hết sức tường tận, tôi phát hiện ra một sự thực mà cả đồng đội của hắn cũng không hề hay biết. Kẻ này vẫn ngấm ngầm dùng ma túy, thực ra hắn là một con nghiện rất nặng. Lần này, hắn tham gia vào đội ngũ đó, cũng chính vì cấp trên của hắn hứa rằng, sau khi thành công sẽ có một khoản tiền thưởng rất lớn. Nhưng bọn chúng đã thất bại, tiền của hắn cũng tiêu sạch sành sanh, mới phải nghĩ ra cách rao bán tin tức này. Các tin tức hắn đang rao bán đều là sự thực cả. Hơn nữa, chẳng phải ông chủ cũng từng nói, mỗi người đều có một cái giá, chỉ cần đạt tới tiêu chuẩn của hắn ta, chẳng có ai là không thể mua chuộc được hay sao? Chúng ta cũng đã thành công…”

“Ừm…” Merkin xua tay ngắt lời Max, nói: “Chuyện này vẫn có điều gì đó rất lạ. Tại sao lại tự dưng xuất hiện bán tin tức vào lúc này chứ? Xem ra chúng ta vẫn chưa tìm hiểu đầy đủ về bọn chúng, cần phải điều tra sâu hơn nữa mới được.”

Max không hiểu, nói: “Ông chủ, hắn chọn thời điểm này để bán tin tức ra chẳng phải là rất hợp tình hợp lý hay sao? Đội của chúng đã bị giải tán, giờ chúng đã không còn quả núi chính phủ Trung Quốc chống lưng nữa, lại còn thiếu thốn tiền bạc, tôi thật không nhìn ra hắn làm vậy có gì không ổn cả.”

Merkin cười cười: “Nhìn bề mặt thì có vẻ rất hợp lý, nhưng mày đừng có quên, nếu hắn muốn bán thông tin, ít nhất cũng phải biết được nguồn gốc của bên mua thông tin là như thế nào, mà quan hệ tin cậy lẫn nhau ấy không phải một hai lần giao dịch mà có được ngay đâu. Nếu hắn nghiện rất nặng, thì từ trước khi đội ngũ đó giải tán, đã phải ngấm ngầm liên lạc với các thế lực khác rồi, chứ không phải đột nhiên tiến hành liên hệ với nhiều thế lực một lúc như vậy.”

Max lí nhí nói: “Nhưng, nếu không vì tiền thì hắn vì cái gì? Hơn nữa, nghiện ma túy không thể giả bộ được, hắn ta thực sự nghiện rất nặng mà.”

Merkin cười cười: “Nghiện rất nặng hả, hừ, mày còn điều tra ra được, chẳng lẽ các thành viên khác trong đội của hắn lại không nhận ra được hay sao?”

“…” Max ngưng lại giây lát, lúng túng nói: “Theo… theo những gì tôi điều tra được, những thành viên khác trong đội hoàn toàn không hề biết gì hết cả.”

Merkin lại hỏi: “Vậy sao, thế người của chúng ta có biết không?” Max khẳng định chắc chắn: “Không biết!”

Merkin nở một nụ cười thần bí: “Ừm, xem ra cả một đội viên bình thường dưới trướng Trác Mộc Cường Ba cũng không thể coi thường được rồi. Có điều, mày phải nhớ rõ, một số kẻ có ý chí cực kỳ kiên cường, dẫu là nghiện ma túy rất nặng đi chăng nữa, chỉ cần thần trí hắn vẫn còn chưa mất hẳn, hắn cũng vẫn trung thành với tổ chức của mình. Tao ngờ rằng tên này làm vậy là muốn trở thành gián điệp hai mang! Hừ hừ, nếu đúng là như vậy, tao sẽ dùng thực lực cho hắn tỉnh táo ra mà nhận thức được rằng, nếu không thật thà đi theo chúng ta, hắn chẳng còn một con đường nào khác nữa cả!”

Max hiểu ý, nói ngay: “Liên lạc với hắn hả? Ông chủ.”

“Phải, có điều không trực tiếp gặp mặt hắn, mà để hắn thông qua bên thứ ba liên hệ với chúng ta, bảo hắn chỉ cần tiết lộ thông tin là được rồi, sau đó hãy để hắn làm một số việc khó có thể vẹn toàn cả đôi bên, khiến hắn càng lún càng sâu, cuối cùng không thể không đi theo chúng ta.”“Tôi biết rồi, ông chủ,” Max đứng thẳng như cột cờ nói.

Merkin nở một nụ cười cao thâm khó dò, vẫy tay ra hiệu cho Max ra ngoài, tới khi tên thuộc hạ ra khỏi cánh cửa, nụ cười của y mới dần dần bị nét sầu não thay thế. Người kia có phải muốn làm gián điệp hai mang hay không, Merkin hoàn toàn không để tâm, điều y lo lắng là, tin tức này rốt cuộc sẽ gây chú ý cho bao nhiêu tổ chức, rốt cuộc nó sẽ khuếch tán bao xa, cấp trên trong tổ chức liệu có chú ý đến nó hay không, Người quyết sách liệu có chú ý đến nó hay không!

Lúc quay người lại đóng cửa, Max liếc mắt nhìn qua khe hẹp, vừa hay bắt được khoảnh khắc nụ cười của Merkin biến mất, lúc ấy hắn mới nở một nụ cười hài lòng, sải chân bước đi.

Đêm hôm đó, rượu cứ đong đầy mãi không hết, chị Trương cũng không uống nhiều lắm. Ngược lại người tên Nghiêm Dũng kia thì hình như rất muốn phân cao thấp với Ba Tang. Bên cạnh hai người đó còn một người ra sức hò hét trợ uy cho bọn họ. Người này mặt tròn tròn, lúc cười trông như Phật Di Lặc, hình như cũng là do đội trưởng Hồ Dương dẫn tới, tên là gì Trác Mộc Cường Ba không nghe rõ.

Uống đến khuya, mọi người nâng chén chúc nhau lần cuối, rồi Trác Mộc Cường Ba trở về căn phòng được chuẩn bị sẵn cho gã, nằm bò ra ngủ, trong lúc mê man chợt nghe có người nói: “Con à, con có tín ngưỡng đấy…”

Trong bóng đêm, Trác Mộc Cường Ba đáp lại: “Không có, số mệnh của tôi do tôi quyết định, không phải do ông trời!”

Lúc gã mở mắt ra, đã thấy mình đang ở một buổi tiệc rượu chiêu đãi doanh nghiệp, vô số nụ cười như được đổ ra từ khuôn đúc, ai ai cũng tỏ ra hết sức thân thiết, mọi người lần lượt giơ ly lên, hướng về phía gã chào hỏi. Trác Mộc Cường Ba cúi đầu xuống nhìn, thấy mình mặc đồ Tây, đi giày da bóng loáng, đang nghĩ sao mình không có rượu, thì trên tay đã xuất hiện một chiếc ly chân cao, bên trong là thứ rượu vang đắt tiền màu đỏ dìu dịu mà trong suốt. Trác Mộc Cường Ba cười tươi hớn hở, cùng mọi người chào hỏi chuyện trò, nhưng trong lòng không khỏi lấy làm lạ, tại sao gã lại ở đây chứ?

