Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

KẺ TÔI TỚ CỦA NÚI TUYẾT

Phiên bản Dịch · 23530 chữ

Núi tuyết Tử thần, sông băng hiểm ác

Bão tố mịt mùng, cửa vào Thần miếu nơi nào?

Tiếp tục lần theo dấu vết của Bạc Ba La thần miếu, Trác Mộc Cường Ba và những người bạn đồng hành tiến về núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc, ngọn núi mang tên Tử thần của người Tạng. Trên vùng đất kỳ vĩ bao la của cao nguyên Thanh Tạng, gã gặp lại một người bạn năm xưa, đồng thời cũng là hậu duệ cuối cùng của một gia tộc đã kiếm tìm Bạc Ba La thần miếu suốt cả ngàn năm qua. Với sự giúp đỡ của người đó và thần ngao Hải Lam Thú, đoàn thám hiểm quyết định liều mình vượt cơn cuồng phong bão tố khủng khiếp nhất, lần tìm lối vào thánh địa Bạc Ba La trên tấm bản đồ da dê tìm được trong Đảo huyền không tự...

Liệu ngọn núi tuyết đã chôn thây vô số đoàn thám hiểm, cùng những kẻ thù giấu mặt vẫn đang rình rập dõi theo... có thể ngăn bước họ tiến đến miền đất trong mộng tưởng?

CHƯƠNG 31:

KẺ TÔI TỚ CỦA NÚI TUYẾT

Cương Nhật Phổ Bạc? Trác Mộc Cường Ba và đội trưởng Hồ Dương cùng thoáng ngẩn người ra, trong ký ức của hai người đều có chút ấn tượng đối với cái tên này. Ý nghĩa của nó là kẻ tôi tớ của núi tuyết. Trác Mộc Cường Ba vẫn còn lờ mờ nhớ được, chẳng những gã đã từng nghe thấy cái tên này, mà còn tiếp xúc với cả con người ấy nữa. Nhưng nghĩ cho kỹ càng hơn, lại cảm thấy không phải thế, tựa hồ như thiếu mất mối liên hệ then chốt nào đó.

Tâm sự của Trác Mộc Cường Ba

Thời gian trôi qua rất nhanh, vết thương ở chân giáo sư Phương Tân đã hoàn toàn hồi phục, giờ trong nhóm lại có thêm đội trưởng Hồ Dương, hai người rất hợp chuyện, nói cả ngày cũng không chán. Thực tế là đội trưởng Hồ Dương còn dễ nói chuyện hơn cả Ngải Lực Khắc hồi trước, với ai anh cũng nói chuyện được hết, đến cả Ba Tang cũng sẵn sàng xưng huynh gọi đệ với anh nữa. Đội trưởng Hồ Dương giọng nói to, tâm tư thì trong thô hào lại có tinh tế, nói năng hơi thô tục nhưng rất hài hước có duyên, chớ nhìn dáng vẻ bề ngoài như hung thần ác sát của anh mà tưởng lầm, thực ra con người Hồ Dương này rất dễ làm thân, trong vòng ba tháng, anh sớm đã hòa nhập làm một với cả nhóm bọn Trác Mộc Cường Ba rồi. Mặc dù chưa được huấn luyện một cách có hệ thống, nhưng cái danh đội trưởng Hồ Dương không phải tự nhiên mà có, ngoài hai phương diện cơ quan học và cận chiến tay không hơi thua sút mọi người ra, thể năng của anh hoàn toàn không kém gì giáo sư Phương Tân, đồng thời anh cũng là một tay có thời gian dài chơi súng ống, hiểu biết về các loại súng và vũ khí nổ gần như có thể so bì được với đám bộ đội đặc chủng, hơn nữa hiểu biết của anh đối với khí hậu và môi trường miền địa cực cũng giúp những người còn lại rất nhiều gợi ý.

Thời gian trôi qua, ngày kết thúc đợt huấn luyện đặc biệt càng lúc càng đến gần hơn, tâm trạng mọi người cũng càng ngày càng hưng phấn. Chỉ có Nhạc Dương là vẫn lờ mờ cảm thấy hơi bất ổn, bởi anh phát hiện ra, ngoại trừ mấy hôm mới tuyên bố bắt đầu đợt huấn luyện đặc biệt, giáo quan tỏ ra hưng phấn, về sau thì nét mặt cứ ảm đạm dần đi, ngày xuất phát càng gần kề, cô lại càng có vẻ nơm nớp lo lắng. Rốt cuộc là chuyện gì có thể khiến giáo quan của họ trở nên lo âu đến thế, Nhạc Dương thực không tài nào hiểu nổi, anh bèn kể sự thay đổi rất nhỏ nhặt này của Lữ Cánh Nam với Trương Lập và Hồ Dương.

Cuối cùng, chỉ còn một ngày nữa thôi là coi như đợt tập huấn đặc biệt chính thức kết thúc, tiếp theo cả nhóm sẽ rời doanh trại đến vùng phụ cận ngọn núi tuyết phải leo lên để tiến hành huấn luyện thích ứng. Đêm xuống, tuy ngồi trong ánh nèn mờ ảm đạm, nhưng nghĩ đến chuyện ngày mai sẽ xuất phát, ai nấy đều có chút phấn khích. Trên sân huấn luyện rộng rãi, nơi Trác Mộc Cường Ba từng nán lại hôm đầu tiên bước vào doanh trại này, đội trưởng Hồ Dương hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, Trương Lập thì cầm một cành cây vẽ vòng vòng trên mặt đất, nét mặt cả hai đầy vẻ nghi ngại lo lắng.

Trương Lập nói: “Mấy ngày nay giáo quan dường như càng lúc càng cuống rồi hay sao đó, cả thời gian đi núi tuyết cũng đẩy lên trước, trước đây có bao giờ thấy cô ấy như vậy đâu, chẳng lẽ là nhà nước có ý định chấm dứt hành động này hay sao?”

Hồ Dương lắc đầu: “Không thể nào, đã đến trạm cuối cùng rồi, tất cả đều vận hành rất tốt, chẳng có lý do gì để nửa đường bỏ cuộc cả. Có lẽ nào vì một nguyên nhân gì khác mà nhóm này sắp phải giải tán hay không? Hay là sức khỏe của cô ấy có gì bất thường, không thể kiên trì lâu hơn được nữa rồi?”

“Không đâu,” Trương Lập nói như chém đinh chặt sắt, “thân thể giáo quan như là bằng thép ấy, cái tên Thiết nương tử có phải là gọi bừa bãi đâu. Hay là vì tuổi tác của Lạt ma Á La cao quá rồi nhỉ?”

Hồ Dương nói: “Theo tôi thì không, tuy rằng tuổi tác đại sư Á La và giáo sư Phương Tân cao hơn chúng ta, nhưng hai người ấy đều là hàng cực phẩm trong các bậc cao niên, với sức khỏe của họ, sống thêm hai ba chục năm nữa cũng không phải vấn đề gì. Hơn nữa, cho dù trong đám đội viên chúng ta xuất hiện tình huống bất thường gì, đến lúc ấy cùng lắm là đổi người hoặc tạm thiếu người là được rồi; nếu nói là sức khỏe của ai đấy có vấn đề, nhất định đó phải là nhân vật quan trọng then chốt cho hành trình này rồi.”

Trương Lập nghi hoặc nói: “Vậy liệu còn có thể là ai chứ?”

Hồ Dương nói: “Đấy, chính vì thế, nếu nói sức khỏe ai đó không ổn, ngoài Lữ Cánh Nam ra, tôi thật không nghĩ ra người nào khác nữa.”

Một lát sau, Nhạc Dương vội vội vàng vàng chạy bước nhỏ đến, vừa chạy vừa kêu lên: “Điều tra được rồi, điều tra được rồi.”

Trương Lập vội hỏi: “Sao hả?”

Nhạc Dương đáp: “Gần giống với những gì chúng ta nghĩ, lãnh đạo cấp trên đã đưa ra kỳ hạn cuối cùng, nếu lần này chúng ta vẫn không tìm được Bạc Ba La thần miếu, đội ngũ sẽ phải giải tán. Xem ra lần này giáo quan đã giở hết bản lĩnh mà cũng không thể kéo dài thêm thời gian được nữa rồi. Xét cho cùng thì chúng ta cũng chỉ là một nhóm thử nghiệm, thử hơn hai năm rồi mà chẳng tìm được thứ gì có giá trị hơn, cũng khó trách giáo quan sao lại lo lắng đến vậy.”

Trương Lập nói: “Nhưng chẳng phải lần này chúng ta đã có bản đồ rồi hay sao?”

Đội trưởng Hồ Dương lắc đầu: “Không, các cậu không biết rồi, tấm bản đồ ấy chỉ có thể dựa vào hình vẽ mà so ra được ngọn núi có hình dáng tương tự, nó không chú thích rõ lộ trình lên núi, nói thực nhé, tôi và Lữ Cánh Nam đã thảo luận rồi, tỉ lệ tìm thành công Bạc Ba La thần miếu trong chuyến đi này của chúng ta không vượt quá năm mươi phần trăm đâu, nói thẳng ra là chúng ta vẫn đang mạo hiểm. Thông tin về ngọn núi ấy thế nào, ngày mai các cậu sẽ biết, chẳng lạc quan lắm đâu.”

Nhạc Dương chép miệng: “Nói vậy có nghĩa là, nếu không có phát hiện gì trên ngọn núi tuyết ấy, chúng ta sẽ phải ai về địa phương của người nấy rồi.”

Đội trưởng Hồ Dương nhả ra một làn khói thuốc, lặng lẽ gật đầu.

Trương Lập nói: “Chậc, giờ tôi lo lắng nhất chính là Cường Ba thiếu gia đấy, với tính tình nóng nảy của anh ấy, lần này chỉ sợ… Tôi thấy mấy ngày nay anh ấy có vẻ trĩu nặng tâm sự, quả nửa chắc là cũng đã biết rồi.”

“Nói gì tôi đấy?” Trác Mộc Cường Ba từ phía ánh đèn tiến lại chỗ ba người.

“Cường Ba thiếu gia,” Trương Lập và Nhạc Dương mỗi người nhích ra một chút. Trác Mộc Cường Ba liền ngồi thụp xuống giữa hai người. Đợi Nhạc Dương nói ra tình hình lần này, Trương Lập cất tiếng: “Thực ra, Cường Ba thiếu gia cũng không cần quá lo lắng, nhóm của chúng ta giờ đây đã như đúc bằng thép luyện, lần hành động này nhất định là sẽ thành công.”

