Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

SỬ LIỆU BÍ MẬT VỀ VIỆC QUÂN ĐỨC TIẾN VÀO TÂY TẠNG

Phiên bản Dịch · 28851 chữ

CHƯƠNG 40:

SỬ LIỆU BÍ MẬT VỀ VIỆC QUÂN ĐỨC TIẾN VÀO TÂY TẠNG

Trước mắt, các tài liệu văn thư chính thức đã được giải mật, thể hiện rõ rằng, năm 1937, có một đội đặc công Nazi được Hitler và trợ lý hàng đầu của ông ta là Himmler đặc phái, bí mật xâm nhập Tây Tạng. Bọn họ ở Tây Tạng suốt một năm, vẽ được rất nhiều bản đồ, còn quay phim chụp ảnh nữa. Kế hoạch đó được gọi là Cực Bắc. Hitler tin rằng tổ tiên của người Aryan bắt nguồn từ đó, nền văn minh Atlantis đã biến mất cũng ở đó, chỗ ấy là trục trung tâm của địa cầu, thay đổi trục trung tâm này, ắt sẽ có thể thay đổi chiều quay trái đất, cũng như vận mệnh của tất cả các quốc gia trên hành tinh này.

Tòa thành khắc đá

Trác Mộc Cường Ba vừa trở lại giường bệnh thì Đường Mẫn đẩy cửa bước vào, vừa thấy tấm chắn lỗ thông khí điều hòa chính giữa trần nhà biến dạng, và dấu chân chi chít trên tường, cô lập tức hiểu ra Trác Mộc Cường Ba vừa làm gì. Cô trách móc: “Anh xem anh kìa, chẳng khác nào đứa trẻ cả, em đã bảo bao nhiêu lần rồi, vết thương của anh vừa mới lành, có mấy chỗ còn chưa cắt chỉ nữa, cứ làm loạn lên như thế, vết thương có thể vỡ ra bất cứ lúc nào đấy.”

Trác Mộc Cường Ba cười hì hì, bật người dậy kéo Đường Mẫn lại nói: “Em xem đi, anh nằm lì trên giường không cử động nhúc nhích gì mấy hôm liền rồi, thực sự là khó chịu bức bối lắm mới vận động một chút cho giãn gân cốt thôi. Em nói xem, có phải anh thuộc loại thừa tinh lực hay không? Sớm biết thế này, anh đã cùng đi Moscow với mấy người nhóm Ba Tang rồi, đột nhiên anh lại rất muốn đi Moscow, đã lâu lắm không trở lại nơi ấy rồi.”

Đường Mẫn véo tai Trác Mộc Cường Ba nói: “Anh ấy à, chính vì không tự quản nổi mình, nên mới cần có em để quản lýanh!”

Trác Mộc Cường Ba xoay mặt Đường Mẫn lại, thì thầm nói: “Giờ sức khỏe của anh cũng hồi phục kha khá rồi, hay là, đằng nào bây giờ cũng không có ai đến…” Đường Mẫn “ậm ừ” mấy tiếng, dường như muốn rút người ra khỏi vòng tay Trác Mộc Cường Ba, nhưng chỉ nhúc nhích mấy cái rồi không phản kháng gì nữa.

“Cộc cộc cộc… có ai không?” giọng tên béo vang lên thật không hợp lúc một chút nào. Đường Mẫn vội vàng chỉnh lại đầu tóc rối bù, Trác Mộc Cường Ba cố nuốt đầy một bụng tức, nằm lại xuống giường, theo như chỉ đạo của giáo sư Phương Tân. Giờ đây gã cần phải làm một kẻ thất bại cùng cực, vì bị thất bại liên tiếp mà trở nên sa sút tinh thần.

Tên béo bước vào đã cười toe toét nói: “Ồ, ở đây hết cả à, xem ra Trác Mộc Cường Ba tiên sinh cũng đỡ nhiều rồi đấy nhỉ.” Y cố làm bộ trấn định, nhưng vẻ nôn nóng trong ánh mắt kia thì không thể giấu nổi Trác Mộc Cường Ba.

Trác Mộc Cường Ba uể oải nói: “Sau khi anh đi, tôi nghĩ rất nhiều, tuy rằng những món châu báu ấy cũng có sức hấp dẫn rất lớn, ừm, nhưng trải qua bao nhiêu chuyện như vậy, tôi cũng đã hiểu ra rồi, quý giá nhất vẫn là mạng sống của mình. Tôi không còn hứng thú gì với những thứ anh nói nữa, giờ chỉ muốn hưởng thụ cuộc sống cho tốt thôi, nếu anh cứ cố chấp muốn có được những báu vật ấy, tôi chỉ còn biết thành thật tặng anh một lời khuyên… chớ nên vì kho báu trong tưởng tượng mà để mất tính mạng thật của mình!”

Tên béo thấy Trác Mộc Cường Ba nói năng có vẻ dịu đi, vội vàng thuận thế đưa đẩy: “Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, rõ ràng là ông vẫn chưa hiểu hết ý của tôi rồi. Chúng tôi chỉ cần một số thông tin và các tài liệu, nếu ông có thể cung cấp, chúng tôi sẽ tặng ông một món tiền lớn, đảm bảo nửa đời về sau ông không cần phải lo nghĩ gì nữa, ngày ngày có thể nằm trên ghế dài mà thưởng thức các cô gái xinh đẹp trên bãi biển, thật tự do thoải mái biết bao. Ông không cần phải đích thân đi đến nơi đó, chỉ cần thông tin ông cung cấp cho chúng tôi chính xác, đáng tin cậy, chúng tôi sẽ đền đáp hậu hĩnh, thếnào hả? Nếu ông đồng ý, xin báo cho một con số, để xem chúng tôi có thể khiến ông hài lòng hay không?”

Trác Mộc Cường Ba muốn báo ra một con số để đối phương biết khó mà lui, bèn tiện mồm đáp: “Năm tỷ”, định nói xong thì quan sát sắc mặt của tên béo, nếu thấy y có chút gì do dự, sẽ lập tức bồi thêm một câu, đây chính là tổng tài sản năm đó của công ty gã, kỳ thực, con số ấy đã gấp năm mươi lần giá trị thực của công ty gã rồi.

“Được, quyết định vậy đi.” Không ngờ, tên béo kia không nghĩ ngợi gì đã nhận lời luôn. Trác Mộc Cường Ba liền nói: “Tôi nói là đô la Mỹ đó!”

Tên béo cười giả lả nói: “Đương nhiên là đô la Mỹ rồi, nếu là nhân dân tệ thì chúng tôi cũng không có cách nào mà đổi được nhiều tiền như thế đâu. Nhưng có điều…” Y lại nói: “Tôi cần phải xác nhận xem thông tin mà Trác Mộc Cường Ba tiên sinh cung cấp có đáng với cái giá ấy không trước đã, yêu cầu này không có gì là quá đáng chứ?”

Trác Mộc Cường Ba tùy tiện chọn ra một phần những việc đã trải qua để kể lại, như ở châu Mỹ thì chủ yếu nói về rừng rậm, ở Tây Tạng hầu như chỉ nói về môi trường, hoàn cảnh địa lý ở Mặc Thoát, những chỗ quan trọng gã chỉ lướt qua một chút, về các tượng Phật thì hoàn toàn là ghép chỗ này một chút, ghép chỗ kia một chút, thậm chí bản thân gã cũng chưa từng thấy những tượng Phật ấy bao giờ nữa. Riêng về các cơ quan cạm bẫy, Trác Mộc Cường Ba gắng sức lục lọi trong các tiểu thuyết thám hiểm và phim ảnh khoa học viễn tưởng mình từng xem qua, có chỗ nói nhanh quá, suýt chút nữa thì lỡ miệng kể ra cả pháo laze nữa. Có điều, những gì ở núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc thì gã nói ra đến năm phần sự thực, cứ nửa thật nửa giả như vậy, khiến người nghe thật khó tài nào mà phân biệt nổi.

Tất cả chuyện xảy ra trong hơn hai năm, Trác Mộc Cường Ba tổng cộng chỉ nói mất có hơn ba phút đồng hồ. Tên béo dùng bút ghi âm điện tử ghi lại toàn bộ. Kể xong, Trác Mộc Cường Ba liền nói: “Có nhiêu đó vậy thôi.” Tên béo nhìn gã với ánh mắt nghi hoặc: “Không đến nỗi vậy chứ, nghe nói Trác Mộc Cường Ba tiên sinh từng ở trong đội ngũ của nhà nước Trung Quốc hơn hai năm, lẽ nào những việc trải qua chỉ có bao nhiêu đấy thôi?”

Trác Mộc Cường Ba sực nhớ đến Ba Tang, gương mặt liền lộ ra nét đau khổ vật vã: “Dĩ nhiên, những điều tôi biết không chỉ có vậy, nhưng… nhưng… đó… đó là những thứ tôi không muốn nhớ lại nữa, tôi không biết nên nói như thế nào, nhưng cứ hễ nghĩ đến những chuyện ấy, tôi lại… tôi lại… a… đau đầu quá! Đầu tôi, đầu tôi đau quá!”

Đường Mẫn vội phối hợp, nắm chặt tay Trác Mộc Cường Ba, lo lắng nói: “Sao vậy? Anh không sao chứ? Có cần em đi gọi bác sĩ không?”

Tên béo kia liền ân cần hỏi han: “Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, ông phải nhẫn nại, nhất định phải cố gắng nhớ lại những chuyện kia mới được, đó mới là nội dung quan trọng nhất đấy!”

Trác Mộc Cường Ba lấy tay ôm chặt lấy đầu, một lúc sau lại bấu chặt vào ga trải giường, lăn qua lăn lại một lúc lâu, miệng cứ kêu mãi không ngớt: “Không được, đau đầu quá! Á!…” Tên béo gí sát chiếc bút thu âm vào miệng Trác Mộc Cường Ba, cố bức ép: “Cố nhớ một chút thôi, một chút thôi cũng được!”

Đường Mẫn đột nhiên chộp lấy chiếc gối trên đầu giường, đập tới tấp vào đầu vào mặt tên béo, vừa vung chân múa tay, vừa khóc lóc kêu gào: “Anh ấy đã như vậy rồi, các người còn muốn ép nữa hay sao! Rốt cuộc ông có còn là con người nữa không! Cút đi! Cút đi! Cút ra ngoài cho tôi!”

Tên béo bấy giờ mới chần chừ đi ra, nét mặt đầy vẻ không cam tâm: “Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, ông hãy nghỉ ngơi cho khỏe, tôi… hai ba ngày nữa sẽ qua tìm ông, nhất định ông phải nhớ lại đấy…”

“Cút đi!” một chiếc gối bay tới, làm cửa phòng đóng sập lại. Trác Mộc Cường Ba thở phào một hơi nói: “Em đi gọi bác sĩ, tiện thể xem hắn đã đi hay chưa.”

Đường Mẫn ngẩng đầu lên, nước mắt đầm đìa, bộ dạng trông thật đáng thương vô cùng. Trác Mộc Cường Ba cẩn thận lau vệt nước mắt trên gương mặt bầu bĩnh của cô, kinh ngạc nói: “Không phải chứ, em khóc thật đấy à? Công chúa nhỏ, sao nhiều nước mắt thế không biết? Lẽ nào em đã trở thành… mà bọn Trương Lập cứ nói ấy…”

Đường Mẫn cắn cắn môi, véo mũi Trác Mộc Cường Ba một cái: “Anh còn nói nữa, đều tại anh cả thôi! Em còn tưởng anh… anh thực sự… anh còn trêu người ta nữa…” Nói đoạn, sống mũi cô lại thấy cay cay, như thể muốn khóc òa lên tới nơi.

Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Được rồi, được rồi, thì ra là anh diễn xuất giống thật quá à. Có điều, nói đi cũng phải nói lại, Mẫn Mẫn của anh đúng là có thiên tài biểu diễn đấy nhé, nếu em mà tham gia vào giới nghệ thuật, nói không chừng lại trở thành nghệ sĩ nổi tiếng cũng nên.” Đường Mẫn nghe câu ấy xong mới đổi giận làm vui, đang khóc lại nhoẻn miệngcười.

Sau khi xác định tên béo đã đi hẳn rồi, Trác Mộc Cường Ba lại liên lạc với giáo sư Phương Tân. Nghe gã kể lại mọi chuyện, giáo sư nói: “Cậu nói xem, tại sao tên béo ấy lại tỏ ra lo lắng bất an như vậy nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba vừa mở miệng định nói, giáo sư Phương Tân đã lại nhắc nhở: “Nhớ kỹ, nhìn sự việc phải nhìn thứ ẩn giấu đằng sau nó.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi biết, thông tin đã lan truyền ra. Những kẻ biết được tin này chắc chắn là không chỉ có mình bọn hắn. Hắn cần phải lấy được thông tin từ tôi trước khi các tổ chức khác tìm thấy, vì vậy mới không thể nào ung dung cho được.”

Giáo sư Phương Tân gật đầu nói: “Đúng vậy, còn một khả năng nữa, đó là có tổ chức khác đã để ý đến cậu rồi, chỉ có điều bọn họ vẫn đang ngấm ngầm xung đột, nói không chừng, ở những chỗ chúng ta không thấy được, các thế lực này đã đi đến giai đoạn nước lửa xung khắc, đang chuẩn bị đánh nhau một trận tưng bừng rồi cũng nên.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Còn một điểm nữa, khi tôi đưa ra con số năm tỉ đô la Mỹ với tên béo ấy, hắn không cần nghĩ ngợi gì đã nhận lời luôn. Chuyện này xét về tình, về lý đều không ổn lắm, rõ ràng là chúng đã lòi đuôi ra rồi.” Giáo sư Phương Tân nói: “Ừm, nói vậy nghĩa là sao?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Lúc đưa ra con số năm tỉ, tôi cũng đã suy tính rồi. Thầy giáo, thầy nghĩ thử xem, có năm tỉ đô la Mỹ rồi, muốn làm gì mà chẳng được, tại sao lại cứ phải đi tìm cái ngôi thần miếu xa xăm mờ mịt ấy làm gì chứ? Ngoại trừ thằng ngốc ra, họa may chỉ có thằng điên mới đi làm chuyện kiểu như thế. Hơn nữa, tên béo đó tự xưng mình cũng chỉ là một người đưa tin mà thôi, hắn có quyền quyết định gì mà dễ dàng chấp thuận trả một cái giá lớn như vậy cơ chứ. Vì vậy, tôi cho rằng, ý đồ của bọn chúng là, bất kể tôi đưa ra điều kiện hay yêu cầu gì, trước tiên cứ chấp nhận đã, mục đíchchỉ là lấy được thông tin từ chỗ tôi, bất cứ thông tin nào cũng được. Có điều, tên béo ấy làm lộ liễu quá, ngược lại mới để lộ ra sơ hở.”

Giáo sư Phương Tân cười cười nói: “Xem ra những ngày này cậu cũng không nằm không trong bệnh viện, cuối cùng đã dần dần hồi phục được năng lực tự tư duy rồi. Nhưng vậy vẫn chưa đủ đâu, muốn trở thành người quyết sách, cậu cần phải nghĩ được nhiều hơn, xa hơn nữa. Mấy ngày tới, mấy người bọn Trương Lập sẽ qua Thượng Hải, rồi tới Lhasa, lúc đó thương thế của cậu chắc cũng đỡ nhiều rồi, có thể cùng bọn họ trở về. Nhớ kỹ, lúc đi đừng có kéo theo mấy cái đuôi nữa đấy!”

Trác Mộc Cường Ba hiểu, giáo sư Phương Tân bảo gã đừng để các thế lực nước ngoài cũng đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu kia bám theo về Tây Tạng, bèn gật đầu đồng ý. Tối hôm đó, giáo sư Phương Tân lại liên lạc với Trác Mộc Cường Ba, nói đã sắp xếp được một phần tư liệu mới. Trác Mộc Cường Ba vội bật mạng lên, liền được giáo sư gửi cho bản chụp của mấy quyển trục. Vừa nhìn những văn tự ấy, gã lập tức hiểu ra, lại có một phần Cổ cách kim thưnữa được dịch ra.

Giáo sư Phương Tân nói: “Không sai, đến giờ tôi mới biết, thì ra lúc chúng ta xin gia nhập đội huấn luyện đặc biệt của nhà nước, một phần nội dung của quyển trục này cũng vừa khéo trở về với tổ quốc, chính là phần nhắc đến quốc vương và sứ giả đó. Còn trước khi chúng ta sang châu Mỹ, các chuyên gia lại phá giải thêm được đoạn sứ giả mang theo Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu đến nơi chân trời góc biển. Dựa vào những tài liệu chúng ta hiện đang nắm trong tay, có thể đưa ra kết luận rằng, quyển trục này, rất có khả năng là vật đã bị Morton Stanley mang đi từ vương triều Cổ Cách. Hiện nay,chúng ta chỉ có thể dựa vào hành trình hơn trăm năm trước của Morton Stanley để đưa ra một kết luận đại thể. Morton Stanley đã tới Cánh cửa Sinh mệnh. Ở đó, ông ta đã phát hiện ra đầu mối quan trọng. Để không ai biết được những đầu mối này, ông ta đã vơ vét sạch những vàng bạc châu báu, và phóng hỏa thiêu đốt sạch sẽ mọi dấu vết. Những dấu vết ấy có lẽ là chỉ đến Đảo Huyền Không tự, thế nhưng, Morton Stanley vốn không hiểu biết về lịch sử Mật giáo Tây Tạng, nên đã tưởng lầm đó chính là vương triều Cổ Cách, mà sự thực thì, Đảo Huyền Không tự cũng ở ngay bên dưới lòng đất di chỉ Cổ Cách. Vì vậy, Morton Stanley đã lần theo đầu mối đến Cổ Cách, mang đi toàn bộ châu báu của vương triều, bao gồm cả những quyển trục đó, và cả tấm bản đồ nữa. Chuyện sau này ra sao, thì mọi người đều biết cả rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nghe giáo sư Phương Tân phân tích xong, cảm thấy hết sức rộng mở thông suốt, liền gật đầu nói: “Thì ra là vậy, bởi vì ở Cánh cửa Sinh mệnh và vương triều Cổ Cách đều có thể thấy sự sùng bái hết mực đối với Đảo Huyền Không tự và Bạc Ba La thần miếu, vì vậy Morton Stanley mới tin rằng, những gì ông ta tìm thấy chẳng qua chỉ là hạt cát trong sa mạc, còn viên ngọc thực sự, vẫn đang ẩn giấu ở nơi đâu đó trên đất Tây Tạng này.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Bên trên có một đoạn ghi chép, viết rằng, trước khi vương triều Cổ Cách được thành lập, nơi đó vốn là lãnh địa của vương triều Tượng Hùng. Có lẽ cũng là dựa theo các ghi chép trong văn thư của Tượng Hùng, rằng, Tượng Hùng vương đã từng phát hiện ra thần tích ở đây, vì vậy mới chọn đất này làm nơi dựng đô lập nước. Cái gọi là ‘thần tích’ đó, theo tôi đoán có thể chính là tiền thân của Đảo Huyền Không tự, ở đó có một đại hiệp cốc bên dưới lòng đất, có nham động và bích họa, những bức tranh chì than mà chúng ta phát hiện, có lẽ là do những người thượng cổ sống trong hang động ở hai bên vách núi này trong thời kỳ đầu tiên để lại. Đối với người Tượng Hùng mà nói, đây chắc chắn là thần tích, mà vương triều Tượng Hùng thì lại tin theo Bản giáo cổ đại, không khó để tưởng tượng rằng, tôn giáo thần bí của pháp sư Á La, có lẽ đã dựa trên cơ sở các hang động của người xưa, để xây dựng nên Đảo Huyền Không tự từ thời vương triều Tượng Hùng.”

Trác Mộc Cường Ba không kìm nổi phát ra một tiếng kêu khe khẽ. Những điều ấy, quả là rất có khả năng xảy ra.

Giáo sư Phương Tân tiếp lời: “Người Cổ Cách biết rằng người Tượng Hùng có một tòa cung điện thần kỳ, nhưng họ lại không sao tìm được lối vào Đảo Huyền Không tự, có còn nhớ đường hầm chúng ta phát hiện được trong đàn tế Mạn Đà La cuối cùng không? Đó chính là nơi tiếp giáp giữa Đảo Huyền Không tự và di chỉ Cổ Cách. Tôi tin rằng, các vị Cổ Cách vương cũng nghĩ, tòa thần miếu ấy có lẽ chính là ở dưới lòng đất, nên bao đời vẫn không ngừng bí mật đào bới bên trong căn mật thất cuối cùng đó. Thật đáng tiếc, họ chỉ còn cách Đảo Huyền Không tự có nửa mét nữa thôi. Như vậy là tất cả các đầu mối lịch sử đã kết nối với nhau được rồi. Ôi, lịch sử thời viễn cổ, những trang sử thần bí đã bị lãng quên…” giáo sư Phương Tân không khỏi cảm thán thốt lên.

Trác Mộc Cường Ba nín thở, nhất thời cũng không nói được lời nào.

Cuối cùng, giáo sư Phương Tân thở dài một hơi, đoạn nói: “Được rồi, đại thể các đầu mối là vậy đấy. Ở đây đều là những nội dung tôi phân tích dựa trên cơ sở một nửa là suy đoán, muốn nghiệm chứng thì vẫn còn thiếu rất nhiều căn cứ lịch sử. Có điều, chuyện này không quan trọng lắm, cậu chỉ cần hiểu được cũng đủ rồi. Tối nay, chủ yếu là tôi muốn cho cậu xem thứ này, cậu xem đi…” Ông nói xong, liền cho phóng đại một đoạn văn tự trên màn hình lên, bên dưới còn gạch đỏ làm ký hiệu, “Chỗ này là câu chuyện về quốc vương và sứ giả mà Lữ Cánh Nam từng nói với chúng ta. Cậu xem ở đây đi,quốc vương cho vời thợ giỏi đến, hàng ngày từ sáu giờ đến bảy giờ sáng, phục chế Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu. Còn ở đây nữa, sau khi hoàn thành, quốc vương rất không hài lòng, nói với đám thợ thuyền rằng ‘Đồ đá dễ mục nát, thành bảo phải trường tồn vĩnh cửu’. Hai đoạn này có hàm nghĩa gì chứ?”

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Tại sao lại là sáu giờ đến bảy giờ sáng hàng ngày?”

Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Tốt lắm, tại sao lại là từ sáu giờ đến bảy giờ sáng? Vấn đề này rất đáng để chúng ta suy nghĩ tìm hiểu. Khoảng thời gian này, có lẽ là lúc mặt trời dâng lên khỏi đường chân trời. Còn nữa, tòa thành này được khắc tạc trên một tảng đá khổng lồ, cũng có nghĩa là, Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu này là một hình lập thể có thể nhìn thấy được, kỳ thực, không chỉ có thể dịch ra là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, mà dịch thành Cung điện phát ra ánh sáng, hay Vùng đất thần thánh phản quang đều được cả. Vì vậy, chúng ta có thể suy đoán một cách sơ bộ rằng, cổ nhân đã vận dụng kỹ thuật phản xạ, chiết xạ ánh sáng, có lẽ là gần như kỹ thuật chúng ta đã nhìn thấy ở Cự thạch trận Cổ Cách. Còn câu nói, đá núi dễ mục nát, thành bảo mãi trường tồn của quốc vương là chỉ ý gì nhỉ? Có phải muốn nói rằng, Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu ấy, có thể giữ được còn bền lâu hơn cả đá núi hay không?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Còn đầu mối nào khác không?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Còn mấy chỗ nữa, cũng ẩn chứa hoặc ám thị nội dung gì đó, nhưng giờ chúng ta không thảoluận chuyện ấy vội. Cậu có biết lúc tôi vừa đọc được những miêu tả bức điêu khắc trên đá, đã nghĩ đến điều gì không?” “Điều gì?”

“Cậu xem đoạn phim này đi, đó là những hình ảnh chúng ta ghi lại được trong mật thất dưới lòng đất của vương triều Cổ Cách đấy.”

Mật thất Cổ Cách lấp lóa ánh sáng mờ nhạt phát ra từ đèn trên mũ, bên trong đã bị vơ vét sạch sẽ, chỉ còn lại hai món đồ vật, chính là chiếc bàn đá hình vuông gắn liền với nền đất, và một khối điêu khắc lớn bị sa hóa nghiêm trọng, không thể nhìn ra hình dạng ban đầu nữa. Bấy giờ Trác Mộc Cường Ba cuống cuồng lo lắng cho Đường Mẫn, hoàn toàn không hề chú ý đến những thứ đó, về sau khi xem lại phim ghi hình, đa phần đều là tua lại những hình ảnh giáo sư Phương Tân quay được trong ba tầng cung điện, riêng đoạn phim trong mật thất Cổ Cách không khiến gã chú ý nhiều lắm. Bây giờ, nghe giáo sư Phương Tân giải đáp nghi vấn, rồi xem lại khối đá lớn đã bị sa hóa kia, gã bất giác ngạc nhiên thốt lên: “Lẽ nào, thầy giáo muốn nói, tảng đá này, chính là…”

Giáo sư Phương Tân nói: “Nếu nói tất cả châu báu vàng bạc, quyển trục và một tấm bản đồ đã bị Morton Stanley mang đi khỏi mật thất này, và cả một tấm bản đồ chúng ta phát hiện được nữa, hai tấm một thật một giả, đều liên quan đến Bạc Ba La thần miếu, thì khối đá đã bị sa hóa đến không còn hình dạng ban đầu này, rất có khả năng, chính là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu mà Cổ Cách vương lưu giữ lại đó.”

Trác Mộc Cường Ba nửa kinh ngạc pha lẫn mừng rỡ, nửa lại tiếc nuối không thôi, nói: “Nếu đúng là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, thì nó đã mất đi hình dáng ban đầu rồi, chúng ta đâu có thu hoạch được gì chứ?”

Giáo sư Phương Tân nói: “Không phải vậy, tuy có một bộ phận đã bị sa hóa, nhưng hình thái đại thể vẫn còn, cậu nhìn bàn đá này đi, từ độ cao và độ nghiêng vẫn chưa bị sa hóa này có thể thấy, hiển nhiên nó không phải là hình gò đống, mà có lẽ là vùng núi, bằng không thì cũng là khe nứt hay địa hào.” Màn hình dừng lại trên một hình ảnh liền sau đó được giáo sư Phương Tân cho phóng to lên, chỉ thấy bên trên bàn đá, hiện ra một đường rãnh nhỏ, “Tôi đã hỏi ý kiến các chuyên gia trong lĩnh vực này. Nhìn những dấu vết vẫn chưa hoàn toàn bị sa hóa, chỗ cao gồ lên này, rõ ràng có những vết lõm, sau khi được các chuyên gia xác nhận kỹ càng, ít nhất là có ba đường rãnh như thế, nếu chúng vươn ra khỏi vách đá, có lẽ là địa mạo cao nguyên có thể hình thành nên địa hình ba bậc mà không xảy ra đứt gãy, ít nhất cũng phải là núi đá hoa cương kiên cố. Cũng không loại trừ khả năng là do nham thạch núi lửa chúng ta đã thấy ở đại hiệp cốc dưới lòng đất tạo nên. Còn nguyên một nửa bên kia bàn đá đã được làm phẳng, nhìn không ra bất cứ dấu vết chạm trổ điêu khắc nào. Cấu trúc này, làm chúng ta nghiêng về nhận định rằng đây là địa hình khe nứt, nhưng rất kỳ lạ. Tôi sẽ tiếp tục nhờ các chuyên gia và học giả ngành địa lý, xem họ có đưa ra được kiến nghị gì hay không. Giờ thì cậu đã hiểu chưa? Tuy rằng nhìn bề ngoài thì không có đầu mối gì, nhưng chúng ta đang ở trong một thời đại bùng nổ thông tin, kể cả từ những thứ chúng ta không thể tìm được bất cứ đầu mối gì, các chuyên gia cũng có thể vận dụng kiến thức chuyên môn để cung cấp được những thông tin cực kỳ quý giá.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tốt quá rồi, nếu trong tay chúng ta nắm được càng nhiều thông tin, đầu mối cũng sẽ mỗi lúc một nhiều thêm.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Đúng vậy, còn một manh mối này nữa, theo các chuyên gia nghiên cứu nền văn minh Maya, họ đã có những thành quả mang tính đột phá trong việc tìm hiểu về mấy hình vẽ mà chúng ta không thể nào hiểu nổi trong địa cung Maya. Mấy ngày tới, họ sẽ gửi bản kết luận mới đến, thật may là có mấy ông bạn cũ ấy. Được rồi, hôm nay nói tới đây thôi, cậu nghiên cứu kỹ những hình chụp trục quyển ấy xem, có phát hiện ra được đầu mối gì mới không.”

Đêm hôm đó, Trác Mộc Cường Ba thức trắng để xem các bản dịch từ quyển trục. Các nội dung về Cổ Cách vương và vị sứ giả kia không nhiều lắm, nhưng đều cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên, có một điểm mà gã nghĩ mãi cũng không hiểu nổi, tại sao vị sứ giả kia lại đột nhiên thay đổi thái độ, tách các tín vật kia, chia ra cất giấu, thậm chí còn có ý khiến chúng vĩnh viễn không bao giờ thấy ánh mặt trời, mà lại không hủy hoại đi, có phải là cố ý trêu cợt người ta hay không?

Cuộc trùng phùng bất ngờ

Cứ vậy lại hai ngày nữa trôi qua, sức khỏe Trác Mộc Cường Ba gần như đã hoàn toàn hồi phục. Gã định xuất viện luôn, nhưng các bác sĩ rất kiên trì, nhất quyết đòi gã ở lại theo dõi thêm một ngày nữa. Mặt khác, bọn Nhạc Dương, Trương Lập cũng chưa thấy trở lại, thành thử Trác Mộc Cường Ba đành đồng ý nằm viện thêm một ngày nữa.

Nhàn rỗi vô sự, gã bèn cùng Mẫn Mẫn tản bộ mấy vòng ngoài bãi cỏ, ý là định thực hiện mấy bài tập dạng hồi phục, nhưng Mẫn Mẫn lại cảnh cáo gã không được quá khoa trương, những bài tập kiểu như vậy chắc chắn sẽ khiến người ta bu lại xem. Trác Mộc Cường Ba đành tùy tiện ưỡn ngực vươn tay vươn chân, rồi vung tay đấm về phía trước vài cái, toàn thân tràn trề một nguồn sinh lực vô hạn, chỉ muốn tìm nơi nào đó để phát tiết bớt. Đột nhiên, trong đầu gã lóe lên một ý nghĩ, lẽ nào, tất cả đều do hô hấp mà ra hay sao?

Nhân lúc giữa trưa vắng người, Trác Mộc Cường Ba liền một mình đến trung tâm điều dưỡng người già của bệnh viện. Ở đây, gã kinh ngạc phát hiện ra, trước đây gã chỉ kéo xà một nghìn cái đã hết hơi rồi, giờ không ngờ đã làm đến hơn một nghìn ba trăm cái mà vẫn hoàn toàn không hề thấy mệt mỏi gì. Gã ngạc nhiên quan sát tay mình, cơ bắp không hề to hơn trước chút nào, không lẽ chỉ có thay đổi tần suất nhịp thở và mức độ nông sâu của hơi thở mà đã khiến cơ thể biến đổi nhiều đến như vậy hay sao? Trác Mộc Cường Ba tự hiểu, thời gian gã minh tưởng thực ra rất ít, còn rất xa mới đạt được yêu cầu của Lữ Cánh Nam, hiện giờ, gã vẫn hoàn toàn chưa có cảm giác gì về luân xa mà cô nói đến cả. Theo cách nói của Lữ Cánh Nam, khi trong cơ thể có một luân xa bắt đầu chầm chậm chuyển động, thì mới thực sự tiến vào một cảnh giới khác. Đó là một cảnh giới khác hẳn với những người chỉ rèn luyện thể lực thông thường, không thể nào dùng ngôn ngữ mà biểu đạt được. Trác Mộc Cường Ba lại càng kiên định minh tưởng hơn, nếu muốn tìm thấy thứ mình hằng tìm kiếm, muốn bảo vệ những thứ mình không muốn mất đi, thì phải trở nên mạnh hơn, mạnh hơn nữa!

Trở về bệnh viện, Trác Mộc Cường Ba chuẩn bị đi bộ về phòng bệnh, thì thấy trước cửa phòng CT cạnh cầu thang tầng ba một bác sĩ đang cầm tấm phim CT nói gì đó với một người bệnh, trên cả dãy hành lang chỉ còn lại ba người bọn họ. Trác Mộc Cường Ba vốn định rẽ ngoặt, lên cầu thang đi tiếp luôn, bỗng nhiên, tất cả dường như đều trở nên im ắng! Trác Mộc Cường Ba chưa từng có cảm giác này, tựa như khoảng không gian xung quanh gã đã hoàn toàn bị tách lìa khỏi thế giới bên ngoài, thời không dừng lại không tiếp diễn nữa, một cảm giác nguy hiểm lạ thường bao bọc xung quanh gã. Cảm giác ấy thật mạnh mẽ, thậm chí còn khiến gã không thể nào tiến thêm dù chỉ một bước, cứ như Tử thần đã bước đến sát sau lưng, hơi thở của cái chết đã phả vào sau gáy. Trác Mộc Cường Ba không hiểu, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, cái gì đã khiến tự sâu bên trong gã dâng trào lên cảm giác sợ hãi khủng khiếp đến vậy. Khi gã cho rằng mình đã đủ mạnh rồi, lại đột nhiên cảm thấy không còn chút sức lực để kháng cự, chỉ còn nước để mặc người ta chém giết, linh hồn vùng vẫy như thể muốn thoát ra khỏi thân thể, mỗi tế bào cơ hồ đều không còn chịu sự khống chế của ý thức nữa. Gã tự ra lệnh cho chính mình: “Cử động đi, cử động đi, nhúc nhích đầu ngón tay thôi cũng được!” Nhưng toàn thân gã cứng đờ, như thể đã bị trúng phải phépđịnh thân, cả chớp mắt một cái cũng không thể được. Trong khoảnh khắc ấy, chẳng khác nào linh hồn và thể xác đã hoàn toàn tách lìa nhau ra.

Trác Mộc Cường Ba có thể nhìn thấy người bệnh kia quay lưng về phía mình, bác sĩ đeo khẩu trang, kính mắt và đội mũ. Hai người đang nói chuyện gì đó, gã vẫn nghe thấy tiếng họ, nhưng thân thể lại bị ghim cứng ở đây, tựa hồ như không còn thuộc về gã nữa. Không, tay bác sĩ kia đang nhìn gã! Ánh mắt ấy! Ánh mắt trong đôi mắt ấy sao lại như thế chứ? Giễu cợt? Châm biếm? Mỉa mai? Thương hại? Không, nhất định là ảo giác! Rốt cuộc là sao vậy? Thân thể của gã làm sao vậy? Nhúc nhích đi!

Cả quá trình này có lẽ chỉ kéo dài chừng một hai giây đồng hồ, nhưng một hai giây ấy lại khiến Trác Mộc Cường Ba chấn động rất lớn, cả hơi thở cũng trở nên rối loạn, nhịp tim đập nhanh như ngựa phi nước đại, tới khi tay bác sĩ kia quay người đi vào phòng CT, cả người gã mới rũ xuống như bị hạ đường huyết, gã gượng dựa vào tay vịn cầu thang, rốt cuộc cũng không ngất đi.

Lúc này, người bệnh kia cũng quay người lại. Trác Mộc Cường Ba thấy quen quen, hình như đã gặp người đó rồi, gặp ở đâu nhỉ? Tên anh ta là gì? Nhưng lúc này tim gã vẫn đang đập loạn nhịp, máu dồn lên não không đủ, nghĩ vắt cả óc cũng không sao nhớ ra nổi. Người bệnh kia rõ ràng cũng từng gặp Trác Mộc Cường Ba rồi, liền nở ra một nụ cười như thể muốn nói, “khéo thật”, rồi đi về phía gã.

Cuối cùng, khi anh ta còn cách gã chưa đầy hai bước, Trác Mộc Cường Ba mới sực nhớ ra, đồng thời gọi tên đối phương: “Vương Hựu?”

Người đó chính là tay đi phượt Vương Hựu được bọn Trác Mộc Cường Ba cứu ra trong địa cung Maya. Lúc đó bọn họ chỉ ở với nhau có một ngày rưỡi rồi Vương Hựu về nước luôn, từ đó đến giờ không có liên hệ gì, không ngờ lại gặp nhau ở bệnh viện thế này. Vương Hựu cười khổ nói: “Cuối cùng anh cũng tìm đến rồi, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh.”

Trác Mộc Cường Ba thầm ngẩn ra, câu này nghĩa là gì vậy? Chỉ nghe Vương Hựu lại tiếp lời: “Tôi biết, sớm muộn gì các vị cũng sẽ tìm đến tôi thôi, chỉ không ngờ là lại lâu như thế cơ đấy.”

Nhịp tim của Trác Mộc Cường Ba đã dần trở lại bình thường, liền hùa theo hai câu nói mập mờ của Vương Hựu đáp: “Thì ra anh cũng biết rồi.”

Vương Hựu vẫn để đầu cua như trước, nhưng hàng ria con kiến thì đã cạo sạch, nhìn trông hao gầy hơn trước nhiều. Anhta nói: “Tôi đoán ra được, các vị không phải là du khách bình thường, lần đó đến tòa cung điện ấy, tuyệt đối không chỉ là để thám hiểm. Sau khi trở về, tôi nhớ lại mới thấy, thân thủ, kỹ thuật, tri thức và trang bị của các vị đều tuyệt đối không giống với người thường, vậy nên tôi mới đoán, các vị tới chỗ ấy, chắc là để tìm kiếm thứ gì đó. Nhưng mà… các vị cũng không rõ rốt cuộc là mình cần tìm thứ gì, có phải không?”

Vừa gặp phải một tên béo, Trác Mộc Cường Ba bất giác trở nên cẩn trọng, thầm nhủ: “Kẻ tên Vương Hựu này rốt cuộc là ai? Sao anh ta biết được những chuyện này?” Gã bắt đầu nhớ lại từng chi tiết nhỏ nhặt nhất khi gặp Vương Hựu lần đầu tiên, cuối cùng, gã bỗng sực nhớ ra, tấm gương bằng đồng! Tấm gương bằng đồng có khắc chi chít Tạng ngữ, Vương Hựu nói là mua ở Bogota, lẽ nào là…

Vương Hựu thấy Trác Mộc Cường Ba cúi đầu không nói gì, tưởng gã bực bội trong lòng, liền giải thích: “Lúc đó không phải tôi cố ý gạt anh đâu, có điều, tôi thực sự rất tò mò với món đồ ấy. Tôi cũng không biết tại sao ở trong địa cung Maya lại xuất hiện một tấm gương đồng giống như là của Trung Quốc chúng ta.”

Gương mặt Trác Mộc Cường Ba trơ ra như gỗ, nhưng tim thì đã bắt đầu đập mạnh dồn dập. Quả nhiên là tấm gương đồng ấy, hôm đó gã không hề nhìn lầm, chữ khắc trên tấm gương đó chính là chữ Tạng. Nói như vậy, nghĩa là nó và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu nhất định có mối liên hệ gì đó.

Vương Hựu vẫn đang lầm bầm như thể tự nói với chính mình: “Tôi biết, các vị cứu mạng tôi, nhưng tôi lại… lại lừa gạt mọi người, nhưng tôi cũng không biết lúc đấy mình bị làm sao nữa, hình như, hình như có một giọng nói nào đó vang lên trong đầu, bảo tôi nhất định phải mang tấm gương ấy trở về. Vừa về đến Trung Quốc, tôi lập tức đi tìm rất nhiều chuyên gia, nhưng kết quả giám định của họ đều nói rằng, đó là một tấm gương đồng bình thường đời Đường, đồ làm thủ công tinh tế, giữ được tương đối hoàn hảo, chỉ hiềm nỗi mặt sau bằng chì, giá thị trường không được cao lắm, nếu là gương thời Chiến quốc mà bảo tồn hoàn hảo như vậy, giá sẽ cao hơn rất nhiều. Chỉ có một nhà sưu tập già nói rằng đây là món đồ tốt…” Nói tới đây, Vương Hựu cũng giống như Trác Mộc Cường Ba, chìm sâu vào hồi ức và trầm tư.

Chuyện hôm ấy dù thế nào Vương Hựu cũng không sao quên được… Nhà sưu tầm họ Trần là chuyên gia giám thưởng gương đồng hàng đầu trong nước, nghe nói cả những tấm gương đồng mà Bảo tàng Cố Cung không thể giám định, đều phải mời vị lão tiên sinh đó tới xem xét. Nghe xong câu chuyện của anh ta, tiên sinh không tỏ ra hứng thú gì cho lắm. Nhưng khi Vương Hựu lấy tấm gương ra, Trần lão tiên sinh vội vàng đứng bật dậy, đổi cặp mắt kính khác, hai tay nâng tấm gương, miệng cứ: “Được… được… được…” mãi không thôi, rồi tắt thở mà chết. Nếu không phải các bác sĩ pháp y khẳng định ông ta chết vì tâm lực cạn kiệt, e rằng Vương Hựu cũng khó thoát khỏi can hệ. Thế nhưng, ngoài vị chuyên gia có uy tín nhất này nói tấm gương đồng ấy tốt, những người khác đều nói đây chỉ là một tấm gương đồng tầm thường, những thứ tương tự như vậy có cả ngàn chiếc trôi nổi, ước chừng giá thị trường cao nhất cũng không quá năm vạn nhân dân tệ. Còn vị Trần lão tiên sinh kia thì lại chỉ kêu được có ba tiếng “Được”, rồi duỗi tay rời khỏi nhân gian, chưa kịp nói là rốt cuộc nó “được” ở điểm nào. Từ đó trở đi, tấm gương đồng ấy trở thành thắc mắc lớn nhất trong lòng Vương Hựu.

Nghĩ tới đây, Vương Hựu bất giác cất tiếng hỏi: “Có thể nói cho tôi biết, thứ đó rốt cuộc là cái gì hay không?”

Trác Mộc Cường Ba thì đang suy nghĩ: “Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu? Bản thân cái tên này có nghĩa gì chứ? Vương Hựu cầm đi một tấm gương đồng, ánh sáng, gương? Lẽ nào sẽ có một tòa thành xuất hiện? Lẽ nào là… kỹ thuật dựng hình lập thể trong không gian bằng tia laze? Giống như ở Cực Nammiếu vậy, không không không, người xưa không thể nào có kỹ thuật này được. Nhưng mà, nếu nói khối đá lớn trong mật thất Cổ Cách là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu phục chế lại, thì, vật này cũng lớn quá, dựa vào sức một mình vị sứ giả kia làm sao mang tới tận châu Mỹ xa xôi được? Ngoài dùng kỹ thuật chiếu hình ra, còn có huyền cơ gì trong đó nữa đây?”

Vương Hựu nói: “Trác Mộc Cường Ba tiên sinh? Trác Mộc Cường Ba tiên sinh?” Trác Mộc Cường Ba thốt lên: “Hả, cái gì? Đi! Đưa tôi đi xem tấm gương đồng ấy ngay.”

Vương Hựu xua tay nói: “E rằng không được, tấm gương ấy không ở đây, mà ở trong tủ bảo hiểm của một ngân hàng tại Thâm Quyến, hay là, anh cùng trở về Thâm Quyến với tôi đi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Đợi tôi, tôi sẽ lập tức làm thủ tục xuất viện.” “Lần này lại bị thương ở đâu thế? Có thể tiết lộ chút gì không?” “Ngoài phố, đánh nhau với người ta. Còn anh? Đến Thượng Hải khám bệnh gì à?” “Không, kiểm tra thân thể bình thường thôi, con người tôi đây, kỳ thực xưa nay đều rất coi trọng sức khỏe, cứ cách một thời gian lại đến bệnh viện này kiểm tra toàn thân, hồi trước Tổng công ty còn ở Thượng Hải đã làm cả thẻ khám sức khỏe ở bệnh viện này.”

“Vừa nãy tôi thấy anh và tay bác sĩ kia đang nói chuyện gì đó.” “À, tay bác sĩ ấy, cảm giác hình như rất giống một người bạn đi phượt trước đây, nên nói mấy câu thế thôi.” Trác Mộc Cường Ba bảo Đường Mẫn lập tức đi làm thủ tục ra viện, còn mình thì ngầm liên lạc với giáo sư Phương Tân. “Cái gì hả? Tấm gương? Phát hiện trong địa cung Maya à!”

“Vâng, tôi sẽ lập tức đi Thâm Quyến, xem rốt cuộc là chuyện gì. Hiện giờ, hình như anh ta vẫn cứ ngỡ là chúng ta đã biết chuyện, ngược lại còn hỏi tôi đó là thứ gì. Phải rồi, thầy giáo, có thể điều tra thân thế tên Vương Hựu này được không, tôi muốn tìm hiểu về anh ta một chút.”

“Bảo Mẫn Mẫn đợi một chút, tạm thời không nên làm thủ tục vội, để cô ấy ở lại đây đợi, một mình cậu đi Thâm Quyến thôi, hiểu ý tôi không?”