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại, liền trông thấy Đồng Phương Chính, khuôn mặt vẫn giữ nguyên nụ cười quen thuộc. Chỉ thấy Đồng Phương Chính đứng sát sau lưng gã, Trác Mộc Cường Ba đưa ly về hướng nào, anh ta liền bước lên bắt tay chào hỏi người đó, nếu Trác Mộc Cường Ba bước đi giữa đám đông, anh ta liền vội vàng đi theo sau gã ngay, người bên cạnh rất khó để ý thấy. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại nói: “Phương Chính, đứng lên phía trước một chút đi, đừng cứ ở mãi sau lưng tôi như thế, người ta sẽ hiểu lầm tưởng anh là thư ký của tôi mất.”

Đồng Phương Chính chỉnh lại gọng kính, nhẹ nhàng nói: “Khỏi cần, họ nhận ra anh là được rồi.” Anh ta lúc nào cũng giữ vẻ bề ngoài khiêm cung ấy, nhưng đột nhiên nụ cười hiền lành bỗng trở nên điên cuồng dữ tợn, xung quanh không biết từ lúc nào đã xuất hiện hai gã cốt đột cao lớn, một bên trái, một bên phải nhấc bổng cả Trác Mộc Cường Ba lên, khiến gã không nhúc nhích động cựa gì được. Trác Mộc Cường Ba hét lớn: “Phương Chính, anh làm gì vậy! Thả tôi ra!”

Đồng Phương Chính đẩy gọng kính lên sống mũi, cười như điên dại: “Xin lỗi nhé Cường Ba, tất cả những thứ này, đều là của tôi cả rồi!”

Trác Mộc Cường Ba ra sức giãy giụa, nhưng không sao nhúc nhích nổi. Sau mấy lần gắng sức, đột nhiên gã bỗng thầm nhủ, loại cốt đột thế này làm sao có thể khiến mình không nhúc nhích gì được như vậy, đây là nằm mơ sao? Nghĩ tới đó, gã liền mở bừng mắt ra, giật mình tỉnh giấc.

Hơi không khí đầu tiên hít vào đến phổi mang theo một luồng hương thoang thoảng thân quen, còn nơi bàn tay gã chạm phải lại trơn mềm như mỡ đặc. Trác Mộc Cường Ba hơi cúi đầu xuống, liền trông thấy Mẫn Mẫn đang ôm chặt eo mình như con rắn, đầu gối lên ngực, mái tóc phủ lên mặt gã. Trác Mộc Cường Ba cố gắng để hơi thở mình dịu bớt đi, tránh làm cô giật mình thức giấc. Cơn mơ vừa nãy, khiến gã nhớ đến rất nhiều chuyện, tâm trạng không khỏi có chút tức bực khó chịu, đồng thời cũng thấy hơi bất an. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu nhìn ra cửa sổ, bên ngoài sông Ngân chảy tràn, tinh tú lấp lánh, sắc đêm nồng đượm.

Sáng hôm sau, Trác Mộc Cường Ba dậy rất sớm, vươn người mấy cái cho dãn gân dãn cốt, cảm giác toàn thân thư thái dễ chịu, bèn ra ngoài chuẩn bị tập thể dục buổi sáng. Phía ngoài đã có mấy người bắt đầu chạy bộ, còn những người khác vẫn chưa ra khỏi giường. Một anh chàng trẻ tuổi chạy đến trước mặt gã, hỏi: “Cường Ba thiếu gia, sớm vậy à?”

Trác Mộc Cường Ba nhận ra, người này là chiến hữu của Nhạc Dương, tên là Triệu Trang Sinh, vì lúc giới thiệu anh ta với gã, Nhạc Dương có nói, vừa nghe đã biết, anh ta sinh ra ở Triệu Trang rồi. Triệu Trang Sinh đang đeo tai nghe, lúc nói chuyện liền gỡ xuống. Trác Mộc Cường Ba chạy song song với Trang Sinh, hỏi: “Chạy bộ còn nghe nhạc nữa hả? Ai hát đấy?”

Triệu Trang Sinh đáp: “Beyond, chắc là Cường Ba thiếu gia chưa nghe bao giờ.” “Beyond, người nước ngoài à?”

Triệu Trang Sinh cười ha hả nói: “Cường Ba thiếu gia quả nhiên là chưa nghe bao giờ rồi. Họ là ban nhạc Rock and Roll của Hồng Kông. Beyond có nghĩa là ‘Vượt qua’. Hát hay lắm, anh nghe thử xem.” Nói đoạn, Triệu Trang Sinh liền rút cả tai nghe lẫn máy nghe nhạc trong túi ra, đưa cho Trác Mộc Cường Ba, rồi nhét đầu tai nghe vào tai gã, một thứ âm thanh kim loại đập vào màng nhĩ, giọng ca khàn khàn cao giọng hát vang. Ca từ bằng tiếng Quảng, gã nghe không hiểu, nhưng Trác Mộc Cường Ba có thể nhận ra, dường như người ca sĩ kia đang xuyên qua cuồn cuộn sóng cồn, gió bụi dặm trường mà từ nơi xa bước đến. Giọng hát khàn khàn ấy gợi lên một cảm giác bể dâu từng trải, tiếng ca cao vút chói tai đầy kích động âm vọng giữa vùng hoang vắng. Trác Mộc Cường Ba vốn chẳng hứng thú lắm với thứ âm nhạc này, có điều trải qua bao nhiêu biến cố, gã lờ mờ cảm nhận được người sáng tác nhạc đang rất cố gắng kể lại một nỗi khổ nhọc. Mỗi bài hát, đều như một mầm mạ non nhỏ bé đang gắng sức vươn lên trong nghịch cảnh. Còn người diễn xướng, thì tựa như đã đem toàn bộ sinh mệnh của mình ra để hát, không có vẻ trữ tình du dương, cũng không phát tiết đến cùng cực, chỉ đang dùng tiếng hát của mình để bày tỏ, mong những con người bình thường đang theo đuổi mộng tưởng xin đừng dừng bước, dẫu gặp phải khó khăn gì, cũng chớ bỏ cuộc. Mỗi bài ca, mỗi câu ca, đều là tiếng gào thét của người diễn xướng, phải cố!Phải cố gắng nữa! Chạy bộ theo tiết tấu âm nhạc này, người ta như có cảm giác mỗi một bước chân đều đặt vào những trọng điểm chắc chắn, đồng thời trong tư thế sẵn sàng để đặt bước chân tiếp theo.