Nhạc Dương lẩm bẩm nói: “Nhưng chúng ta đã bao giờ leo núi tuyết đâu chứ.”

Trương Lập đưa tay vỗ bôm bốp lên người anh chàng một phát, nói: Không nói thì chết à.”

Hồ Dương nói: “Quan trọng là ngọn núi ấy… tóm lại là rất phiền phức.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi biết rồi, có câu mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, tôi tin là trời cao đã sắp xếp bao nhiêu thử thách thế mà chúng ta cũng vượt qua được hết rồi, thử thách lần này so với lựa chọn sinh tử thì có là gì chứ.”

Đội trưởng Hồ Dương thân thiện vỗ vai Trác Mộc Cường Ba: “Cậu nghĩ được như vậy là tốt rồi.”

Trác Mộc Cường Ba cười đáp: “Nói thực lòng, trước đây tôi chưa bao giờ tin vào thần phật, cũng chẳng tin có ông trời, tôi chỉ biết là mình chịu nỗ lực bỏ công, vậy thì chẳng có chuyện gì mà mình không làm được. Thế nhưng sau khi trải qua tất cả những việc này, tôi phát hiện ra, dường như tất thảy đều do ý trời âm thầm sắp đặt, có rất nhiều sự việc xảy ra quá đỗi bất ngờ, cứ từng bước từng bước đi tiếp, như thể có ai đó đang dẫn đường cho chúng ta vậy. Càng biết nhiều về Bạc Ba La thần miếu, cảm giác ấy trong tôi càng mạnh hơn. Đi đến đó, tựa như là một sự trở về mà định mệnh đã an bài cho tôi vậy, có rất nhiều điều nghi hoặc, dường như chỉ có ở nơi ấy mới có đáp án. Trước đây tôi chỉ mong có thể phát hiện ra tung tích của Tử kỳ lân ở vùng phụ cận thần miếu, nhưng giờ xem ra không tới thần miếu là không được rồi.”

Trương Lập kinh ngạc thốt lên: “Cường Ba thiếu gia thật sự nghĩ như vậy sao? Vậy mà tôi tưởng là anh biết chuyện này sẽ nhụt chí nản lòng nữa chứ.”

Trác Mộc Cường Ba cảm kích mỉm cười với Trương Lập: “Ý cậu muốn nói tâm trạng tôi mấy hôm nay không được tốt lắm phải không? Không phải vì chuyện này đâu, có mấy vấn đề cá nhân thôi.” Gã ngưng lại một chút, rồi mới nói tiếp: “Mấy hôm nữa là sinh nhật lần thứ mười tám của con gái tôi rồi, tôi đã gửi thư điện tử chúc mừng nó. Mấy hôm nay chợt thấy hơi nhớ mẹ con nó.”

Nhạc Dương nói: “Con gái anh ở đâu? Trước nay chưa bao giờ nghe anh nhắc đến đâu à nha.”

Trương Lập nói: “Thư điện tử? Sao không gọi điện thoại?”

Trác Mộc Cường Ba đáp lời: “Ở Canada. Gọi điện thoại ấy à, nói thực lòng, tôi hơi do dự. Một là không biết con gái tôi liệu có tha thứ cho người cha không xứng đáng làm cha này hay không, hai nữa là lo chồng của người vợ trước hiểu lầm tôi, để hai người họ xảy ra chuyện gì thì không hay. Có thể là quan niệm truyền thống của tôi đang tác quái đấy, ly hôn rồi, thì cố gắng hết sức để không làm phiền đến cuộc sống mới của người ta nữa. Họ đã đến tận Canada xa xôi như vậy, có lẽ cũng là vì không muốn tôi làm phiền đó thôi.”

Hồ Dương lắc đầu: “Vậy thì không đúng rồi, nói thế nào thì nói, dù sao đó cũng là con gái của cậu và vợ cậu, gọi một cú điện thoại thì có gì đâu chứ? Làm gì có đôi vợ chồng nào không lời qua tiếng lại với nhau bao giờ. Nếu họ thực lòng yêu thương nhau, tôi nghĩ người đàn ông kia cũng không đến nỗi không thông tình đạt lý tới mức đó đâu! Cậu đang tự bó buộc bản thân mình đấy, có phải là vẫn cảm thấy có lỗi với vợ cũ, vẫn áy náy mà chọn lựa trốn chạy hay không? Làm một kẻ đào ngũ không hay đâu đấy nhé.”

Nhạc Dương hỏi: “Thực ra con người Cường Ba thiếu gia cũng rất hay mà, sao vợ anh ấy lại muốn ly hôn chứ?”

Trương Lập trừng mắt lên lườm anh chàng một cái. Đội trưởng Hồ Dương thì phá lên cười ha ha, nói: “Dù cậu là lính trinh sát thì cũng không cần chuyện gì cũng phải hỏi cho rõ ngọn ngành chứ.”

Trác Mộc Cường Ba cúi đầu đáp: “Không, không có gì đâu. Thực ra, yêu cầu của phụ nữ rất đơn giản, họ chỉ cần một người chồng có thể thường xuyên ở bên cạnh họ, một gia đình hòa thuận, vậy là họ thỏa mãn lắm rồi. Đáng tiếc tôi lại không làm được điều ấy! Con người là loài động vật có tính xã hội, lúc nào cũng có rất nhiều suy nghĩ cần có người để dốc lòng, sự cô quạnh đối với con người có thể nói là một sự giày vò.” Nói tới đây, Trác Mộc Cường Ba tự bật cười chua chát một tiếng, lắc đầu bảo: “Xem tôi đấy, không biết mình đang nói cái gì nữa rồi. Trương Lập có lẽ cũng biết một chút, nhưng chỉ thầy giáo tôi, giáo sư Phương Tân mới hiểu con người tôi trước đây thôi. Khi ấy tôi là một kẻ cuồng công việc, thường xuyên ở ngoài cả một thời gian dài, rất ít về nhà. Con gái tôi lên bảy tuổi mới biết mặt mũi bố nó thế nào. Hơn nữa cho dù có về đến nhà, tôi cũng không nói năng gì. Khi Trương Lập mới gặp tôi lần đầu tiên, tôi vẫn là con người như thế. Tôi còn nhớ Trương Lập từng nói, với vóc dáng như của tôi, nếu không mở miệng thì có thể gây áp lực đè nén khiến người ta không thở nổi. Giờ hồi tưởng lại, những ngày vợ cũ sống chung với tôi, nhất định là phải nặng nề ngột ngạt lắm. Cô ấy đã nỗ lực để thực hiện tốt bổn phận của một người vợ tốt, còn tôi, tôi lại không tận hết trách nhiệm của một người chồng, đến cả tình nhân cũng không bằng nữa. Chậc, có lẽ, bản thân cuộc hôn nhân của tôi với vợ cũ đã là một sai lầm rồi. Cuộc hôn nhân ấy không lãng mạn và nhiều cảm xúc như các cậu tưởng tượng đâu. Khi đó, cha mẹ tôi hy vọng tôi suy nghĩ đến chuyện đại sự trong đời người, mà trong rất nhiều nhân viên của công ty chúng tôi, biểu hiện của cô ấy khá xuất sắc, ăn chung với nhau mấy bữa cơm, vậy là có quan hệ, nửa năm sau thì chúng tôi kết hôn.”

“Hả!” Nhạc Dương lấy làm thất vọng, anh chàng vốn tưởng rằng người đàn ông từng trải qua những sự việc như trong truyền kỳ này, hôn nhân cũng phải khắc cốt ghi tâm, vòng vo trăm mối, giờ nghe Cường Ba thiếu gia kể ra, quả nhiên là hết sức nhạt nhẽo tầm thường.

Trác Mộc Cường Ba lại kể tiếp: “Kết hôn chưa đầy một năm thì con gái chúng tôi ra đời, sau đó cô ấy ở nhà chăm con, tôi đi làm ăn bên ngoài. Có lẽ mọi người đã nghe kể một số chuyện trước đây của tôi, hình như những trải nghiệm ấy khiến người ta hâm mộ thì phải. Thực ra tôi cảm thấy rất có lỗi với vợ mình. Tôi thường cả năm không ở nhà, về đến nhà chưa được mười ngày thì lại đi luôn. Lúc đó ở bên ngoài cũng thoáng lắm, thực sự là tôi không hề nghĩ đến cảm nhận của Anh (tên vợ Cường Ba).

Trương Lập thì thầm nói: “Chị dâu, đáng thương quá…”

Trác Mộc Cường Ba cười khổ: “Có lẽ là một sự trừng phạt với tôi. Khi cô ấy gặp được người đàn ông có thể mở ra được cánh cửa nội tâm mình, Anh mới biết tình yêu thực sự là gì, vậy là không hề… Khi tôi phát hiện ra, mọi chuyện đã xong hết cả rồi. Đúng là một cuộc hôn nhân tĩnh lặng như nước, đến cả ly hôn cũng thật nhạt nhẽo vô vị. Chúng tôi không cãi nhau, cô ấy cũng không cần gia sản, một tờ thỏa thuận, vậy là quan hệ hôn nhân mười năm kết thúc. Con gái muốn đi theo cô ấy, tôi cũng hy vọng con gái chúng tôi đi theo cô ấy, nếu ở với tôi, chà… tôi thật không tưởng tượng nổi sẽ thế nào nữa.”

Nhạc Dương hiểu ra: “Thì ra là có kẻ thứ ba nhúng chân vào.”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Cậu vẫn đau khổ lắm, cậu đâu có vô tình như cậu tự nhận chứ.”

Trác Mộc Cường Ba buồn rầu nói: “Đúng vậy, đúng là như anh Hồ Dương nói, tôi rất đau lòng. Đối với động vật cũng có thể nảy sinh tình cảm sâu sắc, huống hồ là với một con người đã từng sống chung với mình hơn chục năm trời. Đúng như lời một câu danh ngôn đã nói, con người là một loài động vật kỳ quái, khi sở hữu thì cảm thấy bình thường, phải đến khi mất đi, mới hối hận thì đã không kịp. Kể ra thì, buổi tối hôm vợ trước tôi bỏ đi, tôi đến một quán bar ở Thượng Hải uống say khướt không biết trời trăng gì, còn đánh nhau với một đám người ở quán bar ấy nữa, về sau bị người ta đánh cho nằm viện hơn một tháng, tôi cũng không hiểu mình bị làm sao nữa. Sau bận đó, tôi lại dốc hết tâm sức vào công việc như trước, nhưng trước sau vẫn thấy hụt hẫng như mất đi thứ gì đó. Nếu không phải sau này gặp được chuyện Tử kỳ lân, tôi cũng không biết mình còn trầm luân như thế bao lâu nữa.”