Trác Mộc Cường Ba sực tỉnh ngộ, gật đầu đồng ý, rồi lại nói với giáo sư Phương Tân về cảm giác như bị định thân trước lúc thấy Vương Hựu, cuối cùng, gã nói: “Giờ hồi tưởng lại, tôi vẫn thấy sợ hãi rụng rời, cảm giác như thể tính mạng và linh hồn mình đều nằm trong tay người khác vậy.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Trước đây có cảm giác như vậy bao giờ chưa?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Chưa từng, trước đây khi có cảm giác nguy hiểm, giống như có con cá chạch luồn lách trên xương sống, lần này cảm giác hoàn toàn khác, đáng sợ hơn nhiều.”

Giáo sư Phương Tân liền nói: “Thân thể hoàn toàn không thể nhúc nhích cơ à, không ngờ lại có cảm giác như thế. Vậy đi, tạm thời không nghĩ đến nó nữa, cậu phải giữ tâm trạng thoải mái. Theo tôi, chắc là cậu cảm thấy áp lực đè nặng lên mình quá lớn, sức khỏe lại chưa hoàn toàn hồi phục nên mới có tình trạng ấy. Tuy tôi bảo cậu phải suy nghĩ nhiều, nhưng cũng không nên nghĩ ngợi nhiều quá, loạn quá, phải từng bước một và có tiết chế, để có cái nhìn toàn cục. Tạm thời gác chuyện này lại, cậu cứ coi như nó chưa từng xảy ra đi, còn gì nghi vấn, đợi khi nào cậu từ Thâm Quyến trở về chúng ta sẽ thảo luận.”

Trong kho ngầm dưới lòng đất của một ngân hàng ở Thâm Quyến, tấm gương đồng cổ phác ấy xuất hiện trong tay Trác Mộc Cường Ba, gã chợt thấy dâng lên một cảm giác quen thuộc. Những đường nét này, những hoa văn này, tạo hình điêu khắc phía sau tấm gương đồng, tựa như người thân lâu ngày không gặp, có cảm giác như máu chảy trong người, chỉ cần nhìn qua một lần cũng nhận ra được. Khi trong lòng dâng lên cảm giác này, bản thân Trác Mộc Cường Ba cũng cảm thấy khó tin, lúc ở trong địa cung, gã hoàn toàn không để ý, hôm nay xem lại tỉ mỉ, không ngờ cảm giác đó lại xuất hiện. Nhất định là gã đã từng thấy ở đâu đó rồi, cũng hoa văn này, cũng hình vẽ này, nhưng là đã thấy ở đâu chứ nhỉ? Lẽ nào trongmơ? Gã không để ý tới sự ngăn cản của Vương Hựu, tháo găng tay ra, dùng đầu ngón tay trực tiếp chạm vào những đường hoa văn lồi lõm gồ lên, khi đầu ngón tay cảm nhận đến mặt gương trơn láng như lụa, cảm giác quen thuộc đó lại càng mạnh mẽ bội phần. Đây là một tấm gương đồng hình tròn, mặt gương vẫn còn như mới, màu sắc trắng thuần, tay cầm có chạm hình rồng, bên ngoài là khối vuông khắc hoa văn chìm, viền ngoài có đinh nhũ, bốn góc có bốn miếng hình lá thị vươn ra bọc lấy viền gương, chia làm bốn phần, mỗi phần là một con thú lành, trong đó có một con giống chim, còn lại đều không nhìn ra là giống thứ gì, bên ngoài bốn con thú là một vòng hoa văn hình dây thừng, ngoài nữa lại có mười hai con thú vây quanh, cũng đều rất trừu tượng, khó có thể nhận ra, ở giữa viền thêm hoa văn hình bông sen, bên ngoài lại có một diềm hoa văn hình dây thừng nữa, còn phức tạp hơn cả bên trong, giữa biển lớn mênh mông cuộn sóng, tựa hồ như có vô số hình con thú đang ẩn hiện. Kế đó, viền bên ngoài lại là một vòng hoa văn hình dây thừng, rồi một vòng đầy những vạch và chấm nhìn như Hà Lạc đồ, tiếp đó lại viền thêm một vòng hoa văn dây thừng, càng ra phía ngoài hình khắc lại càng phức tạp. Cuối cùng, ở vòng ngoài cùng mặt phía sau tấm gương, là những ký hiệu khá giống với chữ Tạng, giờ cầm trong tay quan sát kỹ mới thấy không hoàn toàn giống cho lắm, sự khác biệt giữa những ký hiệu này và chữ Tạng cũng khá giống với sự khác biệt giữa chữ Tây Hạ và chữ Hán vậy, đều là chữ vuông, thiên bàng, bộ thủ[9] và kết cấu nét bút đều như nhau, nhưng ý nghĩa thì lại không ai hiểu được. Trác Mộc Cường Ba cũng hoàn toàn không hiểu được hàm nghĩa của những ký hiệu vòng ngoài cùng này. Nhưng, cả những ký hiệu đó, gã cũng cảm thấy hết sức quen thuộc, tựa như đã từng thấy ở đâu đó rồi, chỉ là, gã nghĩ vắt óc cũng không tài nào nhớ ra nổi. Vương Hựu hỏi: “Thế nào? Giờ đã có thể nói với tôi, tấm gương này có gì đặc biệt hay chưa vậy?”

Trác Mộc Cường Ba xoay chuyển, lật đi lật lại tấm gương. Gã đã xem kỹ đến không thể nào kỹ hơn được nữa rồi, nhưng muốn nói tấm gương này có điểm nào đặc biệt dị thường, thì gã cũng chẳng khác gì Vương Hựu, hoàn toàn không hề có bất cứ manh mối nào.Trác Mộc Cường Ba ngước nhìn ánh đèn u ám của kho ngầm dưới lòng đất, nói: “Cầm ra chỗ có ánh mặt trời xem sao.”

Vương Hựu nói: “Anh bảo, nó sẽ phản xạ ra hình ảnh gì dưới ánh nắng ư? Không thể nào, tôi đã thử đi thử lại rất nhiều lần rồi.”

Trước sự khăng khăng cương quyết của Trác Mộc Cường Ba, Vương Hựu cuối cùng cũng mang tấm gương ra khỏi khong ầm.

Nhà Vương Hựu tương đối khá giả, một căn biệt thự nhỏ hai tầng có cả vườn, phía sau còn có một hồ bơi hai trăm mét vuông, trong ga ra xếp ba chiếc xe hơi hiệu khác nhau, đều là loại mã lực lớn, khí thải nhiều.

Trên sân thượng tầng hai, Trác Mộc Cường Ba bắt đầu điều chỉnh tấm gương đồng, hứng ánh mặt trời. Tấm gương đồng hắt lên tường một đĩa ánh sáng bằng đúng kích thước của nó, nhìn hết sức rõ nét, đừng nói là có hình ảnh gì, mà ngay cả một chút quầng mờ mờ cũng không có. Trác Mộc Cường Ba cố định chiếc gương trên mặt bàn, bước tới sát chân tường, cẩn thận quan sát đĩa ánh sáng đó, nhưng đĩa ánh sáng thì vẫn là đĩa ánh sáng, lấp lóa chói mắt, ngoài ra không có gì cả. Vương Hựu cầm hai hộp Red Bull đặt lên bàn uống nước bằng thủy tinh, lại nói: “Không có tác dụng gì đâu, tôi bảo rồi mà, tôi đã nghiên cứu tấm gương này rất kỹ lưỡng, thậm chí còn làm cả quét hình 3D của những hình khắc phía sau nónữa, nhưng vẫn chẳng phát hiện ra điểm gì đặc biệt cả. Tôi tưởng các vị ít nhiều cũng biết gì đó, thì ra là cũng không biết gì nốt.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi phải mang nó về cho các chuyên gia nghiên cứu.”

“Không được.” Vương Hựu đứng lên nói: “Tuy rằng các vị đã cứu tôi trong địa cung Maya, nhưng tôi cũng phải mất rất nhiều công sức mới mang được món đồ này trở về Trung Quốc, tôi đã nộp đơn xin bảo vệ tài sản tổ tiên rồi. Hiện tại, về mặt pháp luật mà nói, nó thuộc về tổ tiên của tôi truyền lại, tôi không thể để người khác mang nó đi đâu được.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Điều kiện của anh là…”

Vương Hựu cười cười, dang rộng hai tay chỉ vào căn phòng khách rộng lớn: “Anh xem tôi đấy, chẳng thiếu gì cả nữa…” Nhìn ánh mắt của Trác Mộc Cường Ba, anh ta lại cười cười, nói tiếp: “Phải, tôi có một yêu cầu, chỉ có một thôi. Tôi muốn, các vị dẫn tôi đi cùng.”

“Anh nói cái gì!” Trác Mộc Cường Ba cả kinh, yêu cầu này nằm ngoài khả năng tưởng tượng của gã: “Không thể được!”

“Tại sao lại không thể được! Anh được, tôi lại không được sao?” Vương Hựu nói: “Sau khi về nước, tôi đã tìm kiếm thông tin về anh, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, không ngờ anh cũng là tổng giám đốc của một công ty lớn. Hà hà, anh có biết lúc đó tôi đã nghĩ như thế nào hay không? Một ông chủ có tài sản hơn trăm triệu như thế, lại bỏ cả cuộc sống an nhàn không chịu hưởng thụ, anh ta đến rừng rậm châu Mỹ làm gì chứ nhỉ? Rốt cuộc là anh ta đang tìm kiếm thứ gì? Sau khi biết được thân phận của anh, tôi liền hiểu ngay, chúng ta là cùng một loại người.”

Vương Hựu nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba, nói: “Chúng ta đều sở hữu tài sản mà những người khác mong cầu, cuộc sống vật chất đã được thỏa mãn đầy đủ, nhưng đó hoàn toàn không phải là những thứ chúng ta muốn, những nhu cầu tầng thấp đã được thỏa mãn, thứ chúng ta cần là giá trị của chính con người mình. Khi thị trường nhà cao ốc bùng nổ, công ty bất động sản của tôi đã đưa tài sản cá nhân của tôi lần đầu tiên liệt vào hàng ngũ những người có trên một trăm triệu, lúc đó tôi không cảm thấy hưng phấn và kích động gì cho lắm. Đó cũng chính là lúc tôi biết được rằng, những thứ ấy đã không thể thỏa mãn được tôi nữa rồi. Khoái cảm khi những con số ấy tăng lên, còn xa mới bì kịp sự kích thích mạnh mẽ khi tôi đặt chân lên đỉnh núi tuyết, dang rộng cánh tay mà thỏa sức hét hò. Điều quan trọng nhất của sinh mệnh không phải là chinh phục, mà là phấn đấu, cái người ta hưởng thụ trong đời không phải kết quả, mà là quá trình. Mười mấy năm nay, trước sau tôi đã leo lên đỉnh Kilimanjaro, đỉnh Phú Sĩ, núi tuyết Ha Ba, đỉnh Chomolungma, anh biết đấy, mục tiêu của người leo núi thường là ngọn sau cao hơn ngọn trước, không ngừng vượt qua những ngọn núi cao hơn, hiểm yếu hơn. Vì vậy, khi thấy ảnh chân dung anh trên tạp chí, tôi lập tức cảm thấy thân thiết lạ thường, chúng ta đúng là cùng một loại người.”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không, chúng ta không giống nhau.”

Vương Hựu nói: “Có gì mà không giống nhau? Để tôi nghĩ xem nào, tổng giám đốc kiêm chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn nuôi luyện danh khuyển Thiên Sư, không ngại khó khăn vất vả, vượt ngàn dặm đường xa xôi đến rừng rậm nguyên sinh châu Mỹ, còn chui vào cả địa cung đầy rẫy cạm bẫy của người Maya. Ừm, theo tôi, thứ mà các vị đang tìm kiếm, chắc chắn là không hề đơn giản. Phải biết là, tòa địa cung Maya ấy là nơi hiểm yếu nhất mà tôi từng đặt chân đến đấy. Kể từ khi đó, tôi đã luôn để ý dõi theo anh, nhưng hành tung của anh luôn là một câu đố, có điều, như vậy lại càng khiến tôi thêm hứng thú. Về sau, tôi xem được trên mạng, các vị xuất hiện ở vùng Trát Đạt, Tây Tạng, tất cả đều bị thương cựcnặng, các phóng viên vốn định phỏng vấn điều tra sâu hơn nữa, nhưng không hiểu sao lại đột nhiên ngừng lại. Tôi biết, các vị vẫn đang tìm kiếm thứ đó, nhưng đến giờ cũng chưa tìm thấy. Từ lúc đó, tôi đã chuẩn bị liên lạc với anh rồi, nhưng khi tôi đến bệnh viện Lhasa thì tất cả các vị đều đã biến mất một cách thần bí. Mỗi lần đi lướt qua nhau như thế, là mỗi lần tôi lại giậm chân tiếc nuối đó. Lần này, nói gì thì tôi cũng kiên quyết đến cùng, nếu không cho tôi đi cùng, vậy thì công tác nghiên cứu của các vị với tấm gương này cũng kết thúc ở đây được rồi.”

Sự kiên trì của Vương Hựu

Trác Mộc Cường Ba dở khóc dở cười, không biết tay Vương Hựu này thật chỉ muốn đi theo bọn gã thám hiểm hay là còn mục đích gì khác. Gã thử tìm cách dập đi ý nghĩ hoang đường của anh ta, nghiêm túc nói: “Anh có biết, chúng tôi làm sao mới trở về được không?”

“Thập tử nhất sinh thôi mà.” Vương Hựu lộ ra vẻ mặt như thể muốn nói, tôi sớm đã biết là anh sẽ nói vậy rồi, đoạn nói: “Những nơi tôi đã đi, cũng đều là những chỗ cực kỳ hiểm yếu, hơn nữa, tôi đã mấy lần tham gia đoàn phượt tự tổ chức rồi, trước khi xuất phát, việc đầu tiên chúng tôi làm chính là viết di chúc và tuyên bố miễn trách nhiệm, lần này cũng sẽ làm như vậy, nếu sau này tôi xảy ra chuyện gì bất trắc, tuyệt đối sẽ không ảnh hưởng gì đến các vị. Tại sao lại nhìn tôi với ánh mắt ấy chứ? Lẽ nào anh nghĩ tôi còn điên hơn cả anh hay sao? Trác Mộc Cường Ba tiên sinh? Không phải anh đã tìmkiếm hơn hai năm nay rồi sao? Trong thời gian ấy, những lần trải qua khảo nghiệm sinh tử chỉ sợ không phải chỉ có một thôi, đúng không? Tại sao anh vẫn muốn tiếp tục tìm kiếm nữa chứ?

Nhìn bộ dạng á khẩu không biết nói gì của Trác Mộc Cường Ba, Vương Hựu lại cười cười tiếp tục hùng hồn diễn thuyết: “Không sai, ngoài kia có rất nhiều người không hiểu chúng ta, cho rằng chúng ta là những kẻ điên cuồng, có một đống tiền rồi không chịu sống xa hoa sung sướng, lại đi khắp nơi khiêu chiến cái gọi là cực hạn của sinh mệnh, lại còn có kẻ nói, chúng ta là bọn tiêu tiền để tìm cái chết. Kỳ thực, những người như thế không có cách nào cảm nhận được cuộc sống của chúng ta, hàng ngày, họ đã bận rộn tối mắt tối mũi vì những nhu cầu thiết yếu cuộc sống, vì cái ăn cái mặc, lấy đâu ra thờigian mà suy nghĩ về ý nghĩa của đời người nữa chứ, còn chúng ta thì khác. Chúng ta đã nhảy ra khỏi cái vòng luẩn quẩn chạy quanh vì thức ăn, vì quần áo đó rồi, chúng ta có rất nhiều tinh lực và thời gian, cũng có cả cơ sở vật chất tương đối để nghĩ về vấn đề của cuộc đời, rốt cuộc là trong đời này, chúng ta cần tìm kiếm điều gì chứ. Tôi đoán, thời gian nghĩ về vấn đề này của anh chắc còn nhiều hơn tôi nhiều, phải không? Nói thực lòng, thứ tôi theo đuổi không chỉ có cảm giác kích thích. Những gì trải qua trong vô số lần thám hiểm, đã gợi cho tôi những suy tư về cuộc sống, giúp tôi lĩnh ngộ được rất nhiều vấn đề thuộc phạm trù triết học nhân sinh. Khi trở về, tôi lại đem những gì mình lĩnh ngộ được vận dụng vào việc quản lý doanh nghiệp, bây giờ doanh nghiệp của tôi đang phát triển với tốc độ chưa từng có đây này. Anh thấy đấy, tôi đã nói rồi mà, chúng ta là cùng một loại người, anh có phương hướng tìm kiếm của anh, tôi cũng có mục đích của tôi, không phải chúng ta đang lãng phí sinh mệnh, mà chỉ là đang thực hiện điều mình muốn làm thôi. Tôi đã muốn làm, thì tôi sẽ làm bằng được, không cần biết hậu quả của thất bại như thế nào, cũng không tính toán được mất, chỉ cần tôi đã làm rồi, thì sẽ không hối hận nữa, đây chính là triết lý nhân sinh của tôi. Tôi nghĩ, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh chắc cũng như vậy, có phải không?”

Trác Mộc Cường Ba không thể không thừa nhận, mình cũng có nhiều điểm giống những gì anh ta nói, thế nhưng, về chuyện đi tìm Bạc Ba La thần miếu thì tay Vương Hựu này không khỏi có hơi quá cố chấp. Anh ta vốn chẳng biết chuyện gì, đã nhất định đòi tham gia vào một nhóm mạo hiểm, hoàn toàn coi mạo hiểm như một lạc thú của đời người, và hưởng thụ cả quá trình ấy, hành vi thuần túy vì mạo hiểm mà mạo hiểm như thế, Trác Mộc Cường Ba tự nhận thấy mình vẫn chưa đạt được tới cảnh giới đó. Thế nhưng, những hành vi trước đây của gã, hình như cũng không khác gì với những điều Vương Hựu vừa nói, duy chỉ có một điểm khác, đó là không viết di chúc mà thôi.

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Nếu tôi kiên quyết nói không thì sao?” Vương Hựu chán nản nhìn tấm gương đồng trong tay Trác Mộc Cường Ba: “Vậy thì tôi cũng kiên quyết nói không.” Trác Mộc Cường Ba giơ tấm gương lên ve vẩy: “Cái này?”

Vương Hựu nở ra một nụ cười nơi khóe miệng, đột nhiên xông tới, bàn tay nắm chặt lại như lưỡi đao, dừng lại trên cổ họng Trác Mộc Cường Ba, rồi rút về, chỉnh lại nếp áo: “Chớ nên coi thường, tôi từng học không thủ đạo rồi đấy.” Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: “Chậm quá, nếu không phải tôi nhận ra bàn tay anh sẽ dừng lại, chỉ e thân thể anh đã bay ra ngoài xa mười mét rồi.”

Câu trả lời của Trác Mộc Cường Ba dành cho Vương Hựu là, bàn tay gã chợt vươn ra, nhấc bổng cả người anh ta lên. Vương Hựu chỉ thấy trước mắt hoa lên, hai chân đã rời khỏi mặt đất. Trác Mộc Cường Ba lại đặt gã xuống, buông tay trái ra, nói: “Câu ‘không’ ấy của anh, không đủ nặng cho lắm.”

Vương Hựu sửa lại cổ áo, mỉm cười nói: “Tôi biết, thân thủ của các vị đều rất cao cường, từ lúc ở trong địa cung tôi đã biết rồi, nhưng điều đó chẳng nói lên gì cả. Nếu anh nghĩ có thể dùng vũ lực cướp nó đi, tôi sẽ lập tức báo cảnh sát, trừ phi anh giết tôi ngay tại đây.” Dứt lời, anh ta ngồi xuống sofa, thái độ như thể mặc tình Trác Mộc Cường Ba muốn làm gì thì làm, “Anh cứ suy nghĩ cho kỹ càng đi.”

Trác Mộc Cường Ba không ngờ Vương Hựu sẽ uy hiếp mình theo cách ấy, nhất thời cũng thấy đau đầu. Gã nói: “Anh không hề biết chúng tôi đang làm gì đâu.”

Câu trả lời của Vương Hựu càng khiến gã kinh ngạc hơn. “Tôi biết chứ.” Anh ta nhấn giọng nói từng chữ một: “Mảnh tịnh thổ cuối cùng còn lại trên thế gian này, một nơi còn thuần khiết hơn cả vườn Địa đàng, còn cao quý hơn thế giới cực lạc ở Tây Thiên, một nơi mà vô số tín đồ dành cả đời mong mỏi tìm kiếm, Hương Ba La!”

Trác Mộc Cường Ba ngẩn đờ người ra. Vương Hựu làm sao mà biết được chuyện này? Gã vội hỏi: “Anh còn biết những gì nữa?”

Vương Hựu chỉ vào tấm gương đồng, nói: “Tôi đã bảo rồi mà, tôi đã nghiên cứu nó rất nhiều. Ngay từ đầu tôi đã biết, đây là vật của Tây Tạng, hoa văn và hình chạm trên đó đều có nét đặc sắc rất riêng của dân tộc Tạng. Còn anh, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh ạ, anh cũng là người Tạng, tập đoàn nuôi luyện danh khuyển của anh cũng nhờ vào chó ngao Tây Tạng mà phất lên. Vì vậy, tôi đã điều tra nghiên cứu, biết rằng anh đã từng bảy lần một mình đi sâu vào những nơi hiểm yếu không có dấu chân người để tìm kiếm các giống chó nổi tiếng thế giới, ban đầu tôi cũng cho rằng, lần này anh cũng đang tìm một con chó cực phẩm mà thôi. Nhưng gần đây tôi mới biết, thì ra, các vị không chỉ đơn giản là đang tìm danh khuyển, thứ các vị tìm chính là Hương Ba La, thánh địa thần bí nhất, thiêng liêng nhất trong lịch sử Tây Tạng.”

Trác Mộc Cường Ba cơ hồ như muốn nhấc Vương Hựu lên lần nữa, nhưng cuối cùng cũng tự kìm được mình không ra tay, chỉ bình tĩnh nói: “Từ đâu mà anh biết được chuyện này?”