Cùng với thứ nhạc âm vang tiết tấu mạnh mẽ đó, Trác Mộc Cường Ba và Triệu Trang Sinh vừa chạy vừa nói chuyện phiếm. Qua Triệu Trang Sinh gã mới biết, thì ra hôm qua lúc gã đến, vừa khéo cũng đúng lúc mọi người mới hoàn thành một giai đoạn huấn luyện, được nghỉ ngơi hai ngày, một số người có khả năng sẽ bị đào thải, nên buổi tối Lữ Cánh Nam mới không ngăn cản mọi người mở tiệc quậy phá, vừa là tiệc mừng bọn Trác Mộc Cường Ba đến đây, đồng thời cũng là tiệc chia tay một số người bị loại. Trác Mộc Cường Ba đang thầm tự nhủ “ra là thế”, Triệu Trang Sinh đã quay sang nói, có điều nếu không phải đúng dịp Cường Ba thiếu gia đến, bọn họ cũng không thể ăn uống thả giàn như vậy được, xét cho cùng vẫn nhờ phúc ấm của Cường Ba thiếu gia mới được vậy. Trác Mộc Cường Ba nghe mà chỉ biết dở khóc dở cười.

Vốn là ngày nghỉ, nên những người chạy bộ buổi sớm cũng chia thành từng tốp hai ba người, người nào chạy đường người nấy. Trác Mộc Cường Ba và Triệu Trang Sinh chạy tương đối nhanh, chẳng mấy chốc đã đuổi kịp người cao lớn hôm qua đấu rượu với Ba Tang, Nghiêm Dũng. Cả tay trung niên tối qua ở bên cạnh hò hét trợ uy cho bọn họ cũng chạy cùng. Trác Mộc Cường Ba thấy Nghiêm Dũng tinh thần phấn chấn, đưa mắt nhìn quanh lại không thấy bóng Ba Tang đâu, chỉ thấy chị Trương và mấy thanh niên khác từ trong dãy nhà đá đi ra. Gã tiến lên chào hỏi bọn Nghiêm Dũng một câu, rồi thả bước chậm lại chạy song song với họ. Nghe Nghiêm Dũng giới thiệu, người trung niên mặt tròn chạy bên cạnh anh ta tên là Chu Nghiêm, nhìn bề ngoài tròn ung ủng như phát phì, nhưng kinh nghiệm leo núi và thám hiểm tuyệt đối không hề kém Nghiêm Dũng. Hai người bọn họ đều đã từng nhiều lần theo đội trưởng Hồ Dương tiến hành khảo sát trên ngọnChomolungma.

Phía bên kia, chị Trương dẫn theo mấy thanh niên cũng hò hét chạy tới nhập hội. Ngày nghỉ nên mọi người đều tốp năm tốp ba, tùy ý chạy theo đường mình thích, nhưng không hiểu tại sao, ai nấy đều chào một tiếng rồi chạy theo phía sau cái nhóm đông đảo của bọn họ, chẳng mấy chốc đã kéo thành một hàng người dài thượt.

Lữ Cánh Nam đứng dựa người bên cửa sổ, nhìn Trác Mộc Cường Ba dẫn đầu chạy trước, sau lưng là một đám thành viên mới xa lạ, tựa như có một thứ sức mạnh vô hình đã tụ tập bọn họ lại với nhau, trên gương mặt bất giác nở ra một nụ cười.

Chạy được mấy vòng, thân thể bắt đầu nóng dần lên, Trác Mộc Cường Ba nghe thấy các thành viên chạy sau thở hổn hển nặng nề, bèn thả bước chậm dần, rồi từ từ dừng lại. Chị Trương nói: “Nghe nói anh bị thương, xem ra cũng hồi phục khá quá nhỉ, đám thanh niên phía sau không lại được với anh rồi.”

Trác Mộc Cường Ba chỉ vào ngực mình, cười cười nói: “Tôi bị nội thương. À, phải rồi chị Trương này, thời gian nghỉ thường thường mọi người làm gì vậy?”

Chị Trương nói: “Cũng nhiều thứ lắm. Ở đây là vùng hoang dã, chúng tôi có thể bơi ngược suối, chạy bộ, chơi gì cũng được. Có lẽ mọi người thích nhất là hai trò phá giải cạm bẫy với đánh trận giả bằng súng đạn cao su. Nhạc Dương và Trương Lập là cao thủ đó.”

Mạnh Hạo Nhiên đứng bên xen vào: “Có điều không thể chơi mấy trò trí tuệ, giáo quan Lữ nói, cái thứ rèn luyện thân thể này không tiến ắt sẽ lùi, gọi là nghỉ ngơi, tức là mỗi ngày không tăng cường độ huấn luyện lên mà thôi.” Nghiêm Dũng nói: “Cá nhân tôi cho rằng, có một số hạng mục huấn luyện quá phức tạp đối với những người mới, độ khó cao quá, những kỹ xảo với độ khó cao như thế, chúng ta cần phải dùng trong thực tế hay sao?”

Triệu Trang Sinh lập tức tiếp lời: “Phải đấy, Cường Ba thiếu gia, nghe Nhạc Dương nói, trước đây mọi người từng vào cổ mộ, phá cơ quan cạm bẫy gì đó, trong các di tích cổ đại ấy có nhiều cạm bẫy vậy thật sao? Mọi người gặp phải những loại bẫy gì vậy? Kể cho chúng tôi nghe được không…”

Những người khác cũng đồng thanh phụ họa, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy gã đã kể đi kể lại chuyện này nhiều lần lắm rồi, hơn nữa, một khi đã bắt đầu kể, e rằng một hai tiếng đồng hồ cũng khó mà kể cho hết, vừa hay lúc đó thấy Trương Lập bước ra, gã liền lập tức gọi anh lại: “Trương Lập, cậu lại đây kể cho mọi người nghe những chuyện chúng ta gặp phải hồi trước đi.”

Trương Lập vừa nghe thế liền hăng hái hẳn lên, nước bọt văng tung bốn phía: “Nhớ năm xưa…”

Trác Mộc Cường Ba ở khu trại huấn luyện được ba ngày, hết sức hòa hợp với mọi người. Gã thấy Lữ Cánh Nam sắp đặt hết sức chu đáo nghiêm ngặt, cả Ba Tang cũng đã đảm nhiệm chức giáo quan hướng dẫn, còn giáo sư Phương Tân đang phải sắp xếp chỉnh lý một lượng lớn các tài liệu. Gã cũng nôn nóng muốn xem những tài liệu đó, bèn dẫn theo Mẫn Mẫn, trở về Lhasa giúp đỡ giáo sư một tay.

Trở về Lhasa, Trác Mộc Cường Ba gửi lời hỏi thăm của Lê Định Minh và bọn Nhạc Dương đến giáo sư, còn Mẫn Mẫn chào hỏi xong liền ngoan ngoãn đi vào trong thu dọn hành lý. Giáo sư Phương Tân hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Sao hả, các đội viên mới để lại cho cậu ấn tượng như thế nào?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Rất tốt, bọn họ… rất ưu tú, đều là những người có kinh nghiệm phong phú về nơi hoang dã. Nói thật, sau khi ở với họ ba ngày, tôi quả là không nỡ nhìn thấy bất cứ ai trong số họ bị đào thải cả.”