Thấy thần sắc Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng ảm đạm, Trương Lập nói: “Thế này là sao vậy, ngày mai chúng ta xuất phát rồi, nói chuyện gì vui vui một chút đi…”

Nhạc Dương cũng tiếp lời: “À, đúng rồi, Cường Ba thiếu gia, hay là kể câu chuyện tình lãng mạn của anh với cô Đường Mẫn đi. Nhìn dáng vẻ hạnh phúc của hai người, tôi thấy ngưỡng mộ lắm…”

Trương Lập cố ý vỗ mạnh vào lưng Nhạc Dương một cú, nói: “Thằng nhóc này, lại dò hỏi chuyện riêng tư của người khác rồi!”

Trác Mộc Cường Ba ngoài miệng thì nói: “Có chuyện tình lãng mạn gì đâu, chỉ coi là… duyên phận thôi…” nhưng trái tim gã, thì đã ngược về khoảng thời gian ở nước Mỹ hơn một năm trước…

Khi Đường Mẫn cởi chiếc mũ mỏ vịt xuống, suối tóc đen tuyền bóng mượt như áng mây trôi ấy bung xõa ra, Trác Mộc Cường Ba thực sự nghe thấy tiếng tim mình đang đập, máu trong cơ thể như bơm xộc cả lên đầu, bên trong xương cốt nóng lên hầm hập. Dù nói dáng điệu của Đường Mẫn nhỏ nhắn dễ thương, tựa như cô bé nhà bên, thấy là không sao kìm được lòng thương cảm, nhưng Trác Mộc Cường Ba là kẻ từng trải, đã gặp vô số hạng người, những cô gái như vậy gã gặp cũng rất nhiều rồi. Gã không hiểu, tại sao lần này lại xuất hiện cảm giác động lòng tim đậm thình thịch như thế. Cảm giác đó thôi thúc gã chỉ muốn ôm cô vào lòng, ôm thật chặt mà bảo vệ cho cô thật tốt, không để người con gái ấy rời xa mình dù chỉ trong giây lát. Thậm chí gã còn thấy khó mà khắc chế được xung động ấy của mình, mấy ngón tay đặt bên sườn khe khẽ run rẩy. Chính cái cảm giác kỳ dị xuất hiện ngay lần gặp đầu tiên ấy, đã khiến gã mở lời nói với cô gái nhỏ hơn mình rất nhiều tuổi này khi rời khỏi bệnh viện: “Cô Đường Mẫn, không biết có thể mời cô ăn trưa với tôi được không, tôi biết như vậy là rất đường đột, nhưng có điều, tôi rất muốn biết thêm nhiều chuyện liên quan đến anh trai cô…”

Trong một quán ăn Trung Quốc nho nhỏ, cô gái ấy chống tay lên cằm, ngồi dựa vào cửa sổ, trông cô rất xinh đẹp, nhưng không phải rất xinh đẹp, mà giống như một đóa ngọc lan màu trắng, rất mềm mại tươi tắn tựa hồ khẽ chạm vào một cái thôi cũng khiến đóa hoa ấy lụi tàn. Thế nhưng trong đôi mắt cô lại ánh lên vẻ thâm trầm không phù hợp với lứa tuổi, hoặc như là một nỗi buồn mênh mang mờ mịt. Dường như cô phải gánh vác quá nhiều, cha mẹ đã mất, anh trai lại phát điên, làm sao cô có thể đảm đương nổi đây?

Ánh sáng xuyên qua cửa sổ chiếu lên gương mặt thanh tú ấy, hàng mi dài, sống mũi cao, đôi môi anh đào. Đặc biệt là gương mặt, mặt Đường Mẫn rất trắng, dưới làn ánh sáng tự nhiên mềm mại đó, tư thái lặng yên không nhúc nhích của cô ấy tựa như một pho tượng tạc từ bạch ngọc vậy. Trác Mộc Cường Ba thầm nghĩ, cô gái này rất giống một người, người ấy nhất định đã chiếm cứ địa vị cực kỳ quan trọng trong lòng gã, gảm giác ấy, không ngờ còn quan trọng hơn cả vị trí của người vợ cũ trong lòng gã, là ai đây nhỉ? Con gái? Không, giữa cô và con gái gã không hề có điểm nào chung cả. À! Em gái…”

Cánh cửa ký ức đã phủ bụi từ lâu nứt ra một khe hở nhỏ, phòng tuyến kiên cường trong chốc lát đã bị phá, tất thảy những nỗi bi thương hòa với đau khổ cuồn cuộn dâng lên. Những ký ức từng khiến gã khắc cốt ghi xương, không bao giờ dám nhớ lại, chỉ xuất hiện trong những cơn mộng mị, giờ lại đột nhiên hiển hiện trước mắt rõ mồn một. Gương mặt ngây thơ non nớt ấy thường lúc nào cũng nhoẻn miệng cười, hai hàm răng trông như ngọc như sứ, đôi mắt bên dưới hàng lông mày vừa to vừa sáng, không hề có chút ô trọc của tục thế, thanh khiết như tuyết trắng trên đỉnh ngọn Cương Nhân Ba Tề. Cô bé con cả ngày theo sau gã, gọi “anh trai, anh trai” lớn nhất mà cũng thân thiết nhất, gương mặt ấy đang từ từ trùng khít lên cô gái đang ngồi trước mặt gã. Trác Mộc Cường Ba biết rất rõ, cô gái đang ngồi đối diện với mình đây tuyệt đối không phải là em gái gã. Nếu em gái gã vẫn còn trên thế giới này, có lẽ nó đã lập gia đình rồi, có lẽ còn có một đứa con trai tầm bảy tám tuổi, và cả một đứa con gái nữa; chồng nó là dân chăn nuôi, trong nhà có một đàn dê bò lớn, căn lều lớn nằm trên thảo nguyên xanh mướt, mặt hướng về núi xanh thăm thẳm, lưng quay hướng trời cao…

“Cho một phần… Tôi rất là thích ăn món Thượng Hải. Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, ông gọi món gì nhỉ? Này, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh?” Đường Mẫn đã chọn xong món, phát hiện Trác Mộc Cường Ba đang nhìn mình chăm chăm, không hiểu tại sao, nhưng trong lòng không khỏi có chút căng thẳng. Cô nhanh chóng nhận ra, gã chỉ đang hướng về phía mình, nhưng ánh mắt kia tuyệt đối không phải đang nhìn mình, mà tựa như có chút xuất thần, không biết là đang nghĩ đến chuyện gì. Đường Mẫn hơi thấy hụt hẫng, lại gọi Trác Mộc Cường Ba thêm mấy tiếng nữa, nhưng giọng cô rất nhỏ, như sợ làm đứt đoạn dòng hồi ức của gã. Chính cô cũng cảm thấy không hiểu tại sao mình lại như vậy nữa. Còn Trác Mộc Cường Ba khi ấy đang hồi tưởng lại cảnh tượng xung quanh là núi xanh cỏ biếc, trên một dốc núi nhỏ, em gái ngồi trên vai gã ngước nhìn ra xa.

“Anh ơi, Thượng Hải có lớn không?”

“Ừm, lớn lắm.”

“Lớn thế nào? Có lớn bằng làng chúng ta không?”

“Ừm, lớn hơn làng của chúng ta rất nhiều…”

“Lớn hơn cả làng chúng ta nữa cơ à, thế thì đúng là lớn lắm rồi!”

“Anh à…”

“Ừ?”

“Thượng Hải ở bên kia ngọn núi phải không?”

“Ừm, ở bên kia ngọn núi… Anh dẫn em đi Thượng Hải nhé, có thích không? Thượng Hải ấy à… nhiều đồ ăn ngon lắm…” Nghĩ mãi nghĩ mãi, khóe mắt Trác Mộc Cường Ba đã hơi ươn ướt.

“Trác, Trác Mộc Cường Ba tiên sinh, tôi, tôi nói gì sai à?” Không hiểu vì sao, nhìn thấy ánh mắt đó của Trác Mộc Cường Ba, Đường Mẫn bỗng dưng luống cuống.

“Xin lỗi” Trác Mộc Cường Ba giật mình sực tỉnh, mỉm cười nói, “Không, không liên quan đến cô. Tôi có một người em gái, có lẽ lớn hơn cô một chút, nhưng không hiểu sao, vừa thấy cô, tôi liền nhớ đến nó.”

“A, xem ra ông rất tốt với em gái mình, chị ấy giờ đang ở đâu thế?”

“Không biết, từ hồi nó còn rất nhỏ đã bị lũ phỉ bắt đi rồi…”

Chết, xin, xin lỗi ông, tôi không biết, tôi…”

“Không sao mà, đó có phải lỗi của cô đâu. Cô em gái đó của tôi ấy à, nó toàn mắc lỗi thôi, mỗi lần làm sai chuyện gì, là chỉ biết kiếm tôi ra chịu tội thay cho nó thôi, kỳ thực, thật tâm nó muốn làm cho tốt lắm chứ, nhưng lần nào cũng vụng về vậy cả. Khi ấy tôi thường nghĩ, nếu có một ngày nào đó, tôi không ở bên cạnh nó nữa thì nó biết phải làm sao, tôi chẳng bao giờ ý thức được ý nghĩ ấy lại đem tới vận hạn như thế cả.” Trác Mộc Cường Ba khẽ gượng cười khổ não, nét mặt đượm vẻ đau buồn.

Đường Mẫn cũng cảm động lây mà khẽ nói: “Đừng thế, có anh trai thật tốt biết bao, từ nhỏ tới lớn, dù là chuyện gì cũng có anh trai giúp hết. Nếu bị ai ăn hiếp, có thể lớn tiếng mà hét lên rằng, tao sẽ đi mách anh tao! Nhưng… anh trai tôi, anh ấy…” nói đến đây, nước mắt Đường Mẫn bỗng trào ra.