Vương Hựu nửa cười nửa không nói: “Chuyện này ấy à, tôi tự có kênh thông tin của mình chứ. Tôi vẫn luôn băn khoăn, làm sao mà tấm gương đồng này lại từ Tây Tạng đến tận một nơi xa xôi hẻo lánh như Maya vậy? Nó có phải là một đầu mối quan trọng trong cuộc tìm kiếm của các vị hay không? Hôm nay, anh đã giải đáp vấn đề này cho tôi rồi.” Nói tới đây, Vương Hựu không nhìn Trác Mộc Cường Ba nữa, mà lẩm bẩm như thể đang tự nói với mình: “Trong đời tôi đã đi qua rất nhiều nơi, leo núi tuyết, vượt thảo nguyên, nhưng thánh địa trong truyền thuyết rốt cuộc như thế nào thì tôi còn chưa được thấy. Tôi đã đến Bố Đạt La cung, cảm giác nơi đó mang đến cho tôi, gọi là chấn động, rung cảm gì cũng được. Về sau lại đến thành cổ Maya, tôi mới biết được đỉnh cao của kiến trúc nhân loại là gì, nhưng dựa vào hành vi của các vị mà suy đoán, tôi biết, những nơi đó so với Hương Ba La đều chẳng là gì cả. Hương Ba La là một nơi mà tôi không thể tưởng tượng được rằng có tồn tại trên đời. Nếu đã biết rằng có một nơi như thế tồn tại, thì tôi nhất định phải tới đó thưởng ngoạn, không để cuộc đời mình có bất kỳ cảm giác tiếc nuối gì. Đây cũng là tín điều làm người của tôi.”

Trác Mộc Cường Ba không ngờ rằng Vương Hựu cũng có thể thông qua các kênh khác mà biết được nơi bọn gã muốn đi rất có thể là Hương Ba La trong truyền thuyết, nhưng gã vẫn kiên trì thuyết phục: “Lẽ nào anh đã quên cảnh ngộ trong địa cung Maya rồi? Sau bận đó, anh vẫn không rút ra được bài học gì hay sao? Với điều kiện sức khỏe như của anh, saocó…”

“Xin chớ có quên, lúc đó tôi đã ở một mình trong không gian tối đen như mực hơn bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Bất cứ người nào gặp phải tình cảnh đó, cũng đều ngấp nghé bên bờ vực sụp đổ cả về tinh thần lẫn thể lực thôi.” “Không thể được, tuyệt đối không thể được, đây là tôi nghĩ cho bản thân anh thôi…”

“Đừng nói chắc thế, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh ạ. Tôi không cần gì hết, chỉ muốn xem xem thế nào thôi. Hơn nữa tôi biết, công ty của anh đã phá sản, nếu anh muốn tiếp tục tìm kiếm nơi ấy, ắt cần phải có hỗ trợ về mặt kinh phí, tôi có thể cung cấp…”

Trác Mộc Cường Ba cương quyết cự tuyệt: “Không… anh vẫn không hiểu, anh hoàn toàn không hiểu chúng tôi sắp phải đối mặt với điều gì đâu. Anh tưởng chỉ đi du lịch, đi thám hiểm một chuyến, đơn giản vậy thôi sao? Tôi chỉ có thể nói với anh thế này, hành trình của chúng tôi không giống với bất cứ đoàn phượt nào mà anh từng tham gia. Bất kể ra sao, tôi cũng đều không chấp nhận đề nghị của anh.” Trác Mộc Cường Ba tiến sát lại gần Vương Hựu, mặt đối mặt với anh ta, gằn giọng nói: “Muốn chết, thì đi tìm tòa nhà sáu mươi tầng mà nhảy xuống, như vậy còn dứt khoát nhanh gọn hơn!”

Vương Hựu vẫn chỉ cười cười như không, đang chuẩn bị nói tiếp, thì điện thoại di động của Trác Mộc Cường Ba đổ chuông. Gã vừa bắt máy, liền nghe Đường Mẫn nói: “Bọn Nhạc Dương ở Nga về rồi, tình hình không được tốt lắm, bao giờ anh trở lại đây thế?”

Trác Mộc Cường Ba liếc nhìn Vương Hựu một cái, đoạn nói: “Chỗ anh cũng vậy, anh về luôn đây, chắc là vẫn còn chuyến bay, đợi về rồi nói chuyện sau.”

Đường Mẫn nói: “Chú ý an toàn, anh phải bay chuyến đêm đấy.”

Trác Mộc Cường Ba gác máy, lại đưa mắt nhìn Vương Hựu, cặp mắt của tay thương nhân tinh ranh này vẫn mở trừng trừng không chớp nhìn vào tấm gương đồng trên tay gã. Ánh mắt ấy tựa như đang nói: “Muốn mang nó đi hả, vậy thì, mang theo cả tôi nữa.”

Trác Mộc Cường Ba biết, có nói nữa cũng chẳng có kết quả gì, không hiểu Vương Hựu biết được tin tức ở đâu, giờ đã dồn ép gã không còn nước nào nữa, đành phải về thương lượng nghĩ cách với mọi người trước vậy. Gã giơ tấm gương lên chụp lại toàn bộ vào điện thoại, Vương Hựu cũng không ngăn cản, chỉ không để gã mang nó đi mà thôi. Lúc chia tay, Trác Mộc Cường Ba ném lại một câu quen dùng trong giới thương nghiệp: “Cho tôi thời gian ba ngày, tôi phải thương lượng với những người khác đã.” Ra tới cửa, gã lại nói: “Anh đang đùa với lửa đó!”

Vương Hựu cười cười: “Từ nhỏ tôi đã thích nghịch lửa rồi.” Anh ta biết, trong cuộc đàm phán này, mình đã giành được ưu thế tuyệt đối.

Trong bệnh viện, Nhạc Dương bừng bừng phẫn nộ nói: “Thằng cha ấy thật đúng là, rõ ràng đã nói trước rồi, đột nhiên lại tăng giá, lại còn tăng lên tới những 30%, thế chẳng phải là muốn chơi chúng ta còn gì? Cũng may là chúng ta còn chưa giao tiền cọc cho hắn đấy.”

Tình hình liên quan đến tấm bản đồ, Trác Mộc Cường Ba đã biết được chút ít từ chỗ giáo sư Phương Tân. Sau khi giải được mật mã văn tự trên bao thuốc lá, giáo sư Phương Tân và mấy người đã thông qua nhiều kênh khác nhau, thăm dò tìm kiếm thông tin về một loạt kế hoạch của Đức Quốc xã tiến hành ở Tây Tạng trong thời gian đó. Trước mắt, các tài liệu văn thư chính thức đã được giải mật, thể hiện rõ rằng, năm 1937, có một đội đặc công Nazi được Hitler và trợ lý hàng đầu của ông ta là Himmler đặc phái, bí mật xâm nhập Tây Tạng. Bọn họ ở Tây Tạng suốt một năm, vẽ được rất nhiều bản đồ, còn quay phim chụp ảnh nữa. Kế hoạch đó được gọi là Cực Bắc. Hitler tin rằng tổ tiên của người Aryan bắt nguồn từ đó, nền văn minh Atlantis đã biến mất cũng ở đó, chỗ ấy là trục trung tâm của địa cầu, thay đổi trục trung tâm này, ắt sẽ có thể thay đổi chiều quay trái đất, cũng như vận mệnh của tất cả các quốc gia trên hành tinh này. Nghe nói, đảng Quốc xã vẫn không ngừng tìm kiếm lối vào một nơi gọi là Shambhala, đồng thời còn dựa vào các tư liệu vẽ được năm 1938, tiếp tục tiến vào Tây Tạng lần nữa trong năm 1943, nhưng về số lượng người, địa điểm của cả hai hành trình này họ đều không thể tìm được thông tin gì cụ thể. Theo các tư liệu chính thức, khi nước Đức chiến bại năm 1945, tất cả các tư liệu liênquan tới lối vào Shambhala đều đã bị tiêu hủy.

Bọn Trác Mộc Cường Ba đều thầm hiểu, cái gọi là Hương Ba La, Shambhala, chẳng qua chỉ là do phát âm khác nhau khi dịch sang tiếng Anh, tiếng Đức, còn địa điểm mà các tư liệu này chỉ đến, chắc chắn là cùng một nơi. Đó rốt cuộc là một nơi như thế nào, mà khiến vô số người trở nên điên cuồng như thế?

Các tư liệu mà giáo sư Phương Tân đã tìm kiếm và thu thập khắp nơi cho thấy rằng, sau chiến tranh, số tài liệu về hành động của Đức Quốc xã ở Tây Tạng đã bị Liên Xô và Mỹ chia làm hai, nghe nói, đến năm 2045 mới tới hạn giải mật. Giáo sư Phương Tân vốn đã nhờ các mối quan hệ của mình, xem xem có thể liên lạc với người làm trong kho hồ sơ, nhờ giúp kiểm tra các tư liệu liên quan tới ba khu căn cứ địa đó xem sao, không ngờ, sau mấy ngày liên lạc với một tay quản lý người Nga, bên kia phúc đáp nói rằng, một phần trong đó đã được giải mật, trước mắt các chuyên gia trong nước đã nghiên cứu, nếu giá cả hợp lý, anh ta có thể sao chụp mang ra. Mấy người giáo sư Phương Tân tất nhiên là mừng rỡ vôcùng. Ban đầu, giá cả đã thương lượng ổn thỏa, nhưng khi bọn Nhạc Dương sang Nga, tay quản lý đó lại đột nhiên giở quẻ, nâng giá lên tới mức bọn họ không thể chấp nhận, rồi visa du lịch của Nhạc Dương, Ba Tang hết hạn, đành phải trở về công cốc.

Nghe Nhạc Dương kể xong, Trác Mộc Cường Ba nói: “Giáo sư Phương Tân biết chưa?” Nhạc Dương đáp: “Biết rồi, nhưng ông ấy bảo chúng tôi nghe ý kiến anh.”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Ý kiến của tôi là… mặc xác hắn, nếu hắn gọi điện tới nữa, thì ngấm ngầm tỏ ra rằng chúng ta đã không cần tấm bản đồ đó nữa, cám ơn ý tốt, nếu hắn không chấp nhận, thì giảm giá xuống còn một nửa, nếu hắn vẫn không thỏa mãn, lại tiếp tục hạ giá, khi nào hắn đồng ý thì thôi.”

Nhạc Dương ngạc nhiên hỏi: “Ủa, không phải vậy chứ, giảm giá xuống còn một nửa, như vậy hắn ta chịu được sao?” Trác Mộc Cường Ba tự tin vỗ vỗ vai Nhạc Dương, nói: “Cứ làm như tôi nói là được. Nghỉ ngơi đi đã, trời sắp sáng rồi.”

Cả bọn nghỉ ngơi đến trưa mới liên lạc với giáo sư Phương Tân, thuật lại một lượt về tình hình chiếc gương đồng. Giáo sư xem qua hình ảnh chụp từ máy di động của Trác Mộc Cường Ba, rồi chau mày nói: “Tuy chưa dám khẳng định có phải là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu hay không, nhưng nhất định có mối liên hệ rất lớn, thân phận Tây Tạng của nó đã chứng minh được điểm này rồi. Chỉ có điều những ký hiệu ở mặt sau tấm gương ấy, ừm, giống như một dạng văn tự lai tạp giữa tiếng Tạng cổ và tiếng Tạng hiện đại, nhưng mà, đúng là chúng ta chưa từng thấy bao giờ, có lẽ phải nhờ đến các chuyên gia mất. Ừm, anh ta nhất quyết không chịu nhả ra à?”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu đáp: “Đúng vậy, anh ta nằng nặc đòi chúng ta dẫn theo, thì mới chịu giao tấm gương đồng ấy ra.”

Giáo sư Phương Tân nói: “Bây giờ tôi sẽ gửi cho mọi người tài liệu về tên Vương Hựu ấy… Vương Hựu, sinh năm 1962, người Mai Châu, Quảng Đông, tốt nghiệp chuyên ngành Kinh tế Xã hội học Đại học Phúc Đán, trước năm 25 tuổi đã làm nhiều ngành nghề khác nhau, chủ yếu là cán bộ cấp trung của các công ty lớn, năm 87, hùn vốn với người khác lập ra công ty Xây dựng Nhà Đất Kiến Hưng, giữ chức tổng giám đốc điều hành kiêm chủ tịch hội đồng quản trị, năm 89, đổi tên thành công ty Cổ phần Trách nhiệm Hữu hạn Khai thác và Phát triển Nhà Vạn Hưng Thâm Quyến, sang năm tiếp theo thì có cổ phiếu lên sàn, năm 97 đã thu mua các công ty nhà đất như Đông Quản, Thành Hưng, Xương Long, trở thành thủ lĩnh trong giới bất động sản Thâm Quyến. Năm 98, anh ta trở thành lãnh đạo doanh nghiệp đầu tiên chinh phục đỉnh Chomolungma, từ đó trở đi cũng luôn được người ta để ý. Nhưng trước đó, anh ta đã từng lên đỉnh mấy ngọn núi nổi tiếng ở nước ngoài, trong giới leo núi cũng có chút danh tiếng nho nhỏ. Dựa vào hồ sơ này có thể thấy, tinh lực của anh ta chủ yếu đều tập trung vào việc quản lý công ty và leo núi, chắc là không có ham muốn hay mưu đồ gì với Bạc Ba La thần miếu. Vương Hựu này chỉ là một doanh nhân và người yêu thích mạo hiểm bình thường mà thôi. Giờ cậu có dự định gìkhông?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Cũng khá hóc búa, sau khi mang tấm gương đồng đó trở về Trung Quốc, anh ta đã nộp đơn xin bảo hộ tài sản tổ tiên, hiện giờ pháp luật quy định việc bảo vệ tài sản của công dân rất tỉ mỉ nghiêm ngặt, vì vậy xét về khía cạnh pháp luật, tấm gương đồng đó là của anh ta, dù nhà nước muốn trưng dụng thì cũng phải được anh ta đồng ý trước đã. Hơn nữa, từ cách nói năng của tay Vương Hựu đó, không khó nhận ra, anh ta đã quyết tâm muốn đi theo chúng ta bằng được rồi.”

Đường Mẫn nói: “Tại sao không thể cho anh ta cùng đi chứ?” Cặp mắt Nhạc Dương cũng sáng bừng lên, gật đầu khen phải: “Đúng đấy, anh ta còn hứa sẽ giúp chúng ta về mặt tài chính nữa mà.”

Trác Mộc Cường Ba nhíu mày nhìn hai người một cái, lắc đầu nói: “Không được, anh ta chưa được huấn luyện chính quy, cho đi theo chúng ta chẳng khác nào tự đâm đầu vào chỗ chết, sao có thể làm vậy được chứ?”

Nhạc Dương lập tức nghĩ đi xa hơn: “Thì có thể huấn luyện cho anh ta được mà! Dù sao thì chúng ta cũng không phải…” “Hừm!” giáo sư Phương Tân trong máy tính khẽ đằng hắng một tiếng, Nhạc Dương mới ngậm miệng lại. Chỉ nghe giáo sư nói: “Như vậy đi, chuyện này để chúng tôi xử lý, tạm thời cậu không cần phải lo lắng nữa.”

Trác Mộc Cường Ba nghi hoặc nhìn những người đứng cạnh mình. Từ những hành vi khác thường của Đường Mẫn và Nhạc Dương, gã nhận ra hình như họ còn điều gì đó đang giấu mình.

Lúc này, Ba Tang chợt lạnh lùng lên tiếng: “Nếu không được, thì trực tiếp làm thịt hắn ta là xong.”

“Không được!” Trác Mộc Cường Ba vội chặn đứng suy nghĩ nguy hiểm ấy của Ba Tang lại: “Tuy ở trong rừng nhiệt đới châu Mỹ và Đảo Huyền Không tự, chúng ta đã sử dụng vũ khí cũng như giao chiến với kẻ địch, nhưng đó là hành vi tự vệ trong lúc bất đắc dĩ mà thôi, chúng ta đâu phải phần tử khủng bố, sao có thể làm những chuyện phạm pháp được. Có phải đang đánh trận đâu, Ba Tang, anh không được lúc nào cũng có suy nghĩ là đang chiến tranh như thế.”

Ba Tang xòe hai tay ra, ý muốn nói, không được thì thôi.

Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Giờ việc làm tôi lo lắng nhất không phải tấm gương đồng, mà là tin tức rốt cuộc rò rỉ ra từ đâu? Cả người như Vương Hựu mà cũng biết được chúng ta đang tìm Bạc Ba La thần miếu, cứ tiếp tục thế này, phiền phức của chúng ta sẽ mỗi lúc một nhiều thêm đấy.”

Nhạc Dương chợt nói: “Cường Ba thiếu gia, anh nói xem người ở Nga kia có khi nào cũng biết chúng ta đang lần theo manh mối đi tìm Bạc Ba La thần miếu, nên mới nâng giá lên cao thế không?”

Đường Mẫn thốt lên: “Không đến nỗi lan truyền đi xa thế chứ.” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu nói: “Có phải đã biết gì hay không, đợi điện thoại của hắn ta là biết.”

Ngày hôm sau, phía Nga đã bắn tin sang, dò hỏi bọn họ dự tính thế nào. Nhạc Dương theo lời Trác Mộc Cường Ba dặn dò, khéo léo từ chối đối phương. Ba Tang làm phiên dịch, còn ngấm ngầm ám thị rằng họ không cần đến tấm bản đồ ấy nữa, kết quả là bên kia vừa nghe vậy đã cuống lên, chất vấn bọn Nhạc Dương sao lại lật lọng. Nhạc Dương bèn lịch sự đáp lời, ấy là do ông lật lọng trước, mọi người chẳng qua chỉ là bánh ít đi thì bánh quy lại thôi. Bên kia vẫn không cam tâm, lại tiếp tục hỏi bọn họ có thể ra giá mua phần tài liệu ấy hay không. Nhạc Dương liền thừa cơ ép giá, trải qua một hồi thươnglượng co kéo, cuối cùng cũng quyết định được, lần này giá chỉ còn 60% giá ban đầu tay kia đã từng thương lượng với giáo sư Phương Tân.

Ba Tang vừa gác điện thoại, Nhạc Dương đã không nén nổi mừng rỡ hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Cường Ba thiếu gia, anh đúng là liệu sự như thần, làm sao anh biết được hắn sẽ bán hạ giá thế?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Động não một chút xem, anh lính trinh sát. Còn nhớ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau không. Lần đó, trên xe lửa cậu đã vận dụng tư duy tinh tế và khả năng quan sát hơn người để bắt được tên trộm ấy như thế nào nhỉ? Kỳ thực chuyện này nói trắng ra thì rất đơn giản, khi sang Nga lần đầu tiên, các cậu tương đối gấp gáp, còn tay quản lý hồ sơ kia thì vẫn nghi ngờ mức độ thành tín của các cậu, hắn ta còn chưa có bản sao hồ sơ đó trong tay nữa. Tới lúc gặp mặt các cậu, và nhìn thấy tiền, hắn mới khẳng định được rằng các cậu thực sự cần những tài liệu đó. Sau lần gặp mặt đó, hắn mới chính thức bắt đầu nghĩ cách lấy được bản sao các tài liệu ấy, thế nhưng, tuy nói rằng số tài liệu đó đã được giải mật một phần, nhưng muốn có bản sao và mang được ra ngoài lại cũng không phải chuyện dễ dàng chút nào. Vậy là, hắn liền nâng giá lên với các cậu, làm như vậy là có hai mục đích; thứ nhất, là để kéo dài thời gian giao hàng, trong khi các cậu suy nghĩ về giá cả, hắn mới đủ thời gian để đi sao chép tài liệu; thứ hai, thử thăm dò tầm quan trọng của số tài liệu ấy với các cậu, nếu các cậu rất cần đến chúng, hắn sẽ còn điều chỉnh giá cả một cách thích hợp. Hôm nay hắn đã gọi sang đây, chứng tỏ rằng hắn đã có được số tài liệu ấy rồi, nhưng các cậu lại tỏ ra không quan tâm lắm, khiến hắn vô cùng bối rối. Nếu các cậu không cần nữa, thì số tài liệu đó nói trắng ra chỉ là một đống giấy vụn, chẳng đáng một xu. Vì vậy, dù là các cậu ra giá thế nào, chỉ cần cao hơn giá bán giấy phế loại là hắn đã thỏa mãn lắm rồi.”

Nhạc Dương bừng tỉnh ngộ nói: “Thì ra là thế, tôi không nghĩ được sâu xa đến thế.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhìn việc gì cũng không thể nhìn bề mặt, phải nhìn thấy thứ đằng sau bề mặt đó mới được, đã biết chưa?” Trước ánh mắt sùng bái ngất ngây của Nhạc Dương, Trác Mộc Cường Ba đưa mắt liếc nhìn chiếc máy tính xách tay vẫn đang mở đó, thổ lộ ra chân tướng: “Thầy giáo nói đấy.”

Nhạc Dương gãi gãi đầu: “Xem ra, chúng tôi lại phải đi một chuyến nữa rồi…”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không, lần này cậu không cần đi, tôi sẽ đi với Ba Tang.” Gã vung tay vung chân cho giãn gân cốt, cảm giác sức khỏe của mình tốt hơn khi nào hết, “Vết thương của tôi đã khỏi hẳn rồi, tôi muốn đích thân đi lấy tấm bản đồ và những tài liệu khác về đây.”

Nhạc Dương thắc mắc: “Vậy tôi làm gì?” Trác Mộc Cường Ba quay người đi nói: “Tôi đi làm thủ tục xuất cảnh, còn cậu nghĩ cách xử lý tay Vương Hựu đó đi!”

Nhạc Dương kinh ngạc thốt lên: “Cái gì mà xử lý chứ? Hắn ta là đàn ông mà! Cường Ba thiếu gia, tôi không xử lý được đâu! Đợi chút đi nào…”

Đường Mẫn thấy Trác Mộc Cường Ba rất quyết tâm, biết không thể ngăn gã lại được, đành thấp giọng nói: “Vậy em và Nhạc Dương quay lại Lhasa trước đợi mọi người, anh phải cẩn thận, chú ý an toàn đấy.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, anh đi mấy ngày rồi về, nhớ tự chăm sóc cho mình, ở nhà phải ngoan ngoãn không được chạy lung tung, biết chưa hả?”

Đêm Moscow

Mùa đông Moscow rất lạnh, nhưng hàng bạch dương thẳng đều tăm tắp bên ngoài sân bay quốc tế Sheremetyevo mang lại cho Trác Mộc Cường Ba cảm giác bất khuất quật cường. Thả bộ bước đi trên phố Baumanskaya, gã có cảm giác như lại trở về núi tuyết. Tuy gã đã không còn ho nữa, nhưng mỗi lần hít thở thứ không khí lạnh như băng này, cứ cảm giác như trong phổi có gì đó là lạ, kiểu như thiếu thứ gì đó, nhưng hô hấp vẫn hết sức bình thường. Trác Mộc Cường Ba bất giác thầm nhủ: “Lẽ nào cổ độc đang phát tác theo một phương thức mà chúng ta không biết đến?” Tính thời gian ra thì mạng gã chỉ còn lại khoảng chưa đầy mười tháng nữa thôi.