“Ừm,” giáo sư Phương Tân nói: “Cậu đã không nghi ngờ trong số họ có người đem thông tin tiết lộ cho các tổ chức khác cũng đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu nữa rồi à?”

Trác Mộc Cường Ba thở dài một tiếng: “Nếu đúng là vậy thì tôi cũng chẳng còn gì để nói nữa, bởi vì tôi thực không sao hiểu nổi, tiết lộ thông tin về chúng ta ra ngoài, rốt cuộc họ được ích lợi gì chứ.”

“Lợi nhiều lắm chứ…” giáo sư Phương Tân mới nói được nửa câu, thấy sắc mặt Trác Mộc Cường Ba không được tốt lắm, bèn mỉm cười: “Được rồi, tạm thời không nói chủ đề này nữa, đi theo tôi, cho cậu xem những phát hiện mới trong đống tài liệu mang từ Nga về.”

Trác Mộc Cường Ba ở phía sau đẩy xe lăn, nói với giáo sư Phương Tân: “Thầy giáo, còn một chuyện nữa, tôi vẫn không sao hiểu được. Mới đầu, khi biết đến Bạc Ba La thần miếu, tôi cảm thấy rất thần bí, nhưng vẫn luôn cho rằng chúng ta nắm được khá nhiều thông tin. Cho tới khi Lữ Cánh Nam lấy những tài liệu đó ra, tôi mới biết, hiểu biết của chúng ta về Bạc Ba La thần miếu chỉ hết sức nửa vời. Có điều, sau khi có được những tài liệu của Lữ Cánh Nam, chúng ta đã có thể nhận thức lại về Bạc Ba La một lần nữa. Thế nhưng bây giờ, tôi bỗng đột nhiên phát hiện ra, chúng ta mới chỉ biết được cái vỏ bề ngoài về Bạc Ba La thần miếu, nếu không có pháp sư Á La và pháp sư Tháp Tây, chúng ta hầu như là hoàn toàn không biết một chút gì về nơi ấy cả, ngay cả như Lữ Cánh Nam và pháp sư Á La, họ cũng chỉ biết một chút bề ngoài mà thôi. Sao tự dưng lại trở nên như vậy chứ?”

Giáo sư Phương Tân cười nói: “Là thế này, Cường Ba à, xem ra nhận thức của cậu về vị trí hiện tại của chúng ta vẫn hơi lệch lạc rồi. Trước giờ tôi vẫn luôn nhấn mạnh với cậu, chúng ta chỉ là một đội mang tính thử nghiệm, còn nghiệp dư hơn cả những tổ chức nghiệp dư nhất. Khi mới bắt đầu, các thông tin về Bạc Ba La thần miếu mà chúng ta có thể nắm bắt sẽ không nhiều, chúng ta chỉ có thể dần dần lần theo các đầu mối, đi từ bên ngoài vào sâu bên trong, từng bước từng bước một. Không sai, Bạc Ba La thần miếu đã biến mất trong lịch sử cả nghìn năm rồi, nếu từ nghìn năm trước đã có người bắt đầu thu thập các tài liệu liên quan đến nơi ấy, thì tài liệu mà chúng ta nắm được trong tay so với người ta, chắc chắn là hạt cát so với sa mạc, không thể so được. Có điều, chúng ta vẫn không ngừng tiến bộ, không ngừng học tập, các tài liệu, thông tin họ thu thập được suốt một nghìn năm, vừa khéo để cho chúng ta học tập, hấp thụ. Hơn nữa, bọn họ đã có nhiều tài liệu, nhiều thông tin đến thế, tại sao vẫn không thể tìm được Bạc Ba La thần miếu? Tại sao?”

Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm. Giáo sư Phương Tân bật máy tính lên, ngoảnh đầu lại nói: “Bởi vì họ thiếu mất những thứ quan trọng nhất, chẳng hạn như tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu phát hiện trong địa cung Maya, còn cả tấm bản đồ da sói tìm được trong Đảo Huyền Không tự nữa, không có những thứ ấy, các thứ tài liệu, thông tin khác có nhiều nữa cũng chỉ là nói suông mà thôi. Vì vậy mới nói, xét về những tư liệu quan trọng để tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, chúng ta và họ là tương đương. Tuy nhiên so với các tổ chức khác thì chúng ta tiếp cận với chân tướng sự việc sâu hơn nhiều. Đây cũng là nguyên nhân tại sao các tổ chức lại tìm đến cậu. Giờ đây, ai phá giải được bí mật ẩn giấu bên trong tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu và tấm bản đồ da sói trước, người đó sẽ có khả năng tìm được Bạc Ba La thần miếu trước. Còn các tư liệu khác, có thể cung cấp cho chúng ta các thông tin bên lề về Bạc Ba La thần miếu, nhưng để tìm thấy nơi ấy thì chúng lại không có giá trị gìnhiều lắm.”

Máy tính đã được bật lên, giáo sư Phương Tân vừa click chuột vừa nói: “Vì vậy, lần này cậu trở về đây, tôi sẽ giao toàn bộ công việc chỉnh lý tư liệu cho cậu và Mẫn Mẫn phụ trách, còn tôi sẽ tập trung lo việc liên hệ với các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực, hy vọng có thể tiến một bước đột phá trong việc phá giải bí mật của tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu và tấm bản đồ da sói, cậu xem cái này đi…”

Trên màn hình xuất hiện một tấm ảnh đen trắng, hình chụp một chiếc hộp hình chữ nhật, dạng thức rất cổ phác, bên dưới có một hàng chữ, hình như là chú thích ảnh chụp ở đâu. Trác Mộc Cường Ba nói: “Đây là gì vậy?”

Giáo sư Phương Tân không giải thích, chỉ nói với gã: “Nhìn bên ngoài cái hộp này, có khiến cậu liên tưởng đến thứ gìkhông?”

Trác Mộc Cường Ba nhíu mày, tập trung tinh thần, cuối cùng đành thở dài nuối tiếc: “Không nghĩ ra.” Giáo sư Phương Tân lấy làm kỳ quái liếc nhìn gã, nói: “Cường Ba à, trí nhớ của cậu kém xa thuở trước rồi đấy. Sao hả, lẽ nào cả ông già như tôi mà cậu cũng không theo kịp nữa rồi à?”