Mới đầu Trác Mộc Cường Ba cũng không để tâm lắm, an ủi một hai câu cho xong. Nhưng nước mắt Đường Mẫn càng khóc thì lại càng nhiều, không ngừng rơi ra tựa chuỗi hạt đứt dây xâu, lúc ấy, gã mới ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề…

“Sao thế này? Mọi người không ai đi ngủ mà tụ tập ở đây nói chuyện hết à, vẫn hưng phấn vì chuyện ngày mai phải không? Đây không phải tố chất mà những thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt của chúng ta nên có đâu đấy nhé.” Giáo sư Phương Tân cũng bước ra nhập bọn. Nhạc Dương vội nhích ra nhường chỗ cho ông, đồng thời nói: “À, Cường Ba thiếu gia mới kể một ít chuyện ngày xưa…”

Nói đoạn, anh chàng liền kể vắn tắt một lượt những gì Trác Mộc Cường Ba vừa nói. Nhạc Dương hiểu rõ, phàm là những chuyện Cường Ba thiếu gia đã nói, giáo sư đều biết cả. Đúng là giáo sư Phương Tân biết chuyện này, nhưng ông chưa từng nghĩ rằng người đàn ông vẻ ngoài cương nghị ấy, sâu thẳm bên trong vẫn không thể buông bỏ được như thế. Ông vỗ lên sau gáy Trác Mộc Cường Ba, nói: “Những chuyện đã qua sẽ trở thành ký ức trong cuộc đời cậu, chớ nên mang trong mình quá nhiều gánh nặng không thể buông bỏ như thế. Cậu phải nghĩ thế này này: giờ đây chắc chắn cô ấy sống hạnh phúc hơn trước kia, cô ấy đã tự lựa chọn con đường của mình, cậu cần phải tôn trọng lựa chọn của cô ấy, mà cả cậu nữa, cậu cũng có lựa chọn của riêng mình. Trong cả cuộc đời của một con người, nói chung là sẽ phải trải qua rất nhiều chuyện, phải học biết trân quý, cũng phải học cách từ bỏ. Cậu không thể cứ ôm đồm tất cả mọi thứ rồi đổ lỗi cho mình được, đã từng đánh mất một lần, vậy thì càng phải trân quý những người hiện giờ ở bên cạnh cậu mới phải. Đường Mẫn là một cô gái tốt, tuy rằng tuổi tác của cô ấy và cậu hơi cách biệt, nhưng tôi nhìn ra được, cô bé ấy thật lòng với cậu đấy. Tôi nghĩ là cậu cũng biết chuyện này, mới đầu tôi không thích cô bé ấy cho lắm. Nhưng mà, cậu có biết tại sao không?”

Núi tuyết

Quả nhiên, vừa nghe nói đến Đường Mẫn, Trác Mộc Cường Ba liền thoát khỏi hẳn tâm trạng tự trách móc mình, ngước nhìn giáo sư Phương Tân, không khỏi luống cuống ngượng ngùng, ấp úng nói: “Không… không biết.”

Trương Lập cũng biết chuyện này. Chính xác, ngay từ khi gặp Đường Mẫn lần đầu, giáo sư đã không được vui rồi. Về chuyện này, anh cũng từng nghĩ mãi mà không sao hiểu nổi. Bản thân Trương Lập thấy Đường Mẫn ngoài chuyện tuổi tác hơi chênh lệch với Trác Mộc Cường Ba thì cũng đâu có vấn đề gì.

Giáo sư Phương Tân điềm đạm nói: “Bởi vì ngay khi gặp mặt lần đầu tiên, tôi đã không thích cô ấy rồi.” Nói đoạn ông quay sang phía Nhạc Dương và Trương Lập tiếp lời, “Có lẽ cô ấy là loại con gái mà đám thanh niên các cậu ưa thích, xinh xắn đáng yêu, vừa đanh đá thông minh lại vừa cổ quái; nhưng khi tôi nhìn cô bé đó, trong cặp mắt cô ấy có một thứ tà mị hết sức tự nhiên, đó là một cặp mắt không cần điểm trang tô vẽ gì cũng có thể hút hồn đàn ông. Với kinh nghiệm làm người của tôi, một cô gái như thế rất khó có thể chỉ trung trinh với một người đàn ông thêm nữa là khoảng cách tuổi tác giữa hai người rõ rệt như vậy, thế nên khi ấy tôi đã nghĩ, cô công chúa nhỏ đã quen được cưng chiều này sẽ không thể nào ở lâu bên cậu được.”

Trác Mộc Cường Ba lấy làm ngạc nhiên, không ngờ lần đầu tiên gặp mặt Đường Mẫn giáo sư Phương Tân lại có ấn tượng như vậy, chẳng trách ông cứ mặt nặng mày nhẹ với Đường Mẫn mãi. Giáo sư Phương Tân hơi cúi đầu xuống, nói: “Sự thực chứng minh rằng tôi đã sai, tiện đây tôi cũng chính thức nói với cậu một tiếng xin lỗi.”

Trác Mộc Cường Ba hoảng hốt đứng lên, nói: “Thầy giáo, xin đừng nói thế, mỗi một việc thầy làm đều là vì tôi cả, sao tôi có thể không biết được. Thực ra, khi ấy tôi… tôi còn tưởng là…”

Giáo sư Phương Tân mỉm cười nói: “Có biết là khi nào cô bé ấy làm tôi cảm động không? Không phải vì cô ấy có thể chịu đựng tất cả khổ sở khi huấn luyện, cũng không phải lúc liều mạng cứu cậu trong địa cung Ahezt, kể cả ánh mắt thê lương tuyệt vọng trong Đảo Huyền Không tự cũng không thể, chính là lúc ở trong bệnh viện ấy.”

“Trong bệnh viện? Là lúc hai chúng tôi cùng vào bệnh viện à?”

“Không phải, đương nhiên không phải là lúc hai người tay nắm chặt tay lên bàn phẫu thuật, mà là sau khi phẫu thuật. Con người cậu lúc nào cũng tùy tiện cẩu thả, xưa nay chưa từng chú ý đến những chuyện Mẫn Mẫn đã làm trong bệnh viện. Vết thương của cô ấy vừa đỡ một chút, đã đòi tự mình chăm sóc cho tôi, lạt ma Á La, rồi cả hai thằng nhóc này và Ba Tang nữa, sự chăm sóc tỉ mỉ chu đáo đó, là do cô ấy đã đem tình yêu của mình dành cho cậu, dồn cả vào mỗi người ở bên cạnh cậu nữa, tình cảm ấy tuyệt đối không thể nào giả tạo được. Nếu cậu thật sự quan sát tỉ mỉ thì sẽ phát hiện ra thôi, cô ấy cẩn thận gấp từng chiếc ga trải giường, rồi ánh mắt chăm chú của cô ấy lúc tính vận tốc truyền dịch, mỗi lần rửa mặt cho chúng tôi, chiếc khăn mặt đã vặt khô cần dừng lại trên không mấy giây, mỗi động tác của cô ấy đều hết sức chu đáo, đều toát lên tình yêu sâu đậm dành cho cậu. Hơn nữa cô ấy không chỉ đối tốt với cậu, mà còn với từng người ở bên cạnh cậu nữa, có thể thấy đó đã không còn là một tình yêu bình thường nữa rồi, trong đời người có thể gặp được một vị hồng nhan tri kỷ như thế là thỏa mãn lắm rồi. Tất nhiên, đối với một người thiếu chú ý như cậu mà nói, chắc chắn là chẳng cảm nhận được gì rồi.”

Trác Mộc Cường Ba hổ thẹn cúi gằm mặt xuống, trong lòng thầm thở than: “Chậc, vẫn là thầy giáo hiểu mình nhất…”

Nhạc Dương nhìn vẻ ngượng ngùng của Trác Mộc Cường Ba, trong lòng cầm không được thầm nhủ: “Chỉ sợ không chỉ mình Mẫn Mẫn như thế thôi đâu. Giáo quan, cả mấy cô y tá thường ghé qua nữa, tôi đều nhận thấy có một cảm giác như thế cả, đến cả con mèo thỉnh thoảng chạy lại ngoài cửa sổ kia nữa chứ. Hừm, anh đúng là sát thủ của phái nữ!” Anh chàng đánh mắt với Trương Lập một cái, cả hai đều ngấm ngầm gật đầu có vẻ hiểu nhau lắm.

Giáo sư Phương Tân như sự hiểu ra chuyện gì dó, cất tiếng hỏi: “Đúng rồi, Cường Ba à, điệu bộ thẽ thà thẽ thọt muốn nói rồi lại thôi của cậu khi nãy là ý gì thế? Cậu bảo cậu tưởng là… tưởng cái gì thế hả? Khi ấy có phải cậu đang nghĩ, lão già sắp xuống lỗ này nhìn trúng cô bồ của cậu rồi, phải vậy không hả?”

“A… ôi…” Trác Mộc Cường Ba vội đứng bật dậy, hấp tấp xua tay như thể bị người ta nhìn thấu tâm tư trong lòng: “Tôi… tôi không có nói như vậy… tôi không có nói như vậy mà, phải không?” Trương Lập đột nhiên nói: “Hình như tôi có nghe thấy, lúc ấy Cường Ba thiếu gia thì thẩm lẩm bẩm gì đó, cậu cũng nghe thấy nữa, đúng không, Nhạc Dương?”

“Hai cậu này… đồ ăn có thể ăn bừa bãi được, nhưng nói năng thì không được bừa bãi đâu đấy…”

“Đúng mà, nghe thấy rồi, nghe thấy rồi. nghe rõ lắm”. Nhạc Dương cũng phụ họa theo.

Đội trưởng Hồ Dương nhoẻn miệng cười, đám mây âm u trong lòng Trác Mộc Cường Ba cuối cùng cũng nhạt bớt phần nào.

Đêm hôm đó, gió nhẹ rì rào, lũ côn trùng khẽ ngâm nga trong bụi cỏ…

Sáng sớm ngày hôm sau, sương mờ vẩn vít, đoàn người đeo ba lô lên lưng, đứng trên ngọn đồi cao nhìn lại khu đất trũng sau lưng, nơi có doanh trại họ đã huấn luyện gần hai năm, giờ đây, bất luận là thành công hay thất bại, họ cũng đều không trở lại nữa. Tâm trạng ai nấy đều rất phức tạp, vừa khao khát thành công, lại pha lẫn một chút bất nhẫn, căng thẳng, hưng phấn, bất an, bao nhiêu cảm xúc hòa quyện vào nhau, chỉ thấy trái tim đập nhanh hơn, mạnh hơn bất cứ thời điểm nào khác trước đây.

Máy bay trực thăng từ từ hạ cánh xuống bình đài trên đồi cao, các thành viên trong nhóm lần lượt xếp hàng một đi vào, cánh quạt quay chậm dần rồi lại nhanh dần, từ từ bốc lên cao, mang theo một đoàn người ôm bầu mộng tưởng bay thẳng lên trời xanh thăm thẳm.