Gã và Ba Tang ở một khách sạn nhỏ, hẹn tay kia gặp mặt vào trưa ngày hôm sau. Vì cả hai đều không thông thuộc Moscow nên địa điểm gặp mặt do phía bên kia quy định. Trước yêu cầu của tay kia, họ phải tìm một cái sân thượng nhà cao tầng làm địa điểm giao dịch, nghe nói như vậy mới khó bị người ta theo dõi, cũng ít có khả năng bị mai phục. Tuy Trác Mộc Cường Ba thầm giễu cợt đối phương quá mẫn cảm, nhưng cũng vẫn chấp nhận theo yêu cầu ấy. Theo như Ba Tang giới thiệu, người này tên là Aleksandrovich, nhân viên quản lý hồ sơ lịch sử quân sự quốc gia của nước Nga, rất thích chơi cá ngựa, trước đây từng bị người khác tố cáo đã bán văn kiện cơ mật của nhà nước để trả tiền thua cá ngựa, nhưng vì các cơ quan hữu quan của Nga không tìm được bằng chứng gì, nên chỉ coi như có người cố ý vu khống hãmhại, nên y vẫn tiếp tục làm công việc quản lý hồ sơ lịch sử quân sự ấy.

Dọc đường, không hiểu sao Trác Mộc Cường Ba lại nhớ đến lời cảnh cáo của Lữ Cánh Nam, nên tương đối lưu ý đến cử chỉ của Ba Tang, nhưng tất cả đều không có gì khác thường, gã hoàn toàn không nhận ra bất cứ điều gì bất ổn. Đồng thời, trong tâm trí Trác Mộc Cường Ba cũng có một âm thanh không ngừng nhắc nhở rằng, Ba Tang chẳng qua chỉ không thích nói chuyện mà thôi, không nên vô duyên vô cớ đi nghi ngờ người ta như thế.

Sau một phen tìm kiếm, bọn họ chọn được một tòa nhà hai mươi tầng nằm trên con phố buôn bán đông đúc gần Quảng trường Đỏ, xây dựng theo kiểu kiến trúc dạng trang sách truyền thống. Sở dĩ chọn nơi đây, vì nó thuộc khu buôn bán, các tầng và thang máy đều có người qua lại, lên nóc nhà cũng không bị ai để ý. Mấy tầng dưới là cửa hàng, từ tầng năm trở lên là văn phòng, ngoài cửa sổ gắn từng dãy điều hòa san sát, nhìn từ dưới lên, phần chính giữa trang sách là một cầu thang sắt màu xanh dùng làm lối thoát khẩn cấp.

Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang dễ dàng lên đến sân thượng. Bốn góc sân thượng có buộc bốn quả khí cầu rất lớn, bên trên tấm băng rôn quảng cáo. Hai người đi quanh sân một lượt, chỉ thấy các công trình xung quanh đa phần đều cao ngang bằng hoặc thấp hơn một chút, không có chỗ nào cao hơn để có thể nhìn trộm xuống. Sân thượng này hình chữ nhật, chạy theo hướng từ Đông sang Tây, mặt phía Đông hướng về phía con phố lớn tấp nập, mặt phía Tây dựa lưng vào khu dân cư, còn hai mặt Nam Bắc là hai tòa nhà cao tầng cùng loại, cách nhau chừng hai chục mét, ở giữa toàn là các ki ốt một tầng để buôn bán, thang cấp cứu khi có hỏa hoạn đều ở giữa hai mặt Nam Bắc này. Trác Mộc Cường Ba đứng bên mặt phía Nam, quan sát tòa nhà cao tầng đằng xa, lấy làm hài lòng với địa điểm giao dịch này, tầm nhìn rộng, không khí trong lành. Gã cúi người, nhìn thấy bên ngoài các cửa sổ gắn đầy những cục điều hòa, bỗng chợt dâng lên cảm giác xung động dữ dội, chỉ muốn nhảy xuống dưới. Gã biết, ít nhất cũng có năm cách không cần dùng cầu thang mà có thể nhanh chóng xuống dưới tầng trệt, nhưng tại sao lại có cảm giác xung động ấy thì Trác Mộc Cường Ba không sao hiểu nổi. Đúng lúc đó, gã chợt cảm thấy hình như mình bị người khác nhìn trộm, nhưng trên sân thượng này, ngoài gã và Ba Tang ra, đâu có người thứ ba nào nữa? Trác Mộc Cường Ba lấy lại bình tĩnh, liếc khóe mắt nhìn sang phía Ba Tang, chỉ thấy anh ta cũng đang ở bên mặt phía Đông cúi người quan sát, không hề có cử động gì lạ thường. Cảm giác bị nhìn trộm củagã lúc này cũng đã tan biến, đành thầm nhủ: “Lẽ nào là ảo giác?”

Hai người quan sát hoàn cảnh xung quanh xong xuôi, bèn quyết định chọn nơi này làm địa điểm giao dịch, rồi hẹn với Aleksandrovich, sau đó, lại ra phố Kalinin, chọn mua vài món đồ dùng cần thiết. Ba Tang mua cho mình và Trác Mộc Cường Ba mỗi người một con dao găm mô phỏng theo dao của quân đội Nga, nói là để đề phòng bất trắc. Trác Mộc Cường Ba vốn định nhắc nhở Ba Tang, họ không thể mang thứ này về nước được, mua cũng vô dụng thôi, nhưng nhìn nét mặt của anh ta, gã đành nhận lấy cất đi. Gã có cảm giác, trong tâm trí người đàn ông này, đâu đâu cũng là chiến trường, bất cứ lúc nào cũng là thời chiến cả.

Lúc ra khỏi phố Kalinin, cả hai đã khoác lên mình một chiếc măng tô da màu đen, có thắt lưng, may phỏng theo kiểu áo quân dụng, đường nét lạnh lùng cũng như ánh mắt coi khinh tử thần trên gương mặt họ khiến người đi đường đều không khỏi liếc mắt nhìn trộm. Trên đường về khách sạn, họ trông thấy một đám thanh niên đang đứng vây quanh một cây cột đèn. Một người đang dùng cả hai tay ôm chặt cột đèn, thân thể song song với mặt đất, phất phơ trong không trung như lá cờ, đám còn lại đều đứng vây xung quanh quan sát. Người đi đường ai nấy đều mặc áo quần dày sụ, nhưng đám thanh thiếu niên ấy lại chỉ mặc mỗi bộ đồ thể thao mỏng manh, đứa nào đứa nấy chỉ tầm mười bảy mười tám tuổi, xỏ lỗ tai lỗ mũi, đầu tóc nhuộm năm sáu màu sặc sỡ. “Đang làm cái gì vậy? Biểu diễn đường phố à?” Ba Tang không cầm được buột miệng hỏi.

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không, có lẽ là một trào lưu thể thao mới gì đó, nghe nói bây giờ trong đám thanh niên đang thịnh nhất là môn chạy Parkour[10] của Pháp. Đây có lẽ là một kiểu huấn luyện sức lực và khả năng thăng bằng cơ thể thôi, khá giống một số hạng mục huấn luyện cơ sở của chúng ta vậy, không phải sao?” Trác Mộc Cường Ba vô ý liếc nhìn gã thanh niên đang treo ngang người lơ lửng trên không trung, chợt phát hiện ra đối phương cũng đang nhìn mình chằm chằm, thấy gã nhìn qua, ánh mắt sáng lấp lóa đó liền nhìn ngay sang chỗ khác.

Lại thấy một thanh niên khác đạp vào chiếc cửa sắt cuốn đã đóng chặt bên đường, chạy trên đó hai bước dài, kế đó lộn nhào một vòng, nhẹ nhàng hạ xuống đất. Mấy gã trẻ tuổi khác đứng cạnh cười vang cổ vũ. “Đúng là giống thật.” Ba Tang nói, ngoảnh đầu nhìn cánh cửa đó một cái, thầm đoán chắc mình có thể liên tiếp đạp năm bước vượt qua tầng hai, thẳng lên đến tầng thứ ba.

Trở về khách sạn, hai người bàn bạc, quyết định để đề phòng có biến, sau khi lấy được tài liệu sẽ quét luôn vào máy tính, rồi gửi thư điện tử về cho giáo sư Phương Tân, còn bản sao giấy thì sẽ hủy luôn tại chỗ. Sau đó, Trác Mộc Cường Ba gọi điện cho giáo sư Phương Tân, biết được Đường Mẫn và Nhạc Dương đã về đến Lhasa, pháp sư Á La biết chuyện tấm gương đồng cũng đang trên đường tới Lhasa, nhưng vì chỗ của bọn họ không tiện tàu xe, nên sợ rằng sẽ tới chậm một chút. Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân nói chuyện về sự thay đổi của nước Nga, rồi báo tin bình an, bày tỏ nỗi nhớ với Mẫn Mẫn một hồi, cuối cùng mới đi ngủ. Đến nửa đêm, gã vẫn trằn trọc, mơ thấy Ba Tang tay cầm một thanh đao, mặt mũi hung tợn chém thẳng về phía mình. Trác Mộc Cường Ba giật bắn người sực tỉnh, ngồi bật dậy, liếc sang giường kia thì không thấy bóng Ba Tang đâu, lại thêm một phen kinh hãi nữa!

Trác Mộc Cường Ba tung mình xuống giường, chỉ thấy quần áo Ba Tang cũng đã biến đâu mất, đang đoán già đoán non thì chợt thấy ngoài sân có một cái bóng đang đứng, không phải Ba Tang thì còn ai vào đây nữa. Trác Mộc Cường Ba mặc quần áo vào, cũng bước ra ngoài. Chỉ thấy Ba Tang đang ngẩng đầu ngắm trăng, cái bóng lẻ loi như bị ánh trăng tạc thành một pho tượng, ánh mắt cao ngạo lạnh lùng toát lên một vẻ quen thuộc lạ thường. Khoảnh khắc ấy, tựa như cái bóng của Lang vương năm xưa bỗng hiển hiện trước mắt, ký ức của Trác Mộc Cường Ba lại một lần nữa bị đánh thức.

Cũng buồn bã thê lương như thế, nó cứ ngoảnh lại nhìn đàn sói mình đã từng thống lĩnh, cô độc bước đi, cái bóng loạng choạng lê bước trên con đường núi gập ghềnh khúc khuỷu, sườn núi dốc cao ngất, bốn chân lão Lang vương hơi run rẩy, nhưng vẫn dựa vào nghị lực tuyệt đối của mình, bước một bước lại trượt một bước, rồi lại bước thêm một bước, khó nhọc lên đến đỉnh núi, bởi vì… nơi đó là nơi nó thuộc về, mỗi đời sói đầu đàn, đều cao ngạo chọn đỉnh núi ấy, đỉnh núi cao nhất, hiểm yếu nhất, gần với mặt trăng nhất ấy.

Cuối cùng, nó cũng lên được đỉnh núi cao ngất, đúng lúc trăng tròn vành vạnh. Nhìn vầng nguyệt giữa bầu không tối tăm, Lang vương hú lên một tràng dài “hú hú hú….” Âm thanh lập tức vọng khắp cả núi non trùng điệp, càng trở nên thê lương bi thống vạn phần. Lão Lang vương dùng hết chút sức lực cuối cùng, bốn chân bám chặt vào vách đá cứng như sắt thép, thân hình sừng sững như một pho tượng, cả cái bóng oai hùng của con sói già được bao bọc trọn vẹn trong ánh trăng vằng vặc. Lão Lang vương đã trở thành một phần của ngọn núi, trở thành một phần của vầng trăng. Ngẩng đầu tru trăng, than khóc lúc lâm chung, đây chính là tập tục đã truyền thừa ngàn vạn năm nay của họ nhà sói, mỗi con sói đều chọn phương thức cao ngạo, cô độc này để ra đi, đứng ở nơi mình đã hoành hành khắp chốn núi rừng, đứng ở nơi mình đã từng thống lĩnh bầy đàn chiến đấu, khi vầng trăng kia lặn xuống, chúng sẽ chầm chậm nằm rạp xuống đất, nghếch đầu về hướng của bầy đàn, chầm chậm nhắm nghiền đôi mắt lại.

Ba Tang làm hồi ức của Trác Mộc Cường Ba bị đứt đoạn, giọng nói băng lạnh của anh ta nghe tựa như tuyết đọng nơi ngoại ô Moscow này vậy: “Sao vậy, cũng không ngủ được à?”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Nửa đêm bị giật mình, tỉnh luôn.” Ba Tang đột nhiên hỏi: “Cường Ba thiếu gia, anh nói xem, thế nào mới gọi là hạnh phúc?”

Trác Mộc Cường Ba cười cười nói: “Anh thật biết chọn đúng người, với những gì tôi từng trải qua, tôi chỉ có thể cho anh biết cái gì gọi là hạnh phúc thôi… hạnh phúc ấy à…” Trác Mộc Cường Ba ngước nhìn vầng trăng còn chưa tròn trên không, dưới ánh trăng vẫn có thể lờ mờ nhìn thấy hàng bạch dương phía xa xa, cảm thán thốt lên: “Có lẽ… buông bỏ tất cả những gì bất hạnh, chính là hạnh phúc.”

“Ừm, buông bỏ tất cả những gì bất hạnh.” Ba Tang nhếch mép cười, lại ngước đầu nhìn về phía vầng trăng sáng, tựa hồ như ở nơi đó, anh ta có thể cảm nhận thấy hạnh phúc. Trác Mộc Cường Ba chống hai tay lên lan can, cũng ngước nhìn trăng sáng một hồi thật lâu. Hai người đàn ông đứng sánh vai bên nhau, trầm mặc không nói một lời, chỉ nhìn trăng sáng, chỉ nhìn màn đêm.

Hồi lâu sau, Trác Mộc Cường Ba mới đột nhiên hỏi: “Ngày mai có tuyết rơi không nhỉ?” Ba Tang lắc đầu: “Không, ngày mai sẽ có mặt trời.”

Trác Mộc Cường Ba khẽ nhắm hờ mắt lại, tưởng tượng cảm giác ấm áp của mặt trời mùa đông, thầm nhủ: “Có lẽ, đây cũng là một thứ hạnh phúc.”

Lại một lúc lâu sau, Trác Mộc Cường Ba mới lên tiếng hỏi tiếp: “Ba Tang…” “Ừ?”

“Anh… anh thực sự vì báo đáp ân tình của gia đình tôi với anh trai anh nên mới đến giúp đỡ chứ? Có phải vì nguyên nhân nào khác nữa không?”

“Khác? Nguyên nhân gì?” “Chẳng hạn như, có người cho anh một món tiền lớn, để anh theo dõi chúng tôi, mang thông tin về chúng tôi gửi cho y.”

“Nếu tôi nói là có, anh sẽ xử trí ra sao?” Giọng Ba Tang tựa như cơn gió lạnh heo hút, anh ta ngoảnh đầu lại, nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt tựa như ánh mắt của loài sói.

Trác Mộc Cường Ba trấn tĩnh nhìn thẳng vào Ba Tang, nhìn vào đôi mắt lạnh lùng như mắt sói ấy, bình tĩnh nói: “Tôi không biết.” Gã ngẩng đầu lên ngắm trăng, thở dài một tiếng: “Nói thực lòng, nếu thực sự xảy ra chuyện như thế, tôi cũng chưa nghĩ ra sẽ phải xử trí ra sao nữa. Chỉ có điều vấn đề này đã ở trong lòng tôi từ lâu lắm rồi, tôi cần phải hỏi ra mới được. Tôi thực không hy vọng, trong đội ngũ của chúng ta, lại xuất hiện một kẻ bán đứng đồng đội. Mọi người đều được vận mệnh tập hợp lại bên nhau, cần phải giúp đỡ lẫn nhau, dựa dẫm vào nhau mới có thể sinh tồn được. Nếu người nào có tâm địa phản bội, ắt sẽ đưa tất cả những người còn lại đi vào bóng tối. Tôi cần phải tin tưởng một trăm phần trăm vào các thành viên trong đội của mình, đồng thời cũng hy vọng mọi người tin tưởng tôi một trăm phần trăm, như vậy, đội của chúng ta mới có thể cùng nhau vượt qua gian khó, vượt mọi cản trở để đạt được mục đích của mình.”

Gã lại đưa mắt nhìn Ba Tang, nét mặt bình lặng như nước: “Kỳ thực, ngay từ khi giáo quan Lữ Cánh Nam hoài nghi trong chúng ta có người mật báo tin tức, tôi đã nghĩ ngay tới anh. Thân phận của anh tương đối đặc biệt, hơn nữa, khi chúng tôi tới tìm anh lần đầu tiên, anh cũng không chịu hợp tác. Bình thường anh lại trầm mặc ít nói, hay ở một mình một chỗ, người duy nhất nói chuyện được với anh, e rằng chỉ có mỗi đội trưởng Hồ Dương thôi. Tôi nghĩ, giáo quan chú trọng huấn luyện cho anh quan sát thiên tượng, mà không phải hạng mục nào khác là cũng có suy nghĩ của cô ấy. Thế nhưng, đội ngũ này lại không thể thiếu anh được, nghĩ lại lúc ở Đảo Huyền Không tự, nếu không có anh kịp thời tỉnh ngộ, sựsống chết của thầy giáo và Mẫn Mẫn cũng khó mà biết được thế nào. Chúng tôi cực kỳ cần đến sự giúp đỡ của anh, vì vậy, tôi mong anh có thể thành thực trả lời câu hỏi này của tôi, rốt cuộc anh có làm chuyện gì không phải với mọi người không vậy?”

Nghe những lời Trác Mộc Cường Ba nói, Ba Tang trước tiên lạnh lùng hờ hững, rồi sau đó là cười gằn lạnh lẽo, khóe miệng giật giật như thể đã chuẩn bị nói gì đó, nhưng rồi khi nghe tiếp, anh ta lại trầm ngâm, cắn chặt răng, tựa như đang vùng vẫy đấu tranh gì đó, cuối cùng, đôi mắt sáng rực hung quang của loài sói ấy dần dần tan chảy ra trước ánh mắt trong vắt như nước suối của Trác Mộc Cường Ba.

“Tôi không làm!” Ba Tang đưa ra một câu trả lời như thế, kế đó lại nói: “Kỳ thực lần đó tôi…” Trác Mộc Cường Ba ngăn anh ta lại: “Như vậy là đủ rồi!” Gã đặt hai tay lên vai Ba Tang, kiên định mà mạnh mẽ khẳng định: “Tôi tin anh.”

Ba Tang nghi hoặc ngẩng đầu lên, chỉ thấy trong đôi mắt đen láy của Trác Mộc Cường Ba có một vầng trăng sáng, anh ta kinh ngạc nhận ra, trong tâm tưởng mình bỗng dâng trào lên một tia sợ hãi. Ba Tang biết, khi Cường Ba thiếu gia đã nói ra ba chữ ấy, có nghĩa là, cho dù trước đây mình từng làm gì, hoặc gã đã nghĩ những gì, tất cả đều không còn quan trọng nữa. Sự tín nhiệm này, là sự tín nhiệm tuyệt đối có thể bao dung hết thảy, trước khi tìm thấy anh trai ruột của mình, sự tín nhiệm đó, chỉ tồn tại ở trong nhóm người ấy, anh ta gọi bọn họ là… chiến hữu. Tất cả vì cùng chung cảnh ngộ mà tụ hợp lại với nhau, chỉ có ở trên chiến trường, trong vô số lần chiến đấu sinh tử đào luyện, mới có thể kết mối gắn bó, cùng tình nghĩa có thể vì nhau mà quên đi chính bản thân mình như thế. Trước giờ, Ba Tang vẫn luôn nhận định rằng, toàn bộ chiến hữu của mình đã mất mạng trong chiến đấu, nhưng giờ đây, một câu nói của Trác Mộc Cường Ba đã khiến anh ta lại một lần nữa cảm nhận được, mình đã tìm thấy một đội ngũ mới, một đám chiến hữu mới. Những người đó ở ngay bên cạnh anh ta, khi anh ta bị thương, sẽ có người bất chấp bản thân mà xông lên chặn lấy quả lựu đạn đang bay tới, khi anh ta mệt mỏi, sẽ có người canh giấc, giúp anh ta xua đuổi lũ dã thú, rắn rết độc trùng xung quanh, không cần phải lo lắng nguy hiểm bất thình lình ập xuống, không cần phải lo lắng mà say ngủ trong đêm đen. Thì ra, khi được người khác tin tưởng, cũng là một thứ hạnh phúc.

Trác Mộc Cường Ba như trút được gánh nặng, ánh mắt ấy, và cả giọng nói ấy của gã, đã không còn một chút nghi vấn nào nữa: “Không cần giải thích gì hết cả, anh đã đưa ra câu trả lời, như vậy là đủ lắm rồi. Hà, biết được anh không phải là kẻ bí mật báo tin cho bọn chúng, tâm trạng tôi cũng dễ chịu hơn nhiều lắm. Ừm, còn một lúc lâu nữa trời mới sáng, nghỉ ngơi thêm một lát nữa đi, ngày mai lấy được số tài liệu đó xong chúng ta sẽ về nước luôn.”

Nhìn bộ dạng thoải mái của Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang không khỏi mỉm cười: “… con bò Yak trên núi.” “Cái gì?”

“Ý tôi là, anh cứ hỏi thẳng thừng như vậy, nếu tôi thật sự là kẻ bí mật bắn tin cho đối phương kia, làm sao lại thật thà trả lời anh chứ? Nói không chừng, còn vì câu nói đó, mà sinh lòng muốn giết anh nữa thì sao?”

“Kha kha, tôi chưa bao giờ cảm thấy mình là người rất thông minh, thậm chí có lúc còn làm việc rất kém cỏi nữa, nhưng tôi chính là tôi, tôi kiên trì, và, tin tưởng.” Trác Mộc Cường Ba đã đi vào đến cửa, quay đầu ra nói: “Anh cũng nên tin vào mọi người, bất kể là lúc nào, chúng ta cũng đều là một nhóm. Anh có biết Bộc Tồn Hân không? Anh ta từng nói rằng, tâm hồn mỗi con người đều như một cánh cửa sổ, anh mở nó ra, ánh dương mới chiếu vào trong được.”

Nhìn bóng lưng cao lớn của Trác Mộc Cường Ba, bàn tay nắm chặt lại thành nắm đấm của Ba Tang chầm chậm thả lỏng, nhưng bàn tay kia lại nắm chặt lại, một giọng nói từ tận đáy lòng vẳng lên, dần dần chiếm lĩnh toàn bộ tâm trí anh ta “Tôi tin anh! Tôi tin anh! Tôi tin anh!…” Ba Tang lẩm bẩm nói: “Cường Ba thiếu gia…”

Chiều hôm sau, hai người đến sân thượng tòa nhà cao tầng đợi Aleksandrovich. Ráng hồng vừa dâng lên nơi cuối chân trời, Aleksandrovich đến đúng hẹn. Tay người Nga này cao một mét chín, mái tóc vàng nhạt ánh lên sắc bàng bạc, tuy nói là mắt diều mũi cú vọ, nhưng gương mặt lại như mặt đàn bà con gái được chăm chút cẩn thận, trắng hồng trơn mướt, còn tướng mạo rất giống với tiên nhân bạch phát đồng nhan trong thần thoại Trung Quốc.