Trác Mộc Cường Ba nghe nói thế mà thẹn mướt mồ hôi, nhưng, giáo sư Phương Tân đã mở một tấm hình khác. Tấm hình này thì Trác Mộc Cường Ba lập tức nhớ ra ngay, là do giáo sư Phương Tân chụp ở Cổ Cách, chiếc bàn đá trong gian thạch thất cuối cùng, cái hộp để tấm bản đồ da sói chính là đặt trên chiếc bàn đá này. Giáo sư Phương Tân bật đoạn video, chiếc bàn đá liền hiện lên rõ nét trên màn hình máy tính, bên trên có ba rãnh xếp thành hình chữ “phẩm”, hai rãnh hình vuông và một rãnh hình chữ nhật. Món đồ đặt trong rãnh hình chữ nhật và một rãnh hình vuông đã bị người ta lấy đi mất, trong rãnh còn lại có một chiếc hộp trông như làm bằng đồng, hay bằng sắt gì đó. Đó chính là chiếc hộp chứa tấm bản đồ da sói, hoa văn, dạng thức, chất liệu, đều giống hệt như chiếc hộp hình chữ nhật trong tấm ảnh đen trắng.

Trác Mộc Cường Ba lắp bắp: “Đây… lẽ nào đây là…”

Đảng Quốc xã lần đầu tiến vào Tây Tạng

Giáo sư Phương Tân nói: “Không sai, tôi cho rằng đây chính là một trong hai chiếc hộp đã bị Morton Stanley lấy đi khỏi mật thất Cổ Cách năm xưa, về sau lưu lạc nhiều nơi rồi cuối cùng lọt vào tay quân Đức. Hàng chú thích bên dưới là tiếng Đức, tôi đã hỏi chuyên gia tiếng Đức rồi, hình tam giác đó là dấu hiệu Lâu đài Ma thuật của Himmler, chứng tỏ rằng Himmler đã từng nghiên cứu nó trong Lâu đài Ma thuật của y. Ngoài ra, trong các tài liệu cậu mang về không có tiết lộ gì về tấm hình này nữa cả.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ý thầy là, tài liệu của chúng ta không đầy đủ? Vậy có cần liên lạc lại với tay Aleksandrovich kia không?”

“Muộn rồi.” Giáo sư Phương Tân điềm đạm nói: “Anh ta chết rồi.” “Cái gì?” Trác Mộc Cường Ba giật mình kinh hãi.

Giáo sư Phương Tân nói: “Lẽ ra cậu phải nghĩ đến rồi chứ, giao dịch của Aleksandrovich với các cậu đã bị theo dõi, chắc chắn anh ta cũng khó mà thoát nạn, chỉ không biết đã khai ra những gì rồi thôi. Có điều, lộ ra cũng không ảnh hưởng lắm, nói không chừng những tổ chức lớn một chút đều đã tra ra hết các thông tin này từ lâu rồi. Hiềm nỗi, chúng ta mà muốn bổ sung thông tin về phương diện này thì không biết phải làm sao thôi. Chúng ta sẽ cùng nghiên cứu các tài liệu này, trong đó có rất nhiều thông tin về Bạc Ba La thần miếu mà đảng Quốc xã nắm được trong thời kỳ Thế chiến II, bọn họ gọi là Shambhala. Ngoài ra còn rất nhiều thông tin tuy không liên quan đến Bạc Ba La thần miếu, nhưng cũng rất đáng chú ý, chẳng hạn như nội dung về tay Hector Merkin kia, không hề liên quan gì đến Shambhala cả.”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu. Giáo sư Phương Tân ngừng lại giây lát rồi tiếp lời: “Còn một vấn đề nữa, không biết cậu có chú ý đến hay không.” Ông tua lại đoạn phim ghi hình, chỉ nghe giáo sư trong đoạn phim ấy nói: “Ở đây có cánh cửa, dùng thuốc nổ dẻo nổ ra, đừng, đừng đặt nhiều thuốc nổ thế.”

Giáo sư Phương Tân chỉ vào màn hình, nói: “Có thấy không, lúc chúng ta vào thạch thất, cánh cửa này bị bít kín lại. Nếu là Stanley lấy đồ đạc ở trong đây đi, lúc ấy Cổ Cách vẫn còn là một vùng đất cằn cỗi không một bóng người, ông ta hoàn toàn có thể ung dung đĩnh đạc mà gồng gánh bảo vật bỏ đi, tại sao còn phải cẩn thận bít cánh cửa ấy lại làm gì nữa?”

Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi đáp: “Nói không chừng là đã thấy lời nguyền hay cảnh báo gì đó, chẳng hạn như nếu mở cánh cửa này, linh hồn sẽ bị nguyền rủa gì gì đó chăng?”

Giáo sư Phương Tân gật đầu tán thưởng: “Không sai, tôi cũng nghĩ vậy đấy. Được rồi, chuyện này để sau có nhiều thông tin hơn chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu. Xem cái này nữa, đây là những tấm ảnh tôi đã in ra…”

Giáo sư Phương Tân giơ một tập ảnh đen trắng dày cộp lên. Trác Mộc Cường Ba đón lấy, chỉ thấy hầu như các bức ảnh đều có nền là núi tuyết hoặc thảo nguyên mênh mông, nhân vật trong ảnh đa số đều là những người dân tộc Tạng, còn có cả một số ảnh chụp trong các chùa chiền tự viện. Nhìn những bối cảnh và chùa chiền ấy, Trác Mộc Cường Ba lướt thoáng qua đã có thể nhận ra ngay những tấm ảnh này được chụp ở Tây Tạng. Gã lật xem từng tấm, từng tấm, nói: “Đâylà…”

Giáo sư Phương Tân nói: “Đây là ảnh do đội thám hiểm Seifert chụp. Năm 1938, đội thám hiểm này được Himmler giới thiệu, Hitler đích thân phê chuẩn, là tiểu đội Quốc xã đầu tiên xâm nhập Tây Tạng.”

Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên thốt: “Tại sao đa phần đều là…”

“Đồng bào người Tạng, phải không?” Giáo sư Phương Tân tiếp lời. “Cậu chớ quên mục đích chuyến đi lần đó của họ, đội thám hiểm Seifert vì muốn tìm kiếm tổ tiên người Aryan của bọn họ nên mới đến Tây Tạng. Mục tiêu chủ yếu là nghiên cứu sự khác biệt giữa chủng người Tây Tạng và chủng người Aryan bọn họ, vì vậy mới chụp rất nhiều ảnh người dân tộc Tạng. Bọn họ còn tiến hành đo đạc vòng đầu, chiều cao, chiều dài cánh tay, quan sát màu tóc, màu da, võng mạc, đồng tử… thế nhưng, đây chỉ là những thứ trên bề mặt. Cậu thử xem kỹ lưỡng một lượt tất cả các bức ảnh, sẽ không khó nhận ra, tất cả những gì họ làm đều chỉ là làm cho có vậy thôi, hoàn toàn chỉ là hình thức, đây không phải là mục đích thật sự của đội thám hiểm này.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy sao?”

Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Phía sau có rất nhiều ảnh, đều là ảnh chụp các thành viên trong đội thám hiểm hoặc ảnh chụp chung với những quý tộc thời bấy giờ, cậu xem kỹ những tấm ảnh đó đi.” Giáo sư Phương Tân ở bên cạnh đưa tay lướt qua xấp ảnh, chọn ra chừng mấy chục tấm cuối cùng, gật gật đầu với Trác Mộc Cường Ba.

Gã liền bỏ qua những tấm ảnh bên trên, quan sát kỹ ảnh các thành viên trong đội Seifert, chẳng mấy chốc đã nhận ra vấn đề: “Những tấm ảnh này, sao giống như đã bị người ta cắt đi vậy, có mấy tấm ở bên mép rõ ràng là vẫn còn có người nữa, nhưng lại chụp có một nửa, còn nữa, nét mặt những người này… cứ có cảm giác là lạ thế nào đó.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Không sai, không phải là nét mặt là lạ, mà là thị tuyến của họ, cậu có chú ý thấy không, lúc họ chụp ảnh hoàn toàn khác với chúng ta lúc thường, gần như không hề nhìn về phía người chụp, mà lại nhìn đi nơi nào đó khác, cả mấy tấm ảnh đều như vậy. Như tấm này, chụp chung với quý tộc người Sikkim, tấm này nữa, chụp chung với Thổ Ty, tấm ảnh chụp cả nhà này thì càng không cần phải nói nữa, ít nhất cũng có nửa số người không chú ý đến người chụp ảnh. Còn chuyện cậu nói mấy tấm ảnh này đã bị cắt cúp, tôi cho rằng không đúng lắm, mà là người chụp ảnh cố tình không chụp những người đứng ở bên rìa vào trong đó thôi.”

Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc nói: “Tại sao lại như vậy chứ?”

Giáo sư Phương Tân mỉm cười: “Nếu chỉ xem ảnh thôi e rất khó lý giải, nhưng cậu xem chỗ này sẽ hiểu ngay thôi.” Ông ấn mấy nút trên bàn phím, màn hình liền hiện ra một đoạn mật mã, phần dịch ra bên dưới đại khái là: “Ngoài ra, cử thêm năm người nhóm Seifert tiến vào Tây Tạng. Seifert làm đội trưởng, giả bộ điều tra nghiên cứu về sự giống nhau giữa người Tạng và tổ tiên người Aryan.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ngoài ra cử thêm? Giả bộ? Lẽ nào…”

Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Không sai, tiểu đội Seifert chỉ là danh nghĩa, nhiệm vụ của bọn họ chính là che giấu mục đích thực sự của Đức Quốc xã khi cho người xâm nhập Tây Tạng. Cùng với năm người này vào Tây Tạng, còn tám thành viên khác, đây chính là nguyên nhân các bức ảnh không thể chụp đầy đủ. Làm như vậy là để đảm bảo rằng, tám người cùng đến Tây Tạng với bọn họ triệt để vô hình trên bất cứ tài liệu nào. Hơn nữa, ngoài các tài liệu đã được giải mật mà cậu và Ba Tang mang ở Nga về, chúng ta không thể tra ra được bất cứ thông tin nào liên quan đến tám người này ở những kênh khác. Từ điểm này, có thể thấy đảng Quốc xã đã bảo mật về tám con người này đến mức độ nào, có thể nói họ là tám con người hoàn toàn không hề tồn tại trên đời này vậy. Tài liệu ở đây, cậu xem thử đi.”

Giáo sư Phương Tân mở ra một văn kiện khác, đại ý được dịch ra như sau: phái tám … [ký hiệu] điều tra khu vực [ký hiệu tia chớp], tất cả hành động đều nghe [ký hiệu đầu tiên] chỉ huy, đồng thời cho [ký hiệu đầu tiên] quyền lực tuyệt đối, ở khu vực [ký hiệu tia chớp], [ký hiệu đầu tiên] có quyền như nguyên thủ, phía sau là chữ ký của Hitler.

Nhưng tám ký hiệu ấy vẫn để nguyên, dịch giả không thể dịch thành tám cái tên được. Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên thốt lên: “Văn kiện đích thân Hitler ký cũng chỉ dùng ký hiệu đại diện cho thân phận thôi sao? Không thể tìm ra tám tên người này được à?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Tôi đã thỉnh giáo cả các chuyên gia ký hiệu học rồi, đây là tiếng Runic ở Bắc Âu, cũng là một loại sức mạnh cổ xưa thần bí mà Himmler sùng bái, nhưng dù dịch được những ký hiệu này ra chúng ta cũng không thể biết được tên thực của bọn họ, bởi vì tên mỗi người đều viết tắt bằng hai chữ cái đầu tiên, chẳng hạn như ký hiệu đầu tiênnày.”

Trác Mộc Cường Ba nhìn theo ngón tay của giáo sư Phương Tân, ký hiệu đó trông giống một chữ “mễ” (), có điều vạch ngang ở giữa lại thêm hai chỗ ngoặt, một lên trên một xuống dưới. Giáo sư Phương Tân nói tiếp: “Đây là ký hiệu biểu đạt hai chữ H và M.”

“H và M?” Trác Mộc Cường Ba thình lình thốt lên: “Hector Merkin!” Giáo sư Phương Tân nói: “Chuyện này, chỉ có thể nói là có khả năng xảy ra, chúng ta không có chứng cứ gì khác, không dám khẳng định.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy, còn tia chớp kia? Tia chớp kia đại diện cho Tây Tạng đúng không?” Giáo sư Phương Tân lắc đầu: “Tia chớp chính là chữ S trong tiếng Runic.” Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: “S? Không phải Tây Tạng à?” Giáo sư Phương Tân cười cười, nói: “Cậu đừng quên, còn có một nơi bắt đầu bằng chữ S.”

Trác Mộc Cường Ba giật mình sực nhớ ra: “Shangri-la! Shambhala! Nói như vậy có nghĩa suy đoán của Sean là chính xác, các tài liệu chính thức về Thế chiến II mà chúng ta thu thập được hoàn toàn trái ngược với sự thực! Đức Quốc xã chính vì tìm kiếm Shambhala nên mới tiến vào Tây Tạng, việc điều tra vấn đề nhân chủng ở Tây Tạng chỉ là cái cớ; tất cả chuyện này, đều có khả năng là do người tên Hector Merkin kia sắp đặt ra, tên này rốt cuộc là ai!”