Nhìn núi non tuyết phủ điệp trùng đang dần thu nhỏ lại, trong lòng Trác Mộc Cường Ba chợt dâng trào một thứ cảm giác kỳ dị. Nơi mà bọn họ sắp đi tới đây, từ hai năm trước, chú La Ba đã nhắc đến với gã rồi, đó là vùng đất bị thần linh nguyền rủa, nơi mây đen bất tường đã mang màn khói mù đến che phủ vĩnh viễn, và đêm đen ngập ngụa trong những hơi thở tà ác. Chỉ có những sinh mạng đã mất hết lương tri mới bị ném vào địa ngục vĩnh viễn không thể quay đầu đó. Giờ đây thoắt cái đã hai năm trôi qua rồi, đi cả một vòng lớn, cuối cùng bọn họ lại đến đại tuyết sơn, vận mệnh tựa như đang đùa cợt với gã, một trò đùa không lớn mà cũng chẳng nhỏ, vòng một vòng, cuối cùng trở về khởi điểm. Điều khác biệt duy nhất là, giờ đây mục đích của bọn họ đã rõ ràng hơn trước rất nhiều, mà đoàn người cũng từ hai người khi ấy biến thành mười người của bây giờ.

Trước khi xuất hành, Lữ Cánh Nam đã nói với mọi người, đích đến lần này của họ là một ngọn núi tuyết con người chưa từng chinh phục, tuy quốc tế đã có tên gọi chính thức, nhưng dân Tạng quanh vùng đó đều gọi là Nữ thần Tư Tất Kiệt Mạc. Nó nằm ở lưng chừng mạch núi Himalaya, so với các ngọn núi tuyết xung quanh thì không phải cao lắm, nhưng lại là ngọn núi nguy hiểm nhất. Thực tế là, trong quá khứ, cả một vùng từ Lạc Trát đi về phía Tây, dọc theo sống lưng dãy Himalaya kéo thẳng đến Phổ Lan, đều được coi là vùng đất cấm đối với nhân loại, người địa phương gọi là: Tử vong Tây phong đới. Đặc biệt là ngọn núi tuyết Tư Tất Kiệt Mạc mà họ sẽ đến lần này, theo lời chú Ba La từng nói, cao hơn bảy nghìn mét so với mực nước biển, tốc độ gió trung bình cấm mười tám, nhiệt độ trung bình khoảng ba mươi độ âm, độ bão hòa ô xi bình quân chỉ có 10%. Ngọn núi này chủ yếu có sáu triền núi, triền Tây Bắc – Đông Nam nằm trên sống lưng của mạch núi Himalaya, ngoài ra còn có triền Bắc, triền Tây, triền Tây Bắc, triền Tây Nam. Trên triền núi dốc ngược vẫn còn dày đặc dấu vết những trận lở tuyết. Lưng chừng núi là một dốc băng cao dần lên theo chiều từ Bắc hướng Nam, diện tích tương đối lớn. Mặt phía Bắc tựa như bị đao chặt rìu đẽo, độ dốc bình quân đạt tới trên 75 độ. Đỉnh phụ trên triền núi phía Bắc tên là La Mạc Cương Kỳ, cao 6.816 mét so với mực nước biển. Đỉnh phụ trên triền núi phía Tây tên là Tán Quách Hạ Ngõa Như Nhân, cao 6.640 mét so với mực nước biển. Đỉnh phụ trên triền núi phía Đông Nam là Đa Kết Ngọc Trọng Mã tương đối cao, 7.010 mét. Những đỉnh núi này đều phủ một lớp băng tuyết dày, trong khe núi có những sông băng khổng lồ, bên trên sông băng có nhiều vách dựng đứng và khe sâu hình răng cưa, rất thường xuyên xảy ra hiện tượng lở băng lở tuyết. Nhìn trên bản đồ vệ tinh, lờ mờ có thể thấy đỉnh phụ có hình răng sói, mấy đỉnh phụ giao nhau đan xen, giống một con ác quỷ đang nghiến chặt răng, vách băng dựng đứng, thế núi vô cùng hiểm trở, đỉnh núi quanh năm bị sương tuyết mù mịt bao kín, mờ mờ ảo ảo tựa như ảo ảnh. Thậm chí cả người dân tộc Hạ Nhĩ Ba xưa nay vốn được xưng tụng là những người hướng đạo trên núi tuyết cũng không sẵn lòng đến đó, một nơi dường như là vùng đất chỉ có đi mà không có về. Thế mà nơi họ muốn kiếm tìm phỏng chừng là một cái khe nằm giữa hai đỉnh núi, bị rặng núi vây quanh, hình thành nên ngõ tránh gió của dải Tây phong. Muốn tìm ra nơi ấy, trước tiên phải trèo lên được đỉnh gọn núi tuyết quanh năm không lộ ra diện mạo thật này đã.

Thực ra mọi người đã quen với cái tên Nữ thần Tư Tất Kiệt Mạc này rồi, dịch nghĩa ra thì chính là chỉ Tử thần. Vị thần này mắt phóng ra tia chớp điện, mũi thở ra cuồng phong, tai vang tiếng sấm, đầu tóc dựng đứng xoay chuyển như mây, trên mình đeo trang sức là các thi thể màu đỏ đen, hình tượng cực kỳ đáng sợ.

Máy bay trực thăng bay về phía Tây Nam, men theo sơn cốc khổng lồ mà tiến lên, hai bên núi non hiểm trở, đỉnh núi phủ tuyết trắng xóa nổi bật trên nền trời xanh thăm thẳm, tựa như đang bay trên đường bay Đà Phong vậy. Trác Mộc Cường Ba lờ mờ cảm thấy những dãy núi này như mỗi lúc mỗi quen thuộc, cảm giác ấy càng lúc lại càng thêm rõ rệt, cuối cùng, gã đột nhiên sực nhớ ra, nếu lộ trình bay này không sai, bọn họ đang tiến về phía huyện Đạt Mã. Nếu là huyện Đạt Mã thì Trác Mộc Cường Ba gã biết rất rõ. Huyện này ở đoạn giữ mạch núi dãy Himalaya, là vùng tiếp giao giữa ba nước Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal, núi tuyết bao phủ ba mặt, địa thế cao dốc hiểm yếu, khí hậu bị ảnh hưởng của luồng khí nóng ẩm từ Ấn Độ Dương thổi vào, lương mưa rất dồi dào. Trong sơn cốc, cây cối xanh um rậm rạp, có những cánh rừng nguyên sinh rất lớn, các đường vào núi cũng giống như đường vào Mặc Thoát vậy, đều được đục trên vách núi dựng đứng cao ngất, nhìn từ xa, những con đường nhỏ trông như vết dây thừng thít vào da thịt núi đá thành vết hằn sâu hoắm. Hiện nay, trong đám dân mê đi du lịch lữ hành đã có nhiều người biết đến Mặc Thoát, song kẻ biết đến Đạt Mã thì vẫn còn ít, nhưng dấu chân của Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân thì gần như đã in khắp nơi trong huyện Đạt Mã này rồi.

Nguyên nhân họ quen thuộc nơi này không gì khác chính là bởi trong các tư liệu cổ có ghi chép, huyện Đạt Mã là nơi sản sinh ra giống ngao hung hãn nhất, đồng thời cũng trung thành bảo vệ chủ nhân nhất. Ngày nay ở phía Nam huyện Đạt Mã vẫn còn giữ được nét chữ của người cổ đại khắc trên vách đá, do người Hán khắc theo thể chữ Khải, niên đại xa xưa lắm rồi, hầu như đã mờ tróc, chỉ còn lờ mờ nhận ra được mấy chữ “Thiên Trúc”, “Ngao châu”. Theo kết quả khảo chứng, một số tài liệu tạp ký dã sử có nhắc đến một cách sơ lược đại khái rằng, đi Thiên Trúc, ắt phải qua Đạt Mã – người Hán gọi đây là Ngao châu – nơi yết hầu cửa ngõ, là vùng đất binh gia nhất quyết phải tranh giành, vân vân. Niên đại của những tư liệu dã sử ấy có thể truy ngược lên tới triều Đường. Có điều khi bọn Trác Mộc Cường Ba đến huyện Đạt Mã và nghiên cứu, Ngao châu thuở xưa đã suy tàn, gã và giáo sư Phương Tân đã nỗ lực rất nhiều, song vẫn không thu hoạch được thứ gì khả quan. Còn có một điều khiến họ lấy làm nghi hoặc khó hiểu, đó là Ngao châu cách Đảng Hạng quá xa, cũng không phải nơi xảy ra trận đại chiến cuối cùng với vương triều Tượng Hùng, vậy mà lại là nơi sản sinh ra giống ngao hung mãnh nhất, trung thành bảo vệ chủ nhân nhất, cảm giác nghe không được lọt tai cho lắm.

Ước chừng đã vào đến địa giới huyện Đạt Mã, máy bay trực thăng đưa họ lên tới độ cao khoảng hơn bốn nghìn mét gần năm nghìn mét so với mực nước biển. Theo lời Lữ Cánh Nam, ở đây có thôn làng gần với núi thần nhất – làng Nạp Lạp, cũng là trạm tiền tiêu của họ trong chuyến leo núi lần này. Trác Mộc Cường Ba lục tìm trong ký ức, dường như không có ấn tượng gì với địa danh này, hai hàng lông mày không khỏi nhíu lại.

Nạp Lạp là một khe núi nằm giữa các đỉnh núi tuyết, địa hình tương đương với khe Nguyệt Lượng ở sa mạc.

Núi tuyết vây quanh đây ngọn này cao hơn ngọn kia, chen vai thích cách, lằn ranh tuyết trên sườn núi nhấp nhô trải dài, hình thành nên một dải Vạn Lý Trường Thành từ băng tuyết thiên nhiên, cả trong lẫn ngoài dải trường thành đều trải ra một vùng mênh mang rộng lớn.

Cơn gió cắt da cắt thịt gào thổi qua triền núi, một năm bốn mùa, vĩnh viễn không có phút nào ngơi nghỉ. Nhưng nhờ núi cao hai bên ngăn khí lạnh, trong khe núi đã ấm áp lại nhiều mưa, cỏ xanh mơn mởn, rất nhiều bò dê sinh sống, nên nhìn từ trên cao xuống, trên lưng chừng ngọn núi tuyết nom như trải ra một tấm thảm lông tơ xanh hình mảnh trăng khuyết vậy.

Băng tuyết tan chảy thành những dòng suối trong vắt dồn tụ lại trên tấm thảm xanh, hình thành nên những hồ lớn hồ nhỏ, mặt hồ phản chiếu đỉnh núi tuyết phủ, nước hồ đều ánh lên một màu trắng sữa, nhìn tư xa trông chẳng khác nào vô số viên trân châu lớn nhỏ các cỡ. Một dòng sông tựa như sợi dây nối liền những mặt hồ trân châu này lại, rồi chảy vòng qua đòng cỏ, xuyên qua khu dân cư.