Aleksandrovich kẹp dưới nách một xấp báo, tay xách cặp tài liệu, vừa lên sân thượng đã nhìn chằm chằm vào cái ba lô trong tay Ba Tang, y biết rõ, bên trong toàn là tiền mặt. Trác Mộc Cường Ba nói: “Ông Aleksandrovich thật đúng giờ.” Ba Tang liền dịch lại cho bên kia.

Aleksandrovich đưa mắt nhìn bốn phía xung quanh, đoán định không có mai phục, khi ấy mới nhìn kỹ hai đối tượng giao dịch mặc áo da đen, nửa đùa nửa thật nói: “Nếu không nhìn tướng mạo hai người, tôi còn tưởng mình giao dịch với mafia cơ đấy.” Nhưng Ba Tang không tỏ vẻ gì, cũng không cười hùa theo, thái độ lạnh lùng ấy khiến Aleksandrovich không khỏi giật thót mình, thầm nhủ chắc không đến nỗi là mafia thật đấy chứ.

Ba Tang mở túi ra, bên trong xếp ngay ngắn từng cọc từng cọc tiền mặt, nói: “Tiền ở đây, đồ đâu?”

Aleksandrovich giơ cặp tài liệu lên. Đúng lúc đó, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang cùng giật mình cảnh giác. Có người ở sau lưng họ đang nói bằng tiếng Nga: “Không được cử động!” Aleksandrovich biến sắc, hai tay chầm chậm giơ lên cao. Kẻ kia lại lặp lại: “Không được cử động, tao bảo mày không được cử động cơ mà!” Aleksandrovich nhìn hai người bọn Trác Mộc Cường Ba, kêu lên: “Các người bán đứng tôi hả!”

Ba Tang nói: “Chó chết, chúng tôi vừa mới đến đây một ngày, rõ ràng là ông bị người ta để ý từ trước rồi! Đúng là cái thằng ngu!”

Trác Mộc Cường Ba thầm suy tính, trên sân thượng này vốn không có người nào, lúc tới đây bọn gã đã kiểm tra kỹ một lượt rồi, rõ ràng người này vừa leo tường lên đây. Không ổn, hắn đang vòng qua chỗ bọn gã, hình như muốn cướp món đồ trong tay Aleksandrovich. Chuyện là thế nào vậy? Ừm, tên tóc đỏ này, hôm qua gã đã thấy trên phố! Hắn ở trong đám thanh niên chơi môn Parkour đó!

Ba Tang thì vẫn để ý quan sát từng cử động của gã thanh niên tóc đỏ. Hắn cầm trong tay một khẩu súng lục lớn, đang chầm chậm tiến lại gần chỗ Aleksandrovich, luôn miệng bảo Aleksandrovich không được nhúc nhích, còn nói thêm một số lời lẽ đầy uy hiếp nữa. Ba Tang thầm suy tính, nhìn hành động của tên này thì chắc là tay mới, có lẽ là lần đầu tiên cầm súng uy hiếp người ta? Hắn cầm súng gì vậy? Loại tự lắp ráp? Nhìn còn lớn hơn cả súng Desert Eagle một cỡ nữa, chắc là phải nặng lắm, nhưng trông hắn…

“Súng đó là đồ giả! Súng đồ chơi!” Ba Tang dùng tiếng Nga nhắc nhở Aleksandrovich, nhưng tay này đã bị thanh niên tóc đỏ kia áp sát, giơ tay giật lấy cặp tài liệu, rồi xoay người bỏ chạy, đồng thời ném khẩu súng đồ chơi ấy về phía Trác Mộc Cường Ba. Hắn không chạy xuống cầu thang, mà xông thẳng ra rìa sân thượng. Ba Tang thầm giật mình kinh ngạc: “Khốn kiếp, chẳng lẽ hắn muốn nhảy thẳng xuống? Đây là nhà cao hai mươi tầng cơ mà!”

Nhưng Trác Mộc Cường Ba thì đã có chuẩn bị tâm lý, gã cũng hơi hiểu biết một chút về môn chạy Parkour này. Nó bắt nguồn từ một phong trào thể thao ở Pháp giai đoạn những năm 80, không dựa vào bất cứ công cụ gì, chỉ sử dụng năng lực thân thể để vượt qua các loại chướng ngại vật khác nhau. Về sau nó đã phát triển thành một môn thể thao mạo hiểm rất được thanh thiếu niên ưa thích, hết sức giống với mấy môn khinh công dạngphi thiềm tẩu bíchcủa Trung Quốc. Người luyện môn này thông thường đều có thể chạy nhanh giữa các khu nhà, hành lang trong thành phố như trên đất bằng. Gã lớn tiếng hét lên: “Đuổi theo, hắn là dân chơi Parkour, sở trường lớn nhất chính là leo tường và nhảy qua các nhà cao tầng đấy.”

Cuộc rượt đuổi trong thành phố

Gã thanh niên tóc đỏ cướp xong cặp đựng tài liệu, trông như thể muốn dồn sức nhảy ra ngoài sân thượng, kỳ thực lại hết sức khéo léo xoay ngoắt người, một tay bám vào lan can, tay kia đưa cặp tài liệu lên miệng ngậm, ngắm chuẩn phương hướng, buông tay ra, rồi trượt xuống tầng dưới. Lúc đó, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang mới bắt đầu cất bước.

Hai người chạy tới sát lan can thì tên cướp đã xuống được năm tầng lầu, hai tay hắn bám vào mép ngoài cửa sổ, hai chân tựa sát vào tường, thân thể đung đưa hai ba lượt như khỉ chuyền cành, tay buông ra, kế đó lại chụp lấy, cả người đã rơi xuống mép cửa sổ tầng dưới nữa. Ba Tang nói: “Nhanh thật!”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Mùa đông các cửa sổ đều đóng chặt, hắn không thể nào chui cửa sổ vào bên trong được, đuổi kịp không?”

Ba Tang cười gằn: “Hừ, hừ…” đoạn bỏ ba lô xuống, một tay chống lên lan can, cả người đã lao ra bên ngoài, lại nghe “bình” một tiếng, chỉ thấy anh ta đã rơi xuống cục điều hòa treo bên ngoài một cách chuẩn xác, kế đó lại hướng sang bên trái, nhắm về phía cục điều hòa tầng dưới nhảy xuống.

Trác Mộc Cường Ba quan sát, thấy tuy Ba Tang nhanh hơn gã thanh niên nọ, nhưng so ra thì cũng không nhanh hơn được bao nhiêu, như vậy ắt sẽ để tên tóc đỏ ấy chạy mất, gã ngẩng đầu lên, liền trông thấy quả khí cầu có treo băng rôn quảng cáo bên cạnh, lập tức không nghĩ ngợi gì, giật tấm băng rôn ấy quấn vào cổ tay, rút dao ra cắt đứt dây buộc, nhảy thẳngxuống.

Ba người trước sau nhảy từ trên sân thượng xuống, Aleksandrovich mới giật mình sực tỉnh khỏi cơn khiếp hồn bạt vía, thở hổn hển như trâu. Đột nhiên hai mắt y sáng bừng lên, ồ, bọn họ bỏ tiền lại đây rồi. Y nhặt đống tiền rơi rải rác lên, lút ca lút cút đi xuống cầu thang.

Trác Mộc Cường Ba lợi dụng quả khí cầu làm giảm trọng lượng của mình, hai chân guồng chạy trên mặt tường dốc đứng, chẳng mấy chốc đã vượt qua Ba Tang đang nhảy qua nhảy lại trên các cục điều hòa nhiệt độ, vùn vụt xông thẳng xuống.

Gã thanh niên tóc đỏ xuống đến tầng trệt, đang chạy băng băng trên nóc dãy ki ốt một tầng, mới guồng chân chưa được mười mét, Trác Mộc Cường Ba đã xuống tới mặt đường, lập tức nghiêng vai lăn một vòng, kế đó buông quả khí cầu quấn nơi cổ tay ra, dốc toàn lực truy kích. Nghe thấy tiếng chạm đất, gã thanh niên tóc đỏ không ngờ có người lại nhanh như vậy, bất giác kinh ngạc ngoảnh đầu lại, nhưng khi hắn nhìn thấy hai chân Trác Mộc Cường Ba, liền lập tức cười gằn lạnh lẽo, giày da! Vì ở Moscow rất lạnh, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đều đi giày da cao cổ có lót lông bên trong, dùng để đá người ta thì rất mạnh, nhưng chạy bộ thì thực không dễ chút nào.

Trên nóc dãy ki ốt bằng phẳng, Trác Mộc Cường Ba thân thể cao lớn, chẳng mấy đã kéo gần được khoảng cách với gã thanh niên tóc đỏ, nhưng đúng vào lúc sắp bắt được hắn, đối phương lại đã hất văng cặp tài liệu sang phía Đông, còn mình thì xoay người chạy sang hướng Bắc. Ở phía kia sớm đã có một thanh niên nhuộm tóc xanh đứng đợi tiếp ứng, dùng một cái túi bằng vải buồm hứng lấy cặp tài liệu, đeo lên lưng rồi chạy theo hướng khác. Trác Mộc Cường Ba đành bỏ mặc cho gã tóc đỏ chạy mất, xoay người chuyển hướng đuổi theo tên nhuộm tóc xanh.

Gã thanh niên tóc xanh kia còn gầy nhẳng hơn gã tóc đỏ, nhìn thoáng qua thì thấy quần áo cũng mỏng manh hơn, nhưng động tác lại cực kỳ nhanh nhẹn, chẳng mấy chốc đã chạy vút qua khu ki ốt chỉ có một tầng lầu đối diện là một tòa nhà cao hai mươi tầng khác, ở giữa vắt ngang một con ngõ nhỏ cho người đi bộ, rộng chừng năm mét. Gã thanh niên tóc xanh không dừng lại, chạy đến mép dãy ki ốt liền tung người nhảy vút lên, vượt qua con ngõ rộng năm mét, rơi xuống dãy bồn hoa tầng một của tòa nhà cao tầng đối diện, rồi tiếp tục chạy dọc theo hành lang. Trác Mộc Cường Ba vẫn bám chặt không rời, tung người nhảy vút qua con ngõ, Ba Tang theo sát phía sau.

Phía trước hành lang ngoài rìa ấy có một bức tường cao ba mét chia làm hai khu vực, gã thanh niên nhuộm tóc xanh đạp lên tường hai bước, kế đó vươn tay trái ra ấn lên bờ tường, tay phải cũng đồng thời vung lên bám vào, thân thể vừa trầm xuống, hai tay đã vận lực ấn mạnh, hai chân đồng thời đạp xuống, cả người liền bắn vọt sang phía bên kia tường, không hề dừng lại một khoảnh khắc nào. Trác Mộc Cường Ba cũng đến trước bức tường, kế đó đạp chân chạy trên mặt tường hai bước, rồi bỗng “soạt” một tiếng, cả người trượt xuống, thân thể mất thăng bằng, đầu đập vào tường đánh “bốp” một cái, lúc này gã mới nhận ra, mình đang đi giày da, không bám được vào mặt tường. Ba Tang cũng đã chạy tới, không hề dừng lại, chạy lướt qua Trác Mộc Cường Ba, chỉ buông lại một câu “cẩn thận đấy,” rồi chạy ra rìa ngoài hành lang, giơ tay về phía bức tường, vận sức ẩy mạnh, thân thể liền như con quay lướt dọc mặt tường xoay một vòng, chớp mắt cái đã sang phía bên kia.

Trác Mộc Cường Ba xoa xoa chỗ sưng trên trán, làu bàu mắng một tiếng: “Ngu thật,” rồi theo Ba Tang trượt ra phía rìa ngoài bức tường để sang phía bên kia.

Xung quanh tầng một của tòa nhà này đều có một hành lang rìa rộng chừng một mét, đặt đèn chiếu sáng, biển quảng cáo, các vật trang trí. Gã thanh niên kia chạy lên chạy xuống giữa đủ các chướng ngại vật ấy, thân thể lướt đi vun vút như cá bơi trong nước. Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đuổi theo muốn hụt cả hơi, chạy, nhảy, vọt lên cao, dịch người trong khoảnh khắc, phải vận dụng mọi biến hóa của thân thể, mới tránh được các chướng ngại vật mà không làm ảnh hưởng đến tốc độ đôi chân.

Đoạn hành lang phía trước bỗng xuất hiện khoảng trống lớn, bên trên là một hộp quảng cáo rất lớn, tựa như ban đầu để treo tấm biển quảng cáo này lên, người ta đã phải đập bỏ một khoảng hành lang, chỉ để lại một chút rìa ngoài rộng chưa đầy mười xăng ti mét. Khoảng trống này phải dài tới bảy tám mét, chạy nước rút nhảy vọt qua e khó mà qua nổi. Ba Tang đang chạy phía sau lưng gã thanh niên, không khỏi có cảm giác muốn xem hắn sẽ băng qua thế nào. Chỉ thấy gã thanh niên đó xông tới chỗ hổng, đà lao vẫn tiếp tục, có điều trọng tâm bỗng nhiên hạ thấp, cả người bò sát nền hành lang, dùng cả tay lẫn chân, thoạt trông cứ như con tinh tinh đang chạy vậy. Kế đó, hắn vươn tay trái chân phải lên trước, rồi chuyển qua tay phải chân trái, cứ thế chạy trên mép rìa hành lang rộng chưa đầy mười xăng ti mét, linh hoạt không khác gì một con mèo.

Miêu bộ! Ba Tang thoáng ngẩn người, kế đó cũng guồng chân chạy trên mép rìa rộng chưa đầy mười xăng ti mét ấy, nhưng anh ta không chạy theo kiểu miêu bộ giống gã thanh niên, mới được bảy tám bước, tới được giữa chỗ hụt, thân thể đột nhiên mất thăng bằng rơi xuống, cũng may hai tay đã bám được vào mép, đành treo người lơ lửng như vậy rồi tiếp tục bò qua, tốc độ không khỏi chậm đi đáng kể.

Trác Mộc Cường Ba đuổi sát đằng sau, lúc gã thanh niên tóc xanh khom người chạy theo kiểu mèo, gã đã suy nghĩ xem mình làm sao để vượt qua khoảng trống ấy. Đôi giày da gã đang đi không có sức đàn hồi, chạy đà nhảy qua là không thể, còn chạy qua trên mép kiểu kia thì gã không thành thạo bằng đối phương. Nhưng ngay sau đó, ánh mắt gã đã hướng về phía tấm quảng cáo treo trên đỉnh đầu. Bên dưới tấm quảng cáo ấy là một giá đỡ bằng thép, nhảy từ mép bên này chắc có thể tới được chỗ đó. Trác Mộc Cường Ba vừa guồng chân chạy vừa thầm tính toán, cuối cùng, khi gã cũng chạy đến chỗ mép gãy đó, liền tung mình nhảy vút lên cao, hai tay vươn ra tóm lấy giá sắt đỡ bên dưới tấm biển quảng cáo, đà lao vềphía trước không hề chậm lại. Lúc ấy, phần eo hông và hai tay gã cùng lúc phát lực, đẩy thân người về phía trước như đang đu xà đơn, đồng thời buông tay ra, cả người liền vượt lên cao một khoảng, đồng thời lao về phía trước, lộn vòng bảy trăm hai mươi độ, nhẹ nhàng vượt qua khoảng cách bảy mét. Trác Mộc Cường Ba vừa chạy vừa nói với Ba Tang vẫn đang đu người ở rìa hành lang: “Ba Tang, cố lên nào, chúng ta không thể để một thằng nhóc qua mặt như thế được.”

Gã thanh niên nhuộm tóc xanh cũng không thể ngờ hai người phía sau lại đuổi rát đến vậy, vừa bỏ rơi được một người, người khác lại đuổi theo sát sạt, không khỏi phát hoảng, thầm nhủ không hiểu hai gã áo đen này là loại người gì. Người cho bọn hắn tiền có nói đối phương cũng là cao thủ chạy Pakour thế này đâu chứ.

Lại vượt qua một con ngõ rộng chừng năm mét, phía trước đã không còn chướng ngại vật gì nữa, mà chạy trên đường cái thì ưu thế tuyệt đối thuộc về bọn Trác Mộc Cường Ba, tuy nhiên gã thanh niên tóc xanh không hề hoảng loạn, vung chiếc cặp lên ném vèo đi. Bên tòa nhà đối diện liền có người mở toang cửa sổ, đón lấy chiếc cặp, đoạn xoay người chạy lên lầu. Gã tóc xanh kêu lên: “Kalin, còn cậu thôi đấy!” Tới đây, hắn đã nghiêng người nhảy xuống mặt đường, co giò chạy thẳng một mạch. Hắn biết, thể lực của mình đã tiêu hao gần hết trong mười phút truy đuổi rượt bắt vừa rồi, giờ chỉ còn dựa cả vào Kalin nữa thôi, cậu ta cũng là người giỏi nhất trong cả bọn.

“Chó chết!” Ba Tang chửi đổng một câu, con phố rộng quá, không thể nào nhảy vọt qua được. Anh ta đang suy tính thì đã thấy Trác Mộc Cường Ba chạy phía trước chẳng nghĩ ngợi gì, dồn sức nhảy vọt lên, bám lấy thanh ngang của cột đèn đường, đu quanh một vòng, rồi cả người cuộn tròn lộn nhào liên tiếp sáu bảy vòng trên không trung, vượt qua khoảng cách sáu bảy mét, đột nhiên duỗi thẳng ra, chụp lấy thanh ngang của cột đèn đường phía đối diện, lại đu quanh một vòng nữa, phá cửa sổ lao vút vào trong nhà. Hai mắt Ba Tang lập tức sáng rỡ, cũng làm theo y như vậy mà sang phía bên kia.

Gã thanh niên tóc xanh đang kinh hoảng ngoảnh đầu lại xem mình có bị đuổi theo hay không, liền trông thấy Trác Mộc Cường Ba đu người lộn nhào trên không trung, vượt qua con phố rộng mà mình không thể vượt qua nổi, thầm giật mình chấn động, tự nhủ không hiểu đó là kỹ thuật kiểu gì? Kế đó, Ba Tang cũng lộn nhào băng qua. Gã tóc xanh thấy vậy, trong lòng thậm chí còn dâng lên cảm giác sùng bái: “Trời đất, lẽ nào hai ông chú này chính là người sáng tạo ra môn chạy Pakour hay sao?” Hắn ta nào có biết, kỹ thuật lộn người qua khoảng không, tóm lấy vật đỡ, rồi lại tiếp tục lộn nhào như thế cực kỳ nguy hiểm, chỉ hơi bất cẩn một chút là sẽ rơi xuống ngay, không luyện tập cả ngàn lần vạn lần thì tuyệt đối không thể vận dụng thành thục thoải mái như Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang được. Kỹ xảo này, chính là thứ Lữ Cánh Nam bắt họ học của các vận động viên môn thể dục dụng cụ.

Gã thanh niên bắt được chiếc cặp tài liệu vẫn chạy một mạch lên cầu thang, giữ khoảng cách một tầng rưỡi với Trác Mộc Cường Ba. Hắn đã tính toán, mười tầng đầu tiên thì mình có ưu thế, có lẽ sẽ nhanh chóng kéo giãn khoảng cách, mười tầng tiếp theo, tốc độ hai bên giữ ở trạng thái cân bằng, còn mười tầng sau cùng, có lẽ mình sẽ bị hai người kia đuổi kịp, nhưng lúc ấy chỉ cần lên được sân thượng thì trời đất đã là của hắn, chẳng còn phải sợ gì nữa.

Không ngờ, chỉ mới leo được năm tầng, khoảng cách giữa hắn và Trác Mộc Cường Ba chỉ còn có một tầng lầu. Chưa đến tầng thứ mười lăm, hắn đã thấy Trác Mộc Cường Ba ở phía sau, chiếc áo da đen phần phật, đôi mắt khiến người ta run rẩy tận tâm hồn. Chẳng những thế, phía sau còn có tiếng bước chân của một người khác đang giẫm thình thịch trên các bậc thang. Gã thanh niên đeo cặp ấy không khỏi hoảng hồn, thầm nhủ: “Thể lực hai ông chú này sao mà tốt thế không biết? Trong cái cặp này rốt cuộc là thứ gì vậy nhỉ? Sớm biết thế thì đã không nhận lời tay kia rồi, mỗi chút tiền còm mà mệt đứt cả hơi.”

Trác Mộc Cường Ba cũng đã nhìn thấy gã thanh niên đeo cặp ở phía trước, một tên tóc nhuộm màu xanh lam. Gã nhớ lại, đó chính là tên đã giữ thăng bằng trên cột đèn ở đầu phố hôm qua, rồi cả cảm giác bị người ta nhìn trộm lúc gã ở trên sân thượng hôm trước… Lẽ nào bọn gã đã bị người ta theo dõi?

Lại lên thêm hai tầng nữa, gã thanh niên tên Kalin thấy tình thế không ổn, liền không chạy lên cầu thang nữa mà rẽ vào hành lang. Chỗ này đã là khu dân cư, hắn ngắm chuẩn ô cửa sổ thông gió phía trên cửa ra vào của một nhà dân, đột nhiên đạp chân vào bức tường bên trái hành lang, mượn lực bật lên bức tường bên phải, rồi lại đạp chân vào tường bên trái, bắn sang phía tường bên phải, cứ liên tiếp như vậy ba lần, cộng với đà lao về phía trước, hai chân hắn đã thuận thế nhét qua cửa sổ thông gió ấy, tựa như rắn về hang, thoắt cái chui tọt cả người vào trong. Toàn bộ các động tác hết sức liền mạch, cả Trác Mộc Cường Ba cũng không khỏi ngấm ngầm tán thưởng.

Ô cửa thông gió đấy rất nhỏ, Trác Mộc Cường Ba không thể chui vào, nhưng gã cũng có cách riêng của mình, cánh cửa ghép bằng mấy tấm gỗ ván ấy đã cũ rích cũ mèm, sắp lìa ra đến nơi. Gã cứ nhằm thẳng vào cánh cửa xông thẳng tới, chỉ nghe “ầm” một tiếng, trên cửa liền để lại một lỗ hổng hơi giống hình người, Trác Mộc Cường Ba đã ở bên trong.

Trong nhà không có người, Trác Mộc Cường Ba thò đầu vào trong quan sát, chỉ thấy gã thanh niên tên là Kalin đã chui ra ngoài cửa sổ, đang leo lên chỗ cao hơn. Trác Mộc Cường Ba cũng lao ra theo hắn.