Giáo sư Phương Tân nói: “Kỳ thực, còn có rất nhiều câu đố chưa lời giải đáp về Thế chiến II. Chẳng hạn như lần người của đảng Quốc xã tiến vào Tây Tạng này chẳng hạn, đã từng có rất nhiều học giả đặt ra các câu hỏi, ví dụ như nghi vấn về thân phận của Seifert chẳng hạn. Seifert được gọi là nhà bác vật học, rất nhiều học giả đã chỉ ra rằng, nhà bác vật học, là từ để chỉ những người có hiểu biết tinh thâm về rất nhiều ngành khoa học tự nhiên khác nhau, những người như vậy đếm trong lịch sử cũng chỉ có vài người, như là Da Vinci, Darwin, Newton… Họ tinh thông cả y học, vật lý, hóa học, thiên văn, địa lý, động thực vật học, đồng thời còn là người dẫn lưu cho cả dòng chảy khoa học kỹ thuật của thời đại mình. Nhưng năm đó Seifert mới hai mươi sáu tuổi, y có tư cách gì mà trở thành nhà bác vật học chứ? Có học giả suy đoán, nhà bác vật học đó là một người khác, đó mới là người thực sự phụ trách đội thám hiểm, còn Seifert chẳng qua chỉ là kẻ mượn danh mà thôi. Còn nữa, chuyên ngành của năm người thân phận công khai này cũng rất có vấn đề, tạm thời không nhắc đến Seifert nữa, nhưng hãy thử xem chuyên ngành của bốn người còn lại đi. Klose là nhà động vật học, Calvin nghiên cứu vật lý địa cầu, đồng thời cũng rất tinh thông địa chất và khí tượng học; Berger, trên các tài liệu thì người này là nhà nhân chủng học, về chuyên ngành này tôi đã tra xét rất kỹ, kỳ thực tiền thân của nhà nhân chủng học này chỉ là nhà giải phẫu. Trên thực tế, Berger là sinh viên chất lượng cao của đại học Heidelberg, về sau đã từng thí nghiệm trên cơ thể người trong các trại tập trung; còn cả Edmund Gustav này nữa, nghe nói người này là nhân viên quản lý thiết bị khí tài, nhưng theo các tư liệu chúng ta hiện có, y đã từng ở trong doanh trại huấn luyện của đơn vị đặc công thuộc lực lượng Waffen-SS, cũngtức là đội Bọ Cạp Đỏ một thời gian rất dài.”

Giáo sư Phương Tân cười nói: “Nhà động thực vật học, chuyên gia địa chất, bác sĩ, lính đặc chủng, thêm vào một nhà bác vật học nữa, cậu thử nghĩ xem, nếu chỉ nghiên cứu về chủng người, liệu có cần phái đi một tổ hợp như vậy hay không? Hay thử nói xem, một đội như vậy thì thích hợp làm việc gì hơn chứ?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Giống như chúng ta, đây là một đội thám hiểm điển hình, có thể ra vào những chốn hoang dã không dấu chân người.”

Giáo sư Phương Tân lại nói: “Nếu thêm vào tám người bí mật kia, chúng ta sẽ thấy rõ hơn nữa, HM thì không cần nói rồi, rất có khả năng y mới chính là người phụ trách thực sự của hành động này, lại là một nhà bác vật học nữa; ngoài ra còn có AFH, cũng là một bác sĩ, GK là chuyên gia cơ khí công trình; AL, nhà khảo cổ học; FF, nhà sử học; ngoài ra còn ba thành viên của đội Bọ Cạp Đỏ. Nếu nói bọn họ cùng hành động, vậy thì, một nhóm người như vậy sẽ đi đâu, làm gìchứ?”

Trác Mộc Cường Ba nghe mà lòng bàn tay đã ướt đẫm mồ hôi, trầm giọng nói: “Bọn họ muốn tìm một nơi có khả năng tồn tại trong lịch sử, đồng thời cũng có thể có rất nhiều cơ quan cạm bẫy.”

Giáo sư Phương Tân tiếp tục di chuột, nói: “Danh sách vật tư này là một phần các thứ thiết bị máy móc họ mang vào TâyTạng.”

Trác Mộc Cường Ba đọc rất cẩn thận, thấy danh sách liệt kê rất tỉ mỉ nào là quần áo, giày vớ, lều bạt, ba lô, đồ đựng nước, đồ làm bếp, dao kéo, dụng cụ leo núi… chi chít phải đến mấy trang, đặc biệt là phần binh khí, vũ khí được kê ở đây đủ để mỗi thành viên trong đội vũ trang tới tận răng, thậm chí còn dư thừa ra nữa. Hơn nữa, dựa vào tư liệu phim âm bản, có thể thấy đây chỉ là một danh sách chưa hoàn chỉnh, phía sau còn rất nhiều thứ nữa vẫn chưa được kê ra. Trác Mộc Cường Ba càng xem càng tin tưởng rằng nhóm người này quyết không phải đến Tây Tạng để tìm kiếm tổ tiên của người Aryan. Gã ngạc nhiên hỏi: “Dù là đi tìm Shangri-la cũng không cần nhiều thứ đến thế chứ nhỉ?”

Giáo sư Phương Tân thở dài: “Đúng vậy, nếu không hiểu về giai đoạn lịch sử ấy, khó mà lý giải được. Một phần vật tư ở đây là để chuẩn bị cho đồng minh của bọn họ.”

“Đồng minh?”

“Ừm, nước Anh, ngạc nhiên lắm phải không? Sự thực là, trước khi Thế chiến II nổ ra, quan hệ của hai nước Anh Đức vốn rất tốt. Sau Thế chiến I, nước Đức có thể nhanh chóng trỗi dậy như vậy, cũng là nhờ sự ủng hộ của hai nước Anh Mỹ. Nanh vuốt của Đế chế thứ ba từ từ vươn rộng, đồng thời trở nên sắc bén, nhưng trong toàn bộ quá trình ấy, nước Anh vẫn giữ thái độ mặc nhiên thừa nhận, nhẫn nại, nhượng bộ, cho đến cuối cùng không thể nhân nhượng được nữa mới thôi. Đội thám hiểm của Seifert đi qua chính khu vực do nước Anh kiểm soát để tiến vào Tây Tạng, bởi vì khi đó bọn họ đã hợp tác hành động. Ở đây tôi có một bản tài liệu, là nhật ký hành trình của FF viết. Tài liệu này không dài lắm, tôi đã in ra rồi đây, cậu thử xem qua đi.”

Trác Mộc Cường Ba đón lấy mấy trang giấy đó, đọc lướt qua ghi chép của FF. “17 tháng Một năm 1939, Thứ Ba.

Hôm nay, chúng tôi đến Tuca, HM nói chúng tôi sẽ men theo mạch núi tiến về phía Tây, nhưng lại ngấm ngầm hạ lệnh, phải cẩn thận đề phòng sự ‘hợp tác hữu hảo’ của đám người Anh và sự dòm ngó của các nước khác. Vì vậy, dọc đường, năm người bọn EF không thể không làm bộ điều tra đám người dân tộc Tạng, chụp đủ thứ ảnh. Thời tiết ở đây khô hanh, lạnh lẽo dị thường, khiến tôi nhớ đến vùng Interlaken[17]. Vậy mà chúng tôi vẫn phải lên núi nữa. Cũng may là còn có hơn hai chục tên nô lệ đi theo.”

“Ngày 23 tháng Hai năm 1939, Thứ Năm.