Vì nơi này là khu dân cư ở vị trí cao nhất so với mực nước biển của Trung Quốc, thậm chí là của cả thế giới, khí hậu lại vô cùng lạnh lẽo, nên nhà cửa ở đây đều thấp lè tè, từ không trung nhìn xuống, trông hệt như những hộp diêm mỏng quét. Khá nhiều căn nhà đá xây dựng theo kiến trúc đặc trưng của người Tạng, cũng có cả những ngôi nhà gỗ nhỏ. Người dân nơi đây đều dựng nhà ở nơi có nước, trước cửa có dòng sông chảy qua, ngoài cửa sổ là hồ nước, cảnh tượng ấy dễ khiến người ta liên tưởng đến một khu dân cư ở vùng sông nước Giang Nam.

Lũ bò dê đều được thả dải rác trên đồng cỏ, ung dung thoải mái, trông hết sức nhàn nhã. Nhạc Dương ngồi trên trực thăng ngắm nhìn mà lấy làm ngưỡng mộ, nói: “Xem ra người ở đây chẳng phải làm gì hết cả, sáng sớm dê bò tự ra ngoài, tối tối lại tự quay về chuồng, mở cửa sổ ra là nhìn thấy hồ nước đồng cổ, còn cả núi tuyết và trời xanh mây trắng nữa. Ngày ngày ở trong nhà uống ly trà, đánh ván cờ, hay cưỡi ngựa đi dạo một vòng cũng được, ối chà, cuộc sống như vậy cơ đấy, chậc chậc, tôi cũng muốn sống lâu dài ở đây!”

Đội trưởng Hồ Dương cười mắng: “Cái thằng nhóc này, nếu thật sự sống ở đây, chỉ sợ chưa được hai tháng cậu đã kêu gào đòi về thành phố rồi ấy chứ.” Nhạc Dương nghe thế chỉ “hứ” một tiếng, không thèm để ý.

Lúc xuống trực thăng họ mới phát hiện ra, khí hậu nơi này còn khô hanh, lạnh lẽo hơn trong tưởng tượng của họ rất nhiều. Nhạc Dương không chịu được phải đưa tay lên bịt mũi rùng mình mấy cái. Tiếng ồn của máy bay trực thăng làm kinh động dân cư sống quanh đó, dân làng ở trong nhà lũ lượt chạy ra xem có chuyện gì. Khi nhận ra có khách đến, ai nấy đều tỏ ra hết sức nhiệt tình, trên mặt lần lượt hiện lên nụ cười rạng rỡ. Nhạc Dương lại cảm khái than thở, nơi này so với thôn Công Bố thì thật là khác nhau một trời một vực.

“Lâu lắm rồi chỗ chúng tôi không có nhiều khách thế này, bên ngoài gió lớn, mời mọi người vào nhà tôi nghỉ ngơi đã. Cả anh phi công kia cũng vào uống chút rượu nóng cho ấm người nhé.” Giữa đám người bước ra một vị tuổi tác khá cao, đại khái chắc là trưởng thôn, tươi cười vui vẻ bảo nhóm người bọn Trác Mộc Cường Ba, “Các đồng chí bộ đội đã nói với chúng tôi rồi. Tôi tên là Mã Bảo, tôi sẽ giúp mọi người giải quyết chuyện ăn ở.”

Mấy người lạt ma Á La, giáo sư Phương Tân, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đều không thấy có gì lạ, nhưng đám Nhạc Dương, Trương Lập thì nghe mà trợn tròn cả mắt lên. Bọn họ hoàn toàn không hiểu ông trưởng thôn tuổi độ ngũ tuần này đang nói cái gì. Nhạc Dương khẽ kéo kéo vạt áo lạt ma Á La, thì thầm hỏi: “Đại sư, ông ấy nói tiếng gì thế?”

“Tiếng Tạng mà.” Lạt ma Á La thoáng ngẩn người, rồi ngay sau đó liền mỉm cười, nói: “Họ nói tiếng Tạng đấy, chỉ có điều phát âm hơi khác, thuộc vào loại phương ngôn, các cậu chú ý nghe kỹ là hiểu được thôi.”

Đám Nhạc Dương đầu tiên cũng nghĩ là tiếng Tạng, vừa nghe thấy không giống, liền chiếu theo lối tư duy của tiếng Tạng cổ để tiếp nạp thông tin, nhưng cũng hoàn toàn chẳng hiểu gì. Giờ được lạt ma Á La nhắc nhở, mới biết là phương ngôn, nghiền ngẫm đoán mò một lúc lâu, cuối cùng cũng lờ mờ đoán ra được một chút, nghe kiểu như người Thượng Hải hay người Quảng Châu nói tiếng phổ thông vậy, đúng là bọn họ nói tiếng Tạng, chỉ là phát âm hoàn toàn khác biệt mà thôi.

Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn đồng hồ, đoạn nói với đám Trác Mộc Cường Ba: “Chúng ta sẽ ở đây nghỉ ngơi chỉnh đốn mấy ngày, một là để thích ứng với hoàn cảnh núi cao, hai là đợi thông báo của Cục Khí tượng, xem lúc nào thời tiết thích hợp cho việc leo núi. Thời gian xuất hành lên núi có thể là bốn năm hôm nữa, hoặc cũng có khả năng là ngày mai. Chúng ta cần phải xem và tìm hiểu địa thế núi non xung quanh đây, xác định tuyến đường có thể lên tới đỉnh núi. Giờ là 11 giờ, trước chính ngọ là thời điểm sương mù trên đỉnh núi có khả năng tan nhiều nhất, chúng ta sẽ chia thành ba tổ, lần lượt tiến hành khảo sát tuyến đường lên đỉnh núi từ ba hướng Đông, Nam, Bắc. Giờ tôi sẽ sắp xếp, nhóm của Trác Mộc Cường Ba, Hồ Dương, Nhạc Dương đi hướng đông, lạt ma Á La, Ba Tang, Trương Lập đi theo hướng phía Nam, giáo sư Phương Tân, tôi và Mẫn Mẫn sẽ đi theo hướng Bắc, mọi người đã nghe rõ cả chưa? Mã Bảo, chúng tôi cần ba người dẫn đường.

Mã Bảo gật đầu, gọi trong đám người làng ra hai tay trung niên cường tráng khỏe mạnh, rồi hỏi: “Không vào nhà nghỉ ngơi một lát à? Có cần bỏ bớt ba lô trong nhà không?”

Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Không cần thiết, chúng tôi phải nhanh chóng thích ứng với hoạt động mang vác nặng trong môi trường mới này, nếu ở dưới chân núi còn không thể vừa mang vác những máy móc và nhu yếu phẩm này vừa hành động, vậy thì làm sao mà lên núi tuyết được?”

Mã Bảo thở dài một tiếng, nói: “Lên núi tuyết ư… khó đấy!”

Kẻ tôi tớ của núi tuyết

Tổ của Trác Mộc Cường Ba phụ trách khảo sát xem khe núi nằm giữa đỉnh phụ phía Đông Nam Đa Kết Ngọc Trọng Mã và đỉnh chính có thích hợp để leo lên hay không, lối này vừa xa lại vừa khó đi, nên Mã Bảo đích thân dẫn đường cho bọn họ.

Dọc đường, qua chuyện trò Trác Mộc Cường Ba mới biết, Mã Bảo thực ra không phải là trưởng thôn gì cả, ngôi làng trên danh nghĩa này kỳ thực là một khu dân cư hình thành tự phát của đám dân du mục, trong thôn có bốn năm chục hộ gia đình, mọi người thân thiết như trong một nhà vậy. Ai gặp chuyện gì chỉ cần nói một tiếng, tất cả mọi người trong thôn đều sẽ giúp đỡ. Hơn nữa từ bao nhiêu năm nay, trong thôn làng này cũng chẳng có chuyện gì lớn lao xảy ra cả, những chuyện lớn nhất đều không ngoài mấy thứ tang ma hiếu hỷ.

Người trong làng đều là người Đạt Mã. Theo như Trác Mộc Cường Ba được biết, người Đạt Mã ở huyện Đạt Mã này đa phần đều từ Nepal di cư đến vùng giữa rặng Himalaya vào khoảng cuối đời nhà Thanh, nhưng bọn họ vẫn khăng khăng tin rằng mình là hậu duệ của người Tạng, cũng có người nói họ là con cháu của tộc Khắc Lạp Để. Họ không có chữ viết, trước giải phóng cũng sống theo lối hết sức nguyên thủy, đốt nương làm rẫy, thắt dây rừng để ghi nhớ lại sự việc. Vì nơi này là vùng tiếp giáp hai nước Trung Quốc và Nepal, nêu bọn họ cũng thường xuyên đi qua đi lại giữa hai nước, họ hàng thân thích của nhiều người Đạt Mã đều vẫn sinh sống ở Nepal, nhưng họ thì vẫn kiên trì cư trú trên lãnh thổ Trung Quốc, vì cho rằng đất nước Trung Quốc đang dần dần lớn mạnh, ngày tháng sau này sẽ ngày càng tốt đẹp hơn. Hiện giờ thì cuộc sống của người dân trong làng Mã Bảo về cơ bản không khác biệt gì so với người Tạng, cũng nói tiếng Tạng, ăn bánh bột mì Thanh Khoa, chỉ có điều các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng thì tương đối ít, chỉ có các hoạt động chuyển kinh chuyển sơn(1), hơn nữa còn đi theo chiều ngược chiều kim đồng hồ của Bản giáo.

Còn việc lên núi tuyết, Mã Bảo lắc đầu nói với họ, từ năm nọ năm kia nào đó, đội khảo sát của nhà nước cũng đến rồi, nhóm mười ba người đã vào núi, nhưng chưa đến một nửa số ấy sống sót trở ra; lại có năm, đội thám hiểm của Anh cũng đến, nhưng cuối cùng không thấy người nào quay lại; về sau có cả người Mỹ, người Đức, các loại thiết bị máy móc còn hiện đại tiên tiến hơn của họ bây giờ nhiều, nhưng lần nào cũng là mười người đi cùng lắm chỉ có một hai người về. Dải gió Tây chết chóc đâu phải chỉ là tên gọi, đỉnh Chomolungma (tức Everest, cao nhất trái đất: 8.848 m) có thể leo được, bởi đó là nữ thần nhân từ, còn Tử thần Tư Tất Kiệt Mạc lại là vị nữ thần có tính khí nóng nảy nhất, không ai có thể gánh chịu được lửa giận của Người.