Ngoài tầng thứ hai mươi hai, Kalin bám vào chấn song cửa sổ, tiếp tục leo lên trên, trong đầu thầm nhủ: “Giờ thì không đuổi được tôi nữa rồi hai ông chú ạ, tôi là cao thủ leo trèo được mệnh danh là ‘chuyên gia leo vách đá’ đấy nhé.” Nhưng khi hắn ngoảnh đầu xuống nhìn, liền giật bắn mình kinh hãi, suýt chút nữa thì rơi. Hai “ông chú” kia vẫn giữ khoảng cách bám theo phía sau, tốc độ leo bám thậm chí còn nhanh hơn cả mình, đặc biệt là ông chú thân hình cao lớn khôi vĩ, hầu như không cần suy nghĩ gì đã có thể tìm thấy đường leo bám trên bức tường gần như không có chỗ bám tay ấy, những chỗ hắn không thể vượt qua nổi, ông chú đó cũng vươn tay ra một cái, đã chộp được một chỗ gồ ra nhỏ xíu, kế đó đu người một cái, nhẹ nhàng băng qua như khỉ vượn vậy.

Lúc này những người đi đường bên dưới cũng đã bắt đầu chú ý đến ba kẻ đang leo bám phía bên ngoài tòa nhà cao tầng, chỉ thấy hai cái bóng đen một cái bóng trắng tựa như ba con nhện dịch chuyển cực nhanh trên mặt ngoài trơn nhẵn như gương của tòa nhà. Vô khối người đã kêu rú lên kinh ngạc, còn có người móc điện thoại di động ra báo cảnh sát, nhưng đa phần đều dừng chân ngước lên nhìn. “Mẹ ơi, mẹ ơi.” Một chú bé tầm sáu bảy tuổi chỉ lên tòa nhà, nói với mẹ nó: “Nhìn kìa mẹ, Người Nhện đấy, mẹ ơi!”

Mẹ thằng bé vội gắt con trai: “Không, chẳng có Người Nhện Người Nhiếc gì cả, đó là lũ trẻ con hư đốn không nghe lời. Con cấm không được học theo đấy nhé. Không học hành đến nơi đến chốn sau này mới như thế, chẳng ai thích những đứa trẻ hư thế đâu.”

Kalin rõ ràng rất quen thuộc với “tuyến đường” bên ngoài tòa nhà này. Mấy lần Trác Mộc Cường Ba đã đuổi sát lắm rồi, nhưng hắn vẫn có thể linh hoạt tránh được, thoắt lên thoắt xuống nhảy nhót trên mép bờ tường dựng đứng, chẳng mấy chốc đã leo lên được sân thượng. Trác Mộc Cường Ba cũng nhảy lên theo. Kalin guồng chân tăng tốc chạy như điên trên sân thượng, gia tốc trong khoảnh khắc không ngờ còn nhanh hơn cả Trác Mộc Cường Ba, kế đó bắt đầu nhảy từ sân thượng tòa nhà này sang sân thượng tòa nhà khác. Ba cái bóng nhanh như ba ánh chớp, thoắt ẩn thoắt hiện. Các kiến trúc cao thấp nhấp nhô trong thành phố giờ đã thành sân chơi đuổi bắt của ba người. Từ sân thượng tòa nhà này nhảy sang sânthượng tòa nhà khác, rồi lại từ sân thượng tòa nhà khác nhảy qua cửa sổ, leo cầu thang chạy lên, hoặc bám tường leo lên, từ nóc nhà nhảy xuống hàng hiên, sau đó lại từ hành lang hoặc cửa sổ leo lên trên nóc nhà, bất cứ chướng ngại vật nào cũng không thể ngăn cản được bước chạy của cả ba. Những địa hình hiểm yếu mà người thường nghĩ rằng không thể vượt qua, trong mắt họ lại chẳng khác gì trên đất bằng. Xà nhà, ống khói, giá sắt, cầu thang treo, hành lang… tất cả đều trở thành công cụ của họ, thành những điểm đặt chân hoàn hảo, để họ hết lần này đến lần khác nhảy những cú vượt quá cực hạn của con người. Gã thanh niên tên Kalin kia đúng là linh hoạt và nhảy nhót tốt hơn hai gã đầu tiên nhiều, đã mấy lần Trác Mộc Cường Ba tưởng chừng như chỉ vươn tay ra là chộp được hắn, vậy mà lần nào hắn cũng né tránh được trong gang tấc. Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng thêm bực bội.

Chỉ thoắt cái, ba người đã tới trước một khối nhà lớn hình chữ “U”, tòa nhà chính cao chừng bảy mươi tầng, hai bên gắnvới hai tòa nhà phụ tựa như hai cánh tay vươn ra, cánh bên phải cao chừng bốn mươi tầng, cánh bên trái cao khoảng ba mươi tầng, giữa hai cánh tay cách nhau khoảng ba chục mét có lẻ. Kalin và hai người bọn Trác Mộc Cường Ba nhảy từ một tòa nhà cao gần sáu mươi tầng ở bên phải sang sân thượng của “cánh tay” bên trái, nhưng hắn dường như không hề có ý định dừng lại, trông bộ dạng vẫn như thể đang chuẩn bị tiếp tục nhảy nữa. Lúc ở trên không Trác Mộc Cường Ba đã nhìn thấy độ cao chênh lệch và khoảng cách giữa hai tòa nhà, trong lòng không khỏi lấy làm nghi hoặc. Chẳng lẽ gã thanh niên này định nhảy qua luôn sao? Chỉ chênh nhau chừng mười mét chiều cao mà phải vượt qua khoảng không rộng tới ba mươi mét, dù là pháp sư Á La e rằng cũng khó mà nhảy qua được.

Gã thanh niên tên Kalin ấy lao vút ra như cá nhảy, thân thể vọt ra ngoài khoảng không, chỉ bay ra xa được chừng mười mét đã bắt đầu rơi xuống thấp hơn độ cao của tòa nhà đối diện. Đúng lúc đó, chỉ thấy hắn rút ở thắt lưng ra một cuộn dây nylon, dùng sức quăng mạnh, tung ra một cái móc câu nhỏ. Móc câu mang theo sợi dây nylon vẽ một đường cong trên không trung, móc một cách chuẩn xác vào mép tòa nhà phía trước. Kalin đu mình trên không một cái, kế đó bay vút qua. Còn Trác Mộc Cường Ba lại chỉ đành phanh kít lại ở rìa sân thượng tòa nhà bên kia, thần người nhìn toàn bộ cảnh tượng đó. Ba Tang cũng đã đuổi tới nơi, tức tối giậm chân nói: “Khốn kiếp, không ngờ thằng nhóc còn chiêu này, nếu chúng ta vẫn còn dây móc thì…”

Gã thanh niên kia hết sức thành thục lão luyện, nhanh chóng đeo bám leo lên nóc tòa nhà bên kia, hướng về phía Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang cười toét miệng, nói mấy câu tiếng Nga mà Trác Mộc Cường Ba nghe chẳng hiểu gì. Kỹ thuật quăng dây móc vật trên không trung này chính là tuyệt kỹ thành danh của Kalin. Chiêu này là hắn học theo Người Nhện Alan Robert mà luyện thành. Hai tòa nhà phụ hai bên cách biệt hẳn với tòa nhà chính, vì vậy, giờ Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang muốn đuổi theo, ắt phải nghĩ cách xuống đất trước, sau đó lại phải leo thêm ba chục tầng lầu nữa đi lên, tốc độ dù có nhanh đến mấy cũng phải mất hai mươi phút đồng hồ mới xong. Mà trong hai mươi phút đó, Kalin đã chạy mất tăm mất tích từ lâu rồi. Nhìn gã thanh niên tóc xanh lam bên tòa nhà đối diện đang lè lưỡi làm mặt quỷ trêu mình, Ba Tang tức sôi cả lên. Trác Mộc Cường Ba ngược lại tỏ ra khá bình tĩnh, không có giày đế cong trợ lực đàn hồi, cũng không có dây móc, muốn nhảy thẳng qua khoảng cách xa như thế này là điều bất khả; chạy xuống theo đường cầu thang tuyệt đối là cách tệ nhất trong những cách có thể; hai tòa nhà phụ ngăn cách với tòa nhà chính bằng tường thủy tinh, có thể đập vỡ mà xông qua, nhưng làm vậy sẽ phải chạy qua hành lang, còn phải xuống mười tầng nhà nữa. Chỉ cần gã thanh niên kia hút khỏi tầm mắt hai người, giữa thành phố mênh mông này muốn tìm lại hắn thì thật chẳng khác nào mò kim đáy biển. Chính giữa tòa nhà chính có hai tấm pano cỡ lớn buông từ nóc nhà xuống, cách hai tòa nhà ở hai bên chừng sáu bảy mét gì đó, ngoài ra chính giữa tòa nhà chính còn gắn một tấm huy hiệu bằng đồng rất lớn, hình như là logo của công ty thì phải. Cái logo đồng khổng lồ ấy được treo ở khoảng tầng ba lăm, tuy nói là hình tròn, nhưng chỗ đặt chân được cũng phải đến gần hai mét. Vấn đề duy nhất còn lại là, đôi giày gã đang đi vốn không thể chạy dọc trên bờ tường được! Hết cách này tới cách khác hiện ra trong óc Trác Mộc Cường Ba, nhưng rồi tất cả đều bị gã gạt đi. Tuy chỉ trong một tích tắc ngắn ngủithôi, nhưng ít nhất gã cũng đã nghĩ đến năm sáu phương án khác nhau, khốn nỗi không phương án nào có thể thực hiện được. Trác Mộc Cường Ba bực bội đạp mạnh chân, đá vỡ cả ô cửa kính ngăn giữa tòa nhà chính với khu nhà phụ bêntrái.

Vừa khéo trùng hợp, khi ô cửa kính ấy vỡ tung ra, Trác Mộc Cường Ba mới kinh ngạc phát hiện bên trong đó xếp ngay ngắn cả một chồng hộp giấy. Mặc dù không nhận ra được chữ trên hộp, nhưng hình vẽ bên ngoài đã thể hiện rõ thứ ở bên trong, thêm nữa lúc đó Ba Tang cũng vừa lên tiếng: “Giày bóng rổ chuyên nghiệp! Của Adidas…” Không ngờ ở đây lại có cả một kho để giày. Trác Mộc Cường Ba tiện tay giật bung một hộp ra, vừa khéo đúng cỡ của gã. Lúc này Kalin đã vẫy tay chào tạm biệt, xoay người chầm chậm bỏ đi, dù sao thì hắn chạy nãy giờ cũng đã mệt lử ra rồi.

“Đợi đấy!” Trác Mộc Cường Ba nhanh chóng thay đôi giày bóng rổ chuyên nghiệp có độ đàn hồi rất tốt kia vào, hai chân giẫm giẫm xuống đất nhảy hai ba lượt. Ba Tang cũng thay một đôi giày khác, miệng hỏi: “Có nhảy qua được không?”

“Không nhảy qua được.” Trác Mộc Cường Ba liếc nhìn tòa nhà chính vắt ngang giữa hai tòa nhà phụ, rồi lại đưa mắt nhìn gã thanh niên nhuộm tóc xanh lam đang vừa quay người đi vài bước vừa ngoảnh lại nhìn, tự tin nói: “Nhưng tôi chạy qua đó được.”

Lùi lại chừng hai chục mét, chạy lấy đà rồi gia tốc trong chớp mắt, sau đó men theo bờ tường bốc dần người lên cao, chạy tà tà trên mặt tường, “bịch bịch bịch bịch” chỉ trong chớp mắt gã đã chạy ngang trên tường được bảy mét. Lúc này người Trác Mộc Cường Ba bắt đầu rơi dần xuống, nhưng tay gã đã kịp vươn dài ra, chộp lấy tấm pano cỡ lớn treo lơ lửng từ trên nóc nhà xuống, chân vẫn không ngừng guồng quay, tiếp tục chạy trên mặt tường dựng đứng, thoắt cái đã thêm được hơn chục mét nữa. Gã ngắm đúng vào vị trí của chiếc logo khổng lồ, rồi buông tay ra thả người rơi xuống đó, đồng thời vẫn không ngừng chạy, chỉ coi đó là điểm đặt chân, rồi lại tiếp tục nhún chân bật lên lần nữa, đoạn đạp chân lên tường chạy tiếp. Lúc người trầm xuống, gã lại chụp lấy tấm pano khổng lồ bên phải, mượn lực đó mà tăng dần độ cao trong khi đạp chân lên tường chạy, lao thẳng lên nóc tòa nhà đối diện…

Một loạt động tác liên hoàn đó khiến Ba Tang cứ trố mắt đờ người ra nhìn. Mặc dù đó là những động tác cơ bản anh ta đều đã biết hết, nhưng chạy liền một mạch qua như vậy, trong địa hình và hoàn cảnh như thế… Ba Tang hơi do dự trong khoảnh khắc, đành thở dài chạy vào tòa nhà chính theo lối lỗ hổng Trác Mộc Cường Ba phá ra.

Lúc Kalin ngoảnh đầu lại lần nữa, hắn thần người ra… Hai ông chú đang giẫm chân tức tối vì không có cách gì đối phó ở tòa nhà đối diện đã biến mất, còn ở mép rìa sân thượng tòa nhà hắn đang đứng, một “ông chú” đang thò đầu lên như bóng ma. Làm cách nào ông ta vượt qua được khoảng cách đó vậy? Kalin không sao tưởng tượng nổi, cũng không thể lý giải nổi, một cảm giác lành lạnh phát xuất ở sâu thẳm nội tâm, từ gót chân chạy lan đi khắp cơ thể. Hắn không kịp nghĩ ngợi cho kỹ càng hơn, lập tức xoay người tiếp tục chạy. Hai người lại tiếp tục một cuộc đuổi bắt trong thành phố đầy những cao ốc san sát, chỉ có điều lần này hoàn cảnh đã tuyệt đối thay đổi.

Cạm bẫy

Chạy bộ một thời gian dài, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy thân thể mình hơi nóng lên, lại nhảy qua một tòa nhà cao tầng khác, cả người đang ở giữa không trung, gã chợt giật thót mình, thân thể cũng chỉ mới hơi nóng lên. Nhưng mà, rõ ràng là gã đã chạy được cả một quãng dài như vậy kia mà. Ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ thấy Ba Tang đã cởi áo da, chẳng rõ quăng đi đâu mất rồi, bộ dạng hình như đã thấm mệt. Còn gã, tại sao không thấy mình thở dốc, cảm giác ấy, tựa như cá tự do thở trong nước, chim chao liệng theo gió trên bầu không, chạy như thế rồi mà lẽ nào vẫn chưa đến cực hạn của thể lực gã chứ?

Trác Mộc Cường Ba khống chế thân thể xoay chuyển trên không trung một vòng – thân thể gã làm động tác đó một cách hết sức tự nhiên, chỉ hơi nóng thôi sao, chẳng lẽ nào, gã vẫn chưa dùng hết sức hay sao? Gã liếc nhìn cái đầu nhuộm xanh lam phía trước, tựa như ấy là ngọn lửa thiêu thân, không ngừng bập bùng, bập bùng. Muốn đuổi kịp hắn, còn phải nhanh hơn nữa, nhanh hơn nữa, nhanh hơn nữa…

Lồng ngực phập phồng với biên độ lớn của Trác Mộc Cường Ba không ngờ đã làm bật tung hàng cúc của chiếc áo da đen. Áo da hứng gió xòe rộng ra như áo choàng, nhìn gã chẳng khác nào một con hắc ưng đang sải cánh. Đó không phải là chạy nữa, mà là gã bắt đầu bay lượn, bay lượn giữa thành phố đông đúc, băng qua các nhà cao tầng, bên trong cơ thể trào dâng lên một cảm giác sướng khoái lạ thường xưa nay chưa từng có, chính là thứ cảm giác này, đây mới là cảm giác tự do thực thụ! Năm tòa nhà cao tầng liền nhau xếp thành hình bậc thang, chiều cao chênh nhau từ khoảng bảy mét đến mười lăm mét. Kalin nhảy trên cao xuống, nghiêng vai lộn một vòng rồi lại guồng chân chạy, sau đó nhảy xuống “bậc thang” tiếp theo, gặp chỗ cao hơn mười mét, hắn phải dùng dây thừng móc trượt xuống một nửa rồi mới nhảy. Trác Mộc Cường Ba thì không, gã xòe rộng chiếc áo da đen ra như cánh dơi, nâng cả người trượt về phía trước, dù là độ cao trên mười mét gã cũng nhảy thẳng xuống, nghiêng người lăn tròn dưới đất, đứng bật dậy lại tiếp tục truy đuổi.

Giữa hai tòa nhà có một khe hở rộng chừng hai mét, Kalin hít sâu một hơi, nằm ngang người ra, tay chân cùng choãi thẳng thành hình chữ “nhất” gác lên giữa khe hở ấy, cánh tay và gót chân cùng lúc cẩn thận nhích dần xuống dưới. Trác Mộc Cường Ba cao lớn hơn đối phương nhiều, hai cánh tay gã dang ra, hai chân đạp mạnh, đứng thẳng người giữa khe hở, thành hình một chữ “đại”, tay chân hơi lơi ra một chút, dùng tay giữ phương hướng, hai chân khống chế lực độ, cứ thế trượt xuống.

Đến một chỗ sân trời giữa các tầng lầu, Kalin phi thân lao thẳng xuống, đến giữa chừng lại quăng dây móc lên bám ngược vào chỗ sân trời ấy, mượn lực dây kéo mà trượt thẳng xuống gần hai chục mét. Trác Mộc Cường Ba đuổi tới mép sân trời, nhân lúc Kalin còn chưa kịp thu dây lại, ngắm chuẩn độ cao của đối phương, liền vung dao cắt lìa cái móc ở đầu sợi dây đi, thầm nhủ: “Không còn cái móc này, để xem ngươi còn trò gì nữa.”

Kalin vừa chạm đất, ngẩng đầu nhìn lên thấy Trác Mộc Cường Ba, cũng tự nhủ: “Không có dây móc nữa, để xem ông chú nhảy thế nào, chẳng lẽ cao hai ba chục mét thế này cũng định nhảy thẳng xuống luôn hay sao?”

Chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba liếc mắt qua hai bên một lượt, rồi chạy về phía tòa nhà bên trái, đảo người nhảy ra phía mặt bên ngoài, sao vẫn không rơi xuống thế nhỉ? Kalin tự hỏi và ngước mắt lên nhìn kỹ lại, liền thấy tay phải Trác Mộc Cường Ba đã vươn thẳng ra, bám chặt lấy một tấm quảng cáo lớn bên ngoài, xé ra một vệt dài, rồi cứ thế thả mình xuống như kéo dây ròng rọc, không nhanh mà cũng chẳng chậm. Cách mặt đất chừng khoảng mười lăm mét, tấm quảng cáo đã bị xé tới đoạn cuối cùng, thân thể Trác Mộc Cường Ba liền đu đưa một cái, kéo cả tấm vải quảng cáo chạy nhanh sang bên trái, thân thể trên không trung sững lại, tay đã buông lơi, vừa khéo lại chụp lấy một tấm quảng cáo khác. Trong mắt Kalin, cái bóng màu đen ấy đã tựa như loài yêu ma trong cơn ác mộng không ngừng áp sát đến chỗ mình.

Trác Mộc Cường Ba chạy như bay trên tường, sải chân được hơn chục bước, hết một tấm quảng cáo, tay buông ra, lại vươn lên, giật lấy tấm quảng cáo khác, đu qua khoảng cách giữa các tầng, tiếp tục sải chân chạy dọc tường, tay buông ra, lại vươn lên, cổ tay quấn một vòng, nghe “soạt” một tiếng đã trượt xuống mười mét.

Đáng sợ quá, chạy nhanh theo phương ngang trên mặt tường thẳng đứng, đây mà là chạy Pakour ư, phải nói là đang bay mới đúng! Hai chân Kalin đã bắt đầu mềm nhũn ra, cố nhiên là do thân thể bị thoát lực gây nên, nhưng cảnh tượng xảy ra trước mắt, cũng khiến gã bị chấn động không hề nhỏ chút nào.

Chạy, Kalin vẫn chưa thoát hẳn khỏi cơn kinh hãi, nhưng cuối cùng cũng nhúc nhích được đôi chân. Lúc này, hắn chỉ muốn bỏ chạy, thậm chí còn quên cả mình đang làm gì, quên mất tại sao những người kia lại đang đuổi theo mình, trong đầu chỉ không ngừng tự chất vấn, không ngừng suy nghĩ: “Mình là quán quân cuộc thi chạy Pakour toàn châu Âu cơ mà, tại sao, tại sao lại không thể cắt đuôi được hai người đó, tại sao chứ?”

Nhà cửa bắt đầu thấp dần, khoảng cách kéo dãn ra, Kalin đạp hai bức tường hai bên trái phải, tót lên một sân trời cao chừng năm mét, phóng mắt nhìn ra xa, không khỏi mừng thầm trong bụng: “Đúng là ở đây rồi, chỉ cần đến được đây…” Lúc ấy, Trác Mộc Cường Ba đã ở sau lưng hắn rồi, nhưng gã không dừng lại mà tung người nhảy vọt qua đỉnh đầu Kalin, chắn ngay trước mặt. Kalin vội xoay người nhìn lại, nhưng Ba Tang cũng đã từ một căn nhà khác nhảy sang, bít kín lốithoát.

Hai người một trước một sau kẹp Kalin vào giữa, mà cũng chỉ có hai phía ấy là có nóc nhà để nhảy xuống được, hai bên trái phải đều là mặt phố rộng rãi. Chiều cao của tòa nhà cao tầng cô lập này chênh lệch những ba bốn chục mét so với các kiến trúc ở hai bên trái phải, mà kết cấu nhà kiểu có sân trời bên ngoài mặt tường này hắn cũng không quen thuộc lắm. Hắn đã bị dồn vào đường chết.

Ba Tang thở hồng hộc, không khí băng lạnh củaMoscow ngấm vào tận phổi. Kalin phải chống hai tay vào đầu gối mới đứng vững nổi. Duy chỉ có Trác Mộc Cường Ba là vẫn ngạo nghễ đứng thẳng. Tuy tim gã cũng bị loạn nhịp mất một lúc, nhưng cách thức hô hấp kỳ lạ kia đã khiến nhịp tim gã trở lại bình thường nhanh chóng ngay sau khi dừng chạy, không cần hít thở sâu mà cũng không cảm thấy tức thở. Ba Tang nghi hoặc nhìn Trác Mộc Cường Ba. Không thể nào hiểu nổi, chạy như vậy mà không hề thở dốc, trong những người anh ta từng gặp, e rằng chỉ có pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam mới làm được mà thôi. Rốt cuộc bên trong cơ thể Cường Ba thiếu gia đã có biến đổi gì? Lẽ nào, trong khi ăn mòn sinh mệnh, cổ trùng cũng đồng thời mang đến cho anh ta thể năng xưa nay chưa từng có hay sao?