Sau khi hoàn thành công việc đo đạc của ngày hôm nay, bầu trời bỗng đổ tuyết, mới đầu còn là những hạt nhỏ như hạt muối, về sau thành những vạt lớn như lông ngỗng, hai bên bờ sông đã đóng băng từ lâu, chỉ còn lại ở giữa sông một dòng nước nhỏ như suối trên núi tuôn xuống, chảy ra vùng hoang nguyên bằng phẳng mênh mông, tựa như một con rắn đang không ngừng ngọ ngoạy thân mình, không thấy đầu không thấy đuôi.

HM nói, năm đó ông MS đã hoạt động ở vùng này và tìm được rất nhiều đầu mối quan trọng, chúng ta nên xây dựng một căn cứ địa ở đây, tạm thời nghỉ ngơi chỉnh đốn. Nhưng tôi lấy làm lạ, dọc đường tới đây, tôi không hề phát hiện ra bất cứ dấu tích hoạt động nào của con người. HM nói, sẽ có, ở ngay phía trước kia thôi có một bộ lạc nguyên thủy. Sao anh ta biết được nhỉ? Có lẽ anh ta đã đến đây rồi, tôi có thể nhìn thấy điều đó trong ánh mắt HM.”

“Ngày 10 tháng Ba năm 1939, Thứ Sáu.

Tuyết lớn không ngừng rơi, theo lý thì không thể có tuyết rơi kéo dài như vậy được, ít nhất là trong lịch sử Tây Tạng mà tôi tìm hiểu được là không có. Hôm nay tôi mới biết, chỗ chúng tôi ở đây đã từng thuộc về cương thổ của một vương triều cổ xưa. Đáng tiếc là, tuyết lớn đã bít kín đường đi của chúng tôi, nên tôi chẳng thấy được dù chỉ một di chỉ hoang phế. Nhưng HM nói, trong khu vực này, có rất nhiều pháo đài không người còn sót lại. Phóng mắt nhìn ra xa, tuyết trắng dồn thành rấtnhiều gò đống nhỏ. HM nói, trông chúng rất giống nấm mồ kiểu Trung Quốc. Tôi thì chỉ cảm thấy gió lạnh buốt cả người, xem ra, HM hiểu rất rõ về Trung Quốc, trước nay tôi vẫn tưởng rằng anh ta chỉ biết về Tây Tạng, và dân tộc cổ xưa thần bí sống ở mảnh đất đó.”

“Ngày 29 tháng Ba năm 1939, Thứ Tư.

Đây là tòa thành thứ năm chúng tôi thăm dò, người nào người nấy đều đã mệt lử cả, lại chết mất hai tên nô lệ, thêm vào lũ muốn trốn chạy đêm qua, chúng tôi chỉ còn lại một nửa số nô lệ. Kurt hỏi chúng tôi có cần điều động thêm một đợt nô lệ nữa đến không, nếu vậy thì anh ta phải dẫn theo mấy người trở về Ấn Độ. HM đã từ chối, bọn họ đều có ý đồ riêng của mình cả. Tôi nhận ra được, chẳng ai là không có suy tính riêng của mình, kể cả đám nô lệ kia nữa. Có lẽ, giờ chỉ còn GK và AL là không có tâm tư gì, bọn họ gần như đã phát điên lên với những đống đổ nát mới khai quật được, cơ hồ như là không ăn không ngủ. Cảnh tượng chết thảm của bốn tên nô lệ hôm trước, tôi vẫn còn nhớ rõ như in, vậy mà GK lại nói đó là thành tựu lớn của môn Cơ quan học, thật khó mà tin được cổ nhân từ mấy trăm năm trước lại có kỹ thuật đến như thế. HM nói, đó chính là khoa học kỹ thuật thần bí của phương Đông, thời kỳ phát triển thành thục đã cách đây cả nghìn năm có lẻ. Những người dân Tạng xa xưa đã kế thừa thứ khoa học kỹ thuật ấy một cách hết sức hoàn hảo. Tôi không tin, nếu nói từ hơn nghìn năm trước người phương Đông đã phát minh và sáng tạo ra các máy móc thiết bị như thế, lẽ ra họ phải bước vào thời đại công nghiệp huy hoàng từ lâu lắm rồi, đó sẽ là một sức mạnh kỹ thuật mà bất cứ dân tộc hay quốc gia châu Âu nào cũng không thể theo kịp, chứ không phải lạc hậu kém cỏi như bây giờ. HM còn nói, từ hainghìn năm trước, người phương Đông đã dùng chất liệu gỗ chế tạo ra cỗ máy có thể bay lượn trên không trung, đó nhất định là thần thoại!”

“Ngày 7 tháng Bốn năm 1939, Thứ Sáu.

Sau khi khai quật đống đổ nát thứ bảy, sự việc không thuận lợi như trong dự kiến. TXT bị thương rất nặng, mặc dù ES và AFH đã dốc hết sức cứu chữa, nhưng cuối cùng chúng tôi vẫn phải chôn anh ấy dưới đó. Trong mắt HM lộ ra vẻ thất vọng khôn cùng, anh ta bắt đầu than trách tài liệu của Kurt cung cấp không được chuẩn xác. Kurt nói tất cả tài liệu đều là thông tin xác thực của ông MS lưu lại, nếu ghép tư liệu của hai bên vào với nhau, có lẽ sẽ hoàn chỉnh. Anh ta còn bảo, nhất định là tư liệu của chúng tôi có vấn đề. Bọn họ cãi nhau rất lớn tiếng, nhưng không hề cho chúng tôi tham gia vào cuộc ‘thảo luận’ đó, họ đang nói đến tư liệu gì vậy? Đã rời nhà sắp được năm tháng rồi, tôi bắt đầu thấy hoài niệm về ngôi nhà xưa của mình rồi.”

“Ngày 5 tháng Sáu năm 1939, Thứ Hai…

Kurt và mấy người Anh khác đều đã chết cả rồi, tôi không tin đây là tai nạn. Dường như HM đã phát hiện ra điều gì đó, tôi nghe thấy anh ta thảo luận với AL rằng, vẫn còn những tài liệu khác chưa tìm thấy được, sau đó anh ta nói với chúng tôi, anh ta sẽ cùng EF trở lại Lhasa, dọc đường sẽ ghé thăm chào hỏi các quý tộc và quan viên địa phương, cuối cùng sẽ trở về nước Đức. Anh ta yêu cầu chúng tôi ở lại, trời đất ơi, những ngày tháng ấy đến bao giờ mới kết thúc đây. Trước lúc anh ta lên đường, tôi nói với HM nỗi lo lắng về người Anh, cả một đội ngũ cùng xuất phát, mà lại không có một người Anh nào sống sót trở về, điều này rất dễ khiến phía Anh kháng nghị. HM nói không cần lo lắng, sự việc sẽ được giải quyết. Anh ta cười rất thần bí, không, phải nói là rất quái dị mới đúng.”

Bạn đang đọc Mật Mã Tây Tạng của Hà Mã
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 78

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.