Lúc họ đến được điểm quan trắc, đỉnh núi phủ mây mù, chỉ có thể nhìn thấy khoảng từ lưng chừng núi đổ xuống. Đội trưởng Hồ Dương chỉ liếc mắt nhìn qua một lượt, đã đoán định ngay: “Con đường này không thể đi được.” Kế đó anh tiến hành đo đạc trắc địa hết sức thuần thục, đồng thời chỉ cho Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương thấy những chỗ nguy hiểm. Anh cho rằng có ba nguyên nhân khiến con đường này không thể thông hành, một là khí hậu quá khắc nghiệt, hai là địa hình quá phức tạp, ba là độ dốc quá lớn. Với nhân lực và trang bị của họ lúc này, lên núi chính là tự lao đầu vào chỗ chết.

Mã Bảo cười cười nói với họ, những gì họ thấy đã là tương đối tốt rồi, bỏi trong truyền thuyết Đa Kết Ngọc Trọng Mã là vị nữ thần có tính nết khá tốt so với các thần linh khác. Lúc bình thường, nàng là vị nữ thần màu trắng vô cùng xinh đẹp, gương mặt luôn rạng rỡ nở nụ cười thân thiện, trên cổ nàng có vòng hoa kết từ bảo thạch, vàng bạc châu báu và hoa tươi, thường cưỡi một con sư tử màu xanh ngọc Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng khi nổi giận, nàng sẽ biến thành nữ thần mặt đen tính tình bạo ngược hung tàn, miệng nhểu máu, hai mắt tóe lửa, mũi phun khói mù mờ mịt, y phục của nàng cũng biến thành bộ áo da người lột từ tử thi, tay cầm bát đầu lâu đầy ắp máu người.

Trác Mộc Cường Ba cảm thấy câu chuyện sao mà quen thuộc, tưởng chừng như gã đã nghe qua ở đâu đó rồi, nhất định là không phải chuyện cổ được nghe kể hồi nhỏ, nhưng nhất thời không nhớ nổi. Chỉ nghe đội trưởng Hồ Dương hỏi: “Vậy ý của anh tức là, kết quả quan trắc của hai nhóm kia còn tệ hơn cả chúng tôi nữa ư?”

Mã Bảo gật đầu: “Chắc là thế đấy.”

Nhạc Dương nghe xong phải nghĩ ngợi một lúc mới đại khái đoán ra được ý của Mã Bảo, lẩm bẩm cằn nhằn: “Mới chỉ đến lưng chừng núi mà đã khó đi như vậy rồi, không biết sau khi mây mù tan đi, đỉnh núi kia sẽ trông như thế nào nhỉ?”

Mã Bảo thì nghe hiểu được những gì Nhạc Dương nói, vội xua tay lia lịa: “Không thể nào đâu, sương mù trên đỉnh núi một năm bốn mùa lúc nào cũng có, tôi sống ở đây từ nhỏ đến lơn chưa thấy sương tan lần nào cả. Hồi trước nghe các bậc già lão nói, vì dẫu sao nữ thần cũng rất thích đẹp, nàng không muốn bị con người nhìn thấy bộ dạng dữ dằn hung ác của mình, thế nên đã che gương mặt mình đi. Đỉnh núi này mấy vạn mấy ngàn năm nay đều như vậy cả, chẳng bao giờ sương mù kia tan đi đâu.”

Sắc mặt đội trưởng Hồ Dương lộ vẻ lo lắng, anh vân vê bộ râu xồm xoàm của mình nói: “Lần này thì hỏng bét rồi, nếu sương mù trên đỉnh núi quanh năm không tan, thì buộc phải tiến hành leo lên đỉnh trong khu vực mù rồi, tình huống này gọi là leo núi theo kiểu tự sát. Hơn nữa, dù sương mù có tan đi, với kiểu địa hình này, khó hơn leo lên đỉnh Chomolungma rất nhiều, chỉ sợ còn khó hơn cả leo núi Nam Ca Ba Ngõa ấy, nơi đây tuyệt đối có thể xếp vào độ khó leo treo cấp 5.12 trong hệ thống YDS(2) đó.

Trong thoáng chốc, cả ba người cùng chìm vào im lặng. Họ đều biết rõ, cấp 5.12 là cấp độ leo trèo khó nhất rồi, mà đội trưởng Hồ Dương thì tuyệt đối không ba hoa nói khoác. Lúc này Mã Bảo lại lên tiếng: “Cho dù mọi người có thể leo lên đến sườn núi, thì đoạn đường phía sau cũng không thể vượt qua được đâu. Chúng tôi hồi trước từng gặp rất nhiều người có thể leo vào màn sương mù, nhưng rồi không một ai trở về hết cả.” Thấy sắc mặt bọn Trác Mộc Cường Ba càng khó coi hơn, Mã Bảo lại nói tiếp: “Trừ phi có Cương Nhật Phổ Bạc dẫn đường cho các vị.”

“Cương Nhật Phổ Bạc?” Trác Mộc Cường Ba và đội trưởng Hồ Dương cùng thoáng ngẩn người ra, trong ký ức của hai người đều có chút ấn tượng đối với cái tên này. Ý nghĩa của nó là kẻ tôi tớ của núi tuyết. Trác Mộc Cường Ba vẫn còn lờ mờ nhớ được, chẳng những gã từng nghe thấy cái tên này, mà còn tiếp xúc cả với con người ấy nữa. Nhưng nghĩ cho kỹ càng hơn, lại cảm thấy không phải thế, tựa hồ như thiếu mất mối liên hệ then chốt nào đó.

“Đúng,” Mã Bảo gật đầu, “nghe nói, anh ta là người duy nhất biết đường lên núi.”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Sao anh ta lại biết đường lên núi?”

Mã Bảo lại lắc đầu: “Không biết. Có điều rất nhiều năm trước, một đội khảo sát khoa học của nhà nước có đến đây một lần. Khi đó là vợ Cương Nhật Phổ Bạc dẫn đường cho bọn họ, lần ấy bị thất bại, nghe đâu cả đoàn không có người nào trở về được. Về sau lại có một số nhóm khác đến muốn tìm Cương Nhật Phổ Bạc dẫn đường, nhưng anh ta không bao giờ đáp ứng nữa.”

“Tôi nhớ ra rồi,” đội trưởng Hồ Dương nắm tay đấm vào bàn tay bên kia của mình thốt lên, “hồi tôi còn ở đội khảo sát sông băng Tây Tạng đã nghe nói đến người này rồi. Dạo đó nhà nước muốn đi đo đạc thăm dò một ngọn núi tuyết, chỉ vì Cương Nhật Phổ Bạc không chịu dẫn đường, vì vậy mãi vẫn không thể xuất hành. Hồi ấy thường hay thấy nhắc đến cái tên này lắm, ái chà chà, tôi đã bảo sao cái tên này nghe quen thế mà! Nghe bảo sông băng ở đây rất đặc thù, có thể sánh được với sông băng ở núi Nạp Mộc Ma Ni(3) đó. Nói đên đây, đội trưởng Hồ Dương mê mẩn dõi mắt ngắm nhìn dòng sông băng trắng toát khổng lồ vươn xuống từ giữa đám mù sương mờ mịt. Đó tựa như một thiếu nữ để lộ ra nửa cánh tay trắng muốt như tuyết đang vẫy gọi, toát ra thứ ma lực lạ lùng.

“Phải rồi, Mã Bảo, khi ấy mọi người làm sao biết Cương Nhật Phổ Bạc có thể tìm được đường lên núi? Ông ta cũng là người Đạt Mã à?” Trác Mộc Cường Ba hỏi.

Mã Bảo lắc đầu: “Không phải. Hồi xưa tôi nghe các bậc già lão trong làng nói, trước khi tổ tiên chúng tôi đến đây, tổ tiên Cương Nhật Phổ Bạc đã định cư ở quanh nơi này rồi. Vì vậy tôi nghĩ, đấy chính là nguyên nhân bọn họ biết nhiều hơn chúng tôi.”

Ông ta lấy ngón tay chỉ hướng, đoạn nói: “Bọn họ trước nay vẫn cư trú ở phía Nam, còn phải đi lên thêm nữa. Môi trường ở đó không tốt như chỗ chúng tôi, rất ít người sống. Trước đây nơi đó cũng chỉ có một hai hộ gia đình, hiện nay thì chỉ còn lại một mình Cương Nhật Phổ Bạc thôi.”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Nhạc Dương; cả hai đều nghĩ đến những người dân sống trong thôn Công Bố, người tên Cương Nhật Phổ Bạc kia, liệu đám bọn họ có sứ mạng giống nhau hay không nhỉ?

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Dẫn chúng tôi đi gặp người đó.”

Mã Bảo nghĩ ngợi giây lát, rồi nói: “Vô dụng thôi, trước đây không phải là không có người đến tìm anh ta, nhưng từ khi người vợ bị mất tích, anh ta từ chối dẫn bất cứ người nào lên núi.”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Anh cứ giúp chúng tôi tìm được anh ta đã, còn chuyện anh ta có sẵn lòng đưa chúng tôi lên núi hay không, chúng tôi phải nói chuyện với anh ta thì mới biết được, phải vậy không?”

Mã Bảo nhíu mày nói: “Được thôi, có điều tôi phải nhắc nhở mọi người, lại gần căn nhà của anh ta là một chuyện hết sức nguy hiểm. Cương Nhật Phổ Bạc nuôi một con chó rất lớn, rất dữ, hơn nữa ngoại trừ chủ nhân của nó ra, con chó đấy không nhận bất cứ người nào khác cả. Có lẽ nó không cắn tôi, nhưng mà các vị thì…”

“Chó lớn hả!” Trác Mộc Cường Ba liền sực nhớ ra, kêu toáng lên, “Cương Lạp! Cương Lạp Mai Đóa! Tôi nhớ ra rồi!”

“Hả?” Mã Bảo lộ vẻ kinh ngạc nói, “Sao anh biết tên nó vậy?”

Trác Mộc Cường Ba cười lớn nói: “Tôi đã bảo sao cái tên đó nghe quen quen vậy mà, Cương Lạp Mai Đóa, Cương Nhật Phổ Bạc, sao tôi lại không quen anh ta được cơ chứ, tôi đã ở nhà ấy cả nửa năm cơ mà!” Gã kéo tay Mã Bảo nói, “Anh không cần lo cho sự an toàn của chúng tôi đâu.”