“Chạy đi, sao không chạy nữa?” Biết rõ là đối phương không hiểu, Trác Mộc Cường Ba vẫn lớn tiếng gầm lên như sấm động, nhướng mày lạnh lùng tiến đến.

Tuy nghe không hiểu gì, nhưng chỉ nhìn thôi cũng đủ rồi, Kalin sợ hãi cởi chiếc túi sau lưng ném cho Trác Mộc Cường Ba, đồng thời ôm đầu kêu lên: “Không liên quan tới tôi, tôi không biết gì cả, có người trả tiền thuê chúng tôi làm thôi, không liên quan gì đến tôi cả!” Trước khí thế như hung thần ác sát của Trác Mộc Cường Ba, hắn đã không còn dám phản kháng nữa. Ba Tang cũng vội vàng dịch lại cho gã nghe.

Trác Mộc Cường Ba dường như không hề có ý định buông tha cho Kalin, một tay gã bắt lấy cái túi đeo lên vai, chân vẫn sải những bước rộng tiến sát lại gần đối phương, chộp lấy gã thanh niên đáng thương đang run như cầy sấy, đưa lên quá đầu, rồi bước ra ngoài rìa khoảng sân trời, lớn tiếng hỏi: “Kẻ nào sai mày làm? Kẻ nào hả?”

Ba Tang dịch câu hỏi của Trác Mộc Cường Ba sang tiếng Nga, trong lòng đồng thời cũng lấy làm kinh ngạc, chuyện này hoàn toàn phù hợp với phong cách hành sự của anh ta, nhưng còn, Cường Ba thiếu gia, đây vẫn là Cường Ba thiếu gia đấy chứ? Thời gian họ không gặp nhau đâu có dài, vậy mà Cường Ba thiếu gia trước mắt anh ta tựa hồ đã đột nhiên biến thành một con người khác, thể lực dồi dào, thân thủ mẫn tiệp, tính tình nóng nảy dễ nổi giận hơn trước rất nhiều.

Kalin kinh sợ kêu lên: “Tôi không biết, có người, có người cho chúng tôi khoản tiền, rồi bảo chúng tôi theo hai chú, nói là có một món đồ, chỉ cần cướp về là được, còn đâu tôi không biết gì nữa cả, không biết bên trong cái cặp ấy là thứ gì nữa, thật sự là tôi không biết mà.”

Ba Tang dịch lại sang tiếng Trung. Trác Mộc Cường Ba vẫn không tin, gằn giọng hỏi: “Người đó tên gì? Hắn hẹn với chúng mày như thế nào? Gặp mặt ở đâu? Chúng mày có bao nhiêu người? Đang ở đâu?” Gã nhấc Kalin lên lắc mạnh như múa gậy, đến cả Ba Tang cũng không nhịn được mà lên tiếng khuyên giải: “Cường Ba thiếu gia, Cường Ba thiếu gia! Hắn sắp ngất xỉu mất rồi, mau dừng tay lại! Hắn có phải kẻ thù của chúng ta đâu!”

Trác Mộc Cường Ba nghe vậy thì giật bắn người kinh hãi, vội đặt gã thanh niên đã trợn mắt trắng dã ấy xuống, trong lòng cũng lấy làm bất an, thầm nhủ: “Mình làm sao vậy nhỉ? Cơn giận vừa nãy, không ngờ lại khiến mình không thể kiềm chế nổi.” Gã sửng sốt nhìn đôi bàn tay mình, cảm nhận được một cách rõ ràng, phương pháp hô hấp đặc biệt ấy không chỉ bổ sung thể lực cho mình, mà là một sự bổ sung về tinh lực, toàn thân gã đều tràn đầy tinh lực, nhưng đồng thời có một cảm giác thèm khát được phát tiết dấy lên mãnh liệt trong tâm thức gã. Từ sau lần ẩu đả trong quán rượu đó, gã tựa như con sói nếm được mùi máu tanh, lúc nào cũng muốn phát tiết cho trút hết bao bất mãn trong lòng ra, đây rốt cuộc là chuyện gì vậy?

Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn xung quanh. Xa xa có dãy núi nhấp nhô, màu trắng phủ kín khắp mặt đất, thì ra bọn họ đã chạy một mạch từ trung tâm Moscow ra đến tận ngoại ô, bao nhiêu nhà cao lầu thấp chằng chịt hỗn tạp như vậy, có đúng là bọn gã đã vừa chạy vừa nhảy một mạch từ xa như thế ra đến tận đây hay không? Nhưng mà, tại sao, tại sao vẫn cảm thấy không đủ, tinh lực vẫn dồi dào hừng hực, vẫn muốn trút hết ra như vậy nhỉ?

Ba Tang đón lấy chiếc túi, mở ra kiểm tra, đoạn nói: “Đi thôi, lấy được thứ cần lấy rồi, xem ra chúng ta đã bị người ta để ý rồi, tốt nhất nên về nước cho nhanh mới được.”

Lời còn chưa dứt, đã nghe “vù” một tiếng sướt qua tai. Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đều hết sức quen thuộc với âm thanh này, chính là tiếng đầu đạn xé gió. Hai người vội cúi đầu, nhìn ra phía trước. Chỉ thấy phát súng đó đã bắn chết gã thanh niên tên Kalin đang nằm đờ ra không thể cử động kia. Trác Mộc Cường Ba nói: “Mau rời khỏi chỗ này mau, xuống dưới, xuống dưới!”

Hai người rời khỏi khoảng sân trời, nhảy xuống mặt đường. Ngoại ô Moscow vắng lặng như những vùng nông thôn bình thường khác. Rừng bạch dương xa xa phác nên một đường cong màu đen mờ mịt, không thể thấy rõ kẻ địch mai phục ở chỗ nào, cũng không thể biết đạn sẽ bắn từ hướng nào ra, hai người chỉ còn cách cố gắng tìm vật chắn mà lén lút tiến lên. Lúc này họ mới nhận ra, trên đường phố khu ngoại ô này không hề có lấy một bóng người đi lại, cả không gian toát lên một vẻ trống trải đến kỳ dị. Ba Tang nói: “Xem ra, bọn chúng đã có chuẩn bị từ trước, cố ý muốn dụ chúng ta tới đây. Lạ thật, sao chúng có thể chuẩn bị chu đáo thế được nhỉ?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chắc là từ lúc chúng ta rời khỏi Trung Quốc, không, ngay từ trước khi rời khỏi Trung Quốc, chúng ta đã bị theo dõi rồi. Xem ra bọn chúng vẫn chưa chịu buông, vẫn tin rằng tôi đang tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu. Chúng ta sơ ý rồi, đáng chết thật!”

Ba Tang ấn tay lên cán dao găm quân dụng, nói: “Giờ làm sao?” Trác Mộc Cường Ba đáp: “Cẩn thận rời khỏi đây, nếu đến được khu vực nội thành thì chúng không dám làm bừa nữa đâu. Theo lý mà nói, chắc chúng không dám tùy tiện giết chết chúng ta đâu. Có lẽ là sẽ dùng vũ lực để ép chúng ta nhập bọn đó.” “Dùng vũ lực?” Trên gương mặt Ba Tang nở ra một nụ cười lạnh lẽo: “Vậy thì tốt.”

Những kẻ ngăn cản nhanh chóng xuất hiện trên phố. Đó là mười mấy tên đô con dữ tướng người Nga, tên nào tên nấy đều cao hơn mét chín, khoác trên người quần áo mùa đông dày sụ trông lại càng khôi vĩ vạm vỡ, thoạt nhìn cứ như mười mấy ngọn núi nhỏ. Trong đám đô con lực lưỡng ấy, có một cái bóng trông hết sức bé nhỏ, chẳng phải ai khác, mà chính là tên béo người Trung Quốc đã năm lần bảy lượt đến tìm Trác Mộc Cường Ba. Đứng giữa đám đô vật, trông y hệt như một chú lùn béo quay như quả bóng, gương mặt mũm mĩm cười tươi như hoa nở. Chỉ nghe y cất tiếng nói: “Không ngờ lại gặp nhau rồi, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh. Ông gạt tôi khổ quá, tôi còn tưởng ông bỏ cuộc thật rồi cơ đấy, những câu chuyện ông kể đó, e rằng cũng chẳng có chuyện gì là thật phải không?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi cũng không ngờ, một người đưa tin lại có quyền lực lớn như vậy, theo đến tận đây, thật là mệt cho ông quá rồi.”

Tên béo vẫn chưa bỏ cuộc, lại cất lời khuyên giải: “Tôi không hiểu nổi, tại sao ông không nghĩ đến chuyện hợp tác với chúng tôi chứ? Trác Mộc Cường Ba tiên sinh? Hợp tác với chúng tôi đi, đây đúng là cơ hội ngàn năm khó gặp đó.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Nếu chúng tôi nói không, ông sẽ không để chúng tôi rời khỏi đây đúng không? Tên béo lắc đầu nói: “Nếu là như vậy, thì thật đáng tiếc quá.” Dứt lời liền vẫy tay làm hiệu, cả đám đô vật sau lưng liền khom người xuống tấn, tư thế như thể không thể lay chuyển được vậy.

Trác Mộc Cường Ba mỉm cười, ngoài mặt tỏ ra hết sức bình tĩnh, nhưng trong lòng lại trào dâng lên một thứ khát vọng quái lạ. Gã luôn phải dồn nén bản thân, cảnh cáo bản thân, không được khát máu, không được chủ trương bạo lực, không được… Nhưng Ba Tang bên cạnh thì đã không kìm nén nổi nữa, xông thẳng lên trước, quát lớn: “Đánh thì đánh đi, còn lằng nhằng gì nữa!”

Cú đấm đầu tiên của anh ta nhằm vào tên béo hãy còn chưa kịp lùi lại kia, tương thẳng vào mặt hắn. Tên béo đáng thương, há miệng phun ra hai cái răng to tướng, mũi bẹp gí lệch sang một bên, không thể toe toét miệng cười làm bộ dạng hòa nhã dễ gần kia được nữa. Kế đó, Ba Tang lại đạp một chân lên đầu gối một gã đô vật vừa xuống tấn, lộn người trên không tung ra một cú đá móc, gót giày táng mạnh vào cằm tên đô vật. Có điều ưu thế về thể hình của tên đô vật quá rõ rệt, cú đá cực mạnh ấy cũng không thể làm hắn ngã ra được, ngược lại còn tống ra một nắm đấm sắt, hất văng Ba Tang bay ngược trở lại. Ba Tang rơi xuống đất, lăn tròn một vòng rồi lại đứng bật lên, cũng không khỏi đưa tay xoa xoa chỗ mạng sườn bị đấm trúng. Cú đấm ấy cũng thật mạnh, nếu không có lớp quần áo mùa đông dày sụ bên ngoài, chỉ sợ xương sườn đã bị đấm gãy mất rồi. Nhưng chỉ thoắt cái anh ta đã lại xông lên, đối mặt với tên đô vật cao hơn mình cả hai cái đầu mà chẳng hề sợ hãi một chút nào.

Máu nóng sôi lên sùng sục bên trong Trác Mộc Cường Ba. Bàn tay gã đã không tự chủ được mà nắm chặt lại thành quả đấm. Gã đã cố ép mình phải buông lỏng tay ra, nhưng rồi lại nhanh chóng nắm chặt lại, bàn tay hơi run run vì kích động. Như thế này vẫn dễ chịu hơn. Đám đô vật trông thấy tay Trác Mộc Cường Ba run lên, tưởng gã đang sợ hãi, liền có hai tên xông tới, một trái một phải làm thành thế gọng kìm, điệu bộ có vẻ rất khinh miệt. Trác Mộc Cường Ba lúc ấy đang suy nghĩ: “Phát súng trên sân trời vừa nãy, chắc là phải bắn từ khoảng ngoài xa năm trăm mét, ở đây chắc cũng không chỉ có mấy tên này, xem ra đối phương đã bố trí thiên la địa võng cả rồi. Thật là, có cần phải làm to chuyện ra thế này khôngchứ?”

Nắm đấm to bằng cái bình bát bên trái đã bay tới, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên khom lưng về phía trước, đầu cúi xuống, tránh khỏi nắm đấm ấy, kế đó chân trái quét ra một đường. Tên đô vật bên phải đứng chưa vững, ngã bổ ngửa ra. Tên bên trái vẫn xem thường Trác Mộc Cường Ba, chỉ nghĩ là đồng bọn bị trượt chân. Không ngờ, ngay sau đó cả người Trác Mộc Cường Ba đã xoay một vòng ngược chiều kim đồng hồ, sức mạnh toàn thân dồn cả vào nắm đấm bàn tay phải, mạnh mẽ lút cả vào cơ thịt tên đô vật ngã ngửa mà chưa chạm đất. Thân thể cao một mét chín, nặng gần hai trăm ki lô gam ấy lại bị một cú đấm của gã đánh cho nảy tung lên. Nương theo đà, tay trái Trác Mộc Cường Ba nâng bổng cả tên đô vật thể trọng nặng hơn mình gấp bội ấy lên. Nhìn gã lúc này, thật chẳng khác nào một người bình thường, tướng mạo không có điểm gì đặc sắc mà lại nâng bổng được cả một con bò mộng vậy. Đừng nói là cả đám đô vật đều trố mắt ra, thậm chí cả Ba Tang cũng ngây ra trong khoảnh khắc. Anh ta chỉ biết Cường Ba thiếu gia rất khỏe, có lẽ là người có sức mạnh nhất trong đội, nhưng cũng không thể ngờ, gã lại mạnh đến mức ấy.

Trác Mộc Cường Ba giơ gã đô vật ấy lên quay một vòng, đẩy bật một tên khác xông lên tăng viện, kế đó liền vung tay ném mạnh, viên đạn thịt khổng lồ lập tức khiến bốn năm tên đô vật ngã nhào. Tên béo mới tỉnh táo lại sau cơn đau răng thấu lên tận óc, vừa hay lại trông thấy cảnh tượng ấy, cả người liền lạnh toát, thầm nhủ, xem ra mình vẫn đánh giá thấp thực lực của đối phương, không biết có nên quân tử phòng thân, tạm thời rút lui trước hay không đây?

Trác Mộc Cường Ba sừng sững như trái núi, chẳng buồn đưa mắt nhìn đám đô vật ngã dúi dụi, chỉ liếc xuống cổ tay mình một cái, chính là cảm giác này đây, thân thể gã đang phát ra tín hiệu, nó cần được phát tiết, cần được xả hết ra. Đã nhiều năm nay, gã không dồn hết toàn lực đấm ra một cú như thế rồi. Cú đấm vừa nãy, cảm giác cũng không tệ chút nào. Thân hình Trác Mộc Cường Ba chợt nhích động, áp sát tên đô vật bên trái, hơi nghiêng người đi tránh khỏi cú đấm thẳng, eo gập xuống, lại tránh một cú đấm móc. Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đã ở ngay trước mặt tên đô vật cao hơn gã một cái đầu kia, một tay chụp lấy thắt lưng, một tay tóm cổ áo, “hầy”, lại một tên đô vật khác bị nhấc bổng lên không, kế đó, lại là một viên đạn pháo thịt người to tướng ném vút ra.

Cả lũ đô vật đều vô cùng kinh hãi, không ngờ gã đàn ông người Trung Quốc này có sức bật đáng sợ đến vậy. Hai tên đầu tiên vừa có phản ứng, lao thẳng người tới định tông vào Trác Mộc Cường Ba. Hai ngọn núi di động, hai con voi rừng đang chạy sầm sập như điên cuồng, bước chạy sải rộng, làm cả mặt đất cũng chấn động rung lên khe khẽ. Trác Mộc Cường Ba không lùi bước, mà ngược lại còn tiến lên, lao thẳng về phía hai con thú khổng lồ ấy.

Ba Tang vừa lộn một vòng dưới đất, tránh khỏi cú đấm của một tên đô vật khác, ngoảnh mặt nhìn sang thấy Trác Mộc Cường Ba đang lao vào hai tên đô vật thể hình lớn hơn gã gấp bội, bèn thầm nhủ: “Rốt cuộc Cường Ba thiếu gia muốn làm gì vậy? Kiểu va đập trực tiếp thế này anh ta chẳng có chút ưu thế hình thể gì cả, huống hồ chúng còn lấy hai chọimột.”

Khoảng cách mỗi lúc một rút ngắn, chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba đột nhiên quỳ thụp xuống trượt đi trên mặt đất, xuyên qua khoảng trống giữa hai tên đô vật, đồng thời hai cánh tay vươn sang hai bên, chặn cứng hai đôi chân voi, vừa dồn sức vào tay, hai tên đô vật liền tức thì ngã bổ chửng theo thế “chó ăn phân”. Trác Mộc Cường Ba đứng lên, xách ngược hai cẳng chân lên, tay trái hất, tai phải vung, cả hai con thú khổng lồ liền lập tức lăn lông lốc, đến ở đâu thì quay về đấy.

Trác Mộc Cường Ba ngạo nghễ đứng trong làn gió đêm, chỉ ra một ngón tay lướt trên mặt cả đám đô vật, rồi lớn tiếng nói bằng tiếng Anh: “Tên tiếp theo!”

Âm thanh vang vang trong gió, đám đô vật chẳng còn tên nào dám tự nguyện xông lên trước nữa. Trác Mộc Cường Ba hơi cúi đầu, hai mắt sáng rực lên, sắc bén như hai lưỡi đao lướt qua, nhìn xoáy vào cả bọn: “Nếu không ai qua đây, vậy thì…” Thân hình gã đột nhiên tăng tốc, bắn vọt về phía đám đô vật.

Một cánh tay sắt như cốt thép chìa ra khỏi tảng bê tông. Trác Mộc Cường Ba nghiêng người né tránh thế công của đối phương, giẫm chân nhảy vọt lên, bàn chân phải đạp vào đầu gối một tên đô vật, xoay người tung chân trái đá ngay một cước vào cánh tay vươn ra của hắn, liền sau đó gót chân phải gã lại giật mạnh về sau, trúng mặt một tên khác. Rồi gã lùi về một bước, giẫm lên vai tên đô vật, lộn một vòng trên không, thuận tay giật mạnh, bám vào cổ một tên xông tới cứu viện đồng bọn, lợi dụng thế rơi của mình khiến hắn ngã bổ ngửa chổng bốn vó lên trời, kế đó vung tay chặt xuống cổ họng tên đô vật một cái, khiến hắn ta phải đưa hai tay lên ôm cổ một hồi lâu cũng thở không ra hơi. Trác Mộc Cường Ba chạm đất, tay phải chống xuống ấn mạnh, tránh khỏi một cước đạp tới, đồng thời dùng một cánh tay chống đỡ cả người, trồng cây chuối, hai chân liên tiếp đá vào cùng một vị trí bên phải gáy của một tên đô vật bảy phát liền, tuy không đá cho đối phương ngã lăn ra được, nhưng cũng khiến hắn xây xẩm mặt mày, đầu váng mắt hoa.

Kế đó gã đảo người đứng thẳng dậy, tức thì bồi thêm một đấm cực mạnh, khiến tên khổng lồ ấy loạng choạng lùi lại mấy bước liền. Chưa hết, Trác Mộc Cường Ba lại phi thân lên tương cho hắn một cước nữa, khiến cả tấm thân kềnh càng ấy rơi thẳng vào trong hốc, đồng thời cũng giải vây luôn cho Ba Tang. Thân thể gã lúc này phản ứng nhanh hơn bất cứ lúc nào khác, sức mạnh, cũng lớn hơn bất cứ lúc nào trước đây. Trác Mộc Cường Ba tung hoành đảo lượn giữa một đám khổng lồ cao gần hai mét, xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị, thoắt ẩn thoắt hiện như bóng ma. Bọn đô vật kia, tên nào tên nấy đều chưa bao giờ gặp phải lối đánh quái dị như vậy, thoắt bên này, thoắt cái đã ở bên kia, vừa mới trông thấy đối phương, thân thể đã dính đòn của gã, nắm đấm của mình vừa vung lên, kẻ địch đã biến mất tăm mất tích; mà nắm đấm của gã người Trung Quốc ấy cũng hết sức quái dị, lúc thì cứng như bê tông cốt thép, trúng phải một đòn mà chẳng khác nào bị xe tông; có lúc nắm đấm ấy lại mềm nhũn vô lực, hoặc về sau mới phát lực, khi bọn hắn định phản kích thì kẻ địch đã mượn sức nắm đấm ấy bật ngược ra xa, rốt cuộc là tên nào tên nấy đều khỏe như trâu mộng mà cứ liên tiếp đánh vào khoảng không.

Chân trái Trác Mộc Cường Ba đá trúng mạng sườn một tên đô vật, mượn lực bắn lên, chân phải lại giẫm vào ngực một tên khác. Trước khi nắm đấm của đối phương kịp vung tới, gã đã lại nhún mình nhảy bật ra, thân thể lao vút về phía trước, hai tay nắm chặt, đập mạnh xuống đầu một tên đang hùng hục xông đến, rồi lại nương đà đó lộn nhào trên không, tránh khỏi đòn đánh lén phía sau, nhẹ nhàng hạ xuống mặt đất. Bàn tay gã lơi ra, rồi lại nắm chặt lần nữa, vẫn chưa đủ, hai chân gã giẫm mạnh xuống đất một cái, cả người liền xông thẳng tới như mũi tên rời dây cung. Đảo người đá quét, xông lên xuống tấn đánh trực diện, xoay ngược người đá tạt, xoay tròn thúc cùi chỏ, nhào phía trước, lộn phía sau, xoay người ba trăm sáu mươi độ, bảy trăm hai mươi độ, một trăm tám mươi độ, vẫn chưa đủ! Hai bàn tay Trác Mộc Cường Ba lúc nắm lúc xòe, xoay ngang xoay dọc, tả xung hữu đột, có những động tác bình thường thậm chí gã còn chẳng nghĩ đến bao giờ, vậy mà trong chiến đấu lại sử dụng hết sức thuần thục mà sảng khoái. Đối với gã, đây gần như đã là một thân thể mới, một cảm giác xưa nay chưa từng có trào dâng lên khắp tâm thức. Những kỹ thuật leo vách đá, trèo tường, đeo trọng vật nhảy nhót, cầm nã thủ, đấu cận chiến, và cả mấy môn gã quen thuộc từ lâu như Thái Cực, Suất Túc, kéo co… tất cả đều dung hợp làm một, trở thành một phương pháp đánh ngã kẻ địch cực kỳ hiệu quả do gã tự sáng tạo ra.

Bạn đang đọc Mật Mã Tây Tạng của Hà Mã
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 92

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.