Nhiều năm trước gã và giáo sư Phương Tân từng đến huyện Đạt Mã tìm chó ngao, bất ngờ phát hiện ra ở nhà Cương Nhật Phổ Bạc có giống ngao cực kỳ quý hiếm Hải lam thú, chính là con Cương Lạp Mai Đóa đó; trong tiếng Tạng, Cương Lạp Mai Đóa nghĩa là hoa sen tuyết. Để thuyết phục Cương Nhật Phổ Bạc đồng ý cho gã dẫn Cương Lạp Mai Đóa ra ngoài, giới thiệu thần ngao Hải lam thú với toàn thế giới, gã đã ở lỳ nhà Cương Nhật nửa năm ròng, có điều từ đầu chí cuối gã vẫn gọi Cương Nhật là a quả (nghĩa là đại ca), giờ đột nhiên nghe tên đầy đủ của anh ta, đâm ra không kịp phản ứng nhớ ra.

Đội trưởng Hồ Dương và Nhạc Dương đều quay sang nhìn Trác Mộc Cường Ba, chỉ thấy gã kích động nói với hai người họ: “Hải lam thú! Cương Nhật có một con Hải lam thú cực kỳ quý hiếm, tên nó là Cương Lạp Mai Đóa, đóa sen tuyết diễm lệ đẹp mê hồn người. Nó còn ở đó không?” Câu hỏi cuối cùng gã là dành cho Mã Bảo.

Mã Bảo nhún vai đáp: “Vẫn còn.” Ông dường như phải hạ quyết tâm lớn lắm, mới nói: “Đi theo tôi.”

Nhạc Dương hiếu kỳ hỏi: “Hải lam thú là gì thế?”

Trác Mộc Cường Ba mỉm cười đáp: “Một giống chó ngao Tây Tạng. Thu hoạch duy nhất trong chuyến đi tới huyện Đạt Mã tám năm trước của tôi và giáo sư Phương Tân chính là tìm được con Hải lam thú này. Tôi ở nhà a quả suốt nửa năm, nhưng anh ấy không thể nào không có Cương Lạp, một ngày thôi cũng không được. Hiện nay những người biết đến chó ngao Tây Tạng, đa phần đều biết Thiết pháo kim, Tuyết ngao, Hồng ngao, Hắc ngao, những giống như Tượng kim sư, Lang thanh, Báo ban giờ cũng hiếm người gặp rồi, còn nếu là Hoàng kim nhãn, Hải lam thú thì chắc đến cả nghe tên cũng chỉ có mấy người thôi.” Trác Mộc Cường Ba không kìm được mà nhớ lại sắc lam tuyệt đẹp ấy, sắc lam nhàn nhạt lấp lóa ánh bạc, đó là sắc màu mà bất cứ họa gia nào cũng không thể pha nổi. Bản thân Trác Mộc Cường Ba cũng không biết phải miêu tả thế nào, chỉ có thể tán tụng sự ban ân của đại tự nhiên mà thôi.

“Mười năm hiếm gặp Hoàng kim nhãn, trăm năm không có Hải lam thú.” Trác Mộc Cường Ba không khỏi nhớ lại những thần ngao, bảo ngao lưu truyền trong lời kể của những cụ già du mục ở các vùng hoang vu nơi dấu chân con người hiếm khi đặt tới. Hoàng kim nhãn và Hải lam thú đều là biến chủng của chó ngao Tây Tạng phổ thông. Hoàng kim nhã chính là tên gọi đôi mắt giả của giống Thiết pháo kim; bên trên hai mắt một con ngao giống Thiết pháo kim còn có hai đốm vàng, thoạt nhìn trông rất giống có thêm một đôi mắt nữa, tục gọi là Thiết pháo kim bốn mắt. Đôi mắt giả của Thiết pháo kim bình thường màu vàng nhạt hoặc màu hạt dẻ, còn cả màu nâu đỏ nữa, nhưng có một giống biến chủng, cặp mắt giả ấy biến thành màu vàng kim, tương truyền con ngao loại này sau khi trưởng thành thì to hơn chó ngao thường một bậc, khỏe vô cùng, vuốt như vuốt hổ, tiếng gầm như tiếng sư tử. Đặc biệt là cặp mắt vàng kim hết sức nổi bật kia như tượng trưng cho thân phận tôn quý, lũ chó ngao tầm thường trông thấy đều tự thu vuốt cụp móng cúi đầu lẩn đi, ánh mắt lộ rõ vẻ nhún nhường.

Hải lam thú thì là biến chủng của Tuyết ngao. Tuyết ngao thông thường toàn thân trắng tuyền, con nào lông tốt còn ánh lên sắc bàng bạc, gọi là “nhuộm bạc ánh tuyết”. Hải lam thú bình thường không khác gì Tuyết ngao cả, điểm kỳ dị là khi nó chạy nhảy dưới trời xanh mây trắng, qua một khoảng thời gian, màu lông của nó sẽ dần biến thành sắc lam nhàn nhạt, không phải màu lam sâu thẳm của biển khơi, mà là sắc lam nhạt kỳ dị của những hồ nước trên cao nguyên Thanh Tạng dưới bầu trời xanh, lại cũng giống như màu lam nhạt ánh lên khi băng tuyết tích tụ quá sâu, quá dày, đồng thời còn óng ánh sắc bạc, rất nhạt, nhưng đẹp tuyệt trần, bởi thế nên có tên là Hải lam thú. Lời bàn về Hải lam thú trong truyền thuyết là, giống ngao này thông linh, có thể đọc hiểu ý người, thân thể nhẹ như lông nhạn, chạy nhanh như gió không để lại dấu chân trên tuyết, không sợ giá lạnh băng tuyết, có thểm tìm được đường ra chính xác trên núi tuyết mù sương, có thể phá băng xuống nước tìm thức ăn, thường làm tọa kỵ Độ Mẫu và Bồ Tát. Thể hình của Hải lam thú nhỏ hơn một chút so với đồng loại, thông thường những con xảy ra biết dị đều là ngao cái, địa vị của chúng trong lòng dân du mục gần như có thể so với Tử kỳ lân được, điểm khác biệt duy nhất chính là Tử kỳ lân chỉ xuất hiện trong truyền thuyết, còn Hải lam thú thì ngẫu nhiên cũng có xuất hiện trong hiện thực.

Trác Mộc Cường Ba còn nhớ, lần đầu tiên nhìn thấy Cương Lạp Mai Đóa gã đã từng kích động run rẩy nói với giáo sư Phương Tân: “Hải lam thú! Đó là Hải lam thú! Thầy giáo, thầy thấy chưa, đó chính là Hải lam thú, chúng không chỉ xuất hiện trong truyện thần thoại thôi đâu. Có Hải lam thú, thì cũng sẽ có Tử kỳ lân!”

Trác Mộc Cường Ba vừa lôi mình từ hồi ức trở lại hiện thực, vội vàng liên lạc với giáo sư Phương Tân; trông gã lúc này như một đứa trẻ đang ra câu hỏi đánh đố người lớn vậy:

“Thầy giáo, thầy đoán xem chúng tôi sắp đi kiếm ai nào?”

“Kiếm ai?” giáo sư Phương Tân thoáng ngẩn ra, rồi lập tức đáp ngay: “Cương Lạp Mai Đóa! Tôi đã bảo chỗ này sao quen thế rồi mà lại, các cậu sắp đi tìm Hải lam thú đúng không?

Lữ Cánh Nam trong bộ đàm lên tiếng hỏi: “Chuyện gì thế? Các anh đã thăm dò xong rồi à?”

Đội trưởng Hồ Dương đáp: “Phải, con đường này không thể đi được. Giờ chúng tôi sẽ đi tìm một người biết đường lên núi, hy vọng anh ta có thể giúp được gì đó cho chúng ta.”

“Được rồi, chú ý an toàn, nhớ báo cáo lại cho tôi.”

Trên đường, Mã Bảo nhắc đến Cương Nhật Phổ Bạc. “Tuy tính khí có hơi cổ quái một chút, nhưng anh ta là người tốt. Anh ta đã nhiều lần giúp chúng tôi tìm lại lũ bò dê đi lạc, hơn nữa còn cho chúng tôi biết khu vực nào là nguy hiểm, chớ dắt dê vào đó chăn thả. Cũng có khi người trong làng trông thấy, lúc nào không có người ngoài vào núi, anh ta sẽ lẳng lặng một mình đi sâu vào trong núi.”

Lần này thì Nhạc Dương nghe lờ mờ hiểu được một nửa, liền hỏi: “Ý của anh là, anh ta sống một mình trên núi?”

Mã Bảo gật đầu. Nhạc Dương kinh ngạc thốt lên: “Một mình thì sống làm sao được?”

Mã Bảo nói: “Sao một mình lại không sống được? Anh ta nuôi một đàn dê lớn, có một căn nhà hầm to, đại khái một năm ra khỏi núi hai lần, dùng dê đổi lấy các nhu yếu phẩm cần dùng. Mỗi năm khi các đồng chí bộ đội đóng ở đây đến thăm chúng tôi, cũng chuẩn bị cho anh ta một phần các đồ dùng cần thiết. Người làng chúng tôi cũng đều sống như vậy cả.”

Nhạc Dương len lén đưa mắt nhìn ngọn núi tuyết khổng lồ, thầm nhủ, sống một mình ở cái vùng lạnh khủng khiếp này làm sao mà chịu nổi? Đến cả người nói chuyện cũng không có nữa, thế thì cô đơn lạnh lẽo đến như thế nào chứ.

Vừa đi Mã Bảo vừa kể một số lời đồn về Cương Nhật Phổ Bạc nữa, được chừng nửa tiếng đồng hồ thì cỏ xanh dưới chân thưa dần, những viên đá cuội lớn bắt đầu nhiều lên, khí lạnh táp vào mặt người. Những viên đá cuội trơn nhẵn hết sức ẩm ướt, không dễ đi chút nào. Đội trưởng Hồ Dương lại ngước nhìn núi tuyết, chỉ tay vào đá, nói: “Nhìn thấy chưa, những tảng đá này chứng tỏ rằng, từ rất lâu rất lâu trước đây, sông băng vốn phủ kín cả khu vực mà chúng ta đang đứng đây, hiện giờ thì đã rút lên phía trên kia rồi.” Nói tới đây anh ta lại bồi hồi cảm khái, “Tôi còn nhớ năm đó, kết quả khảo sát sông băng của chúng tôi là, không bao lâu nữa, trên dãy Himalaya này sẽ không còn sông băng nào nữa.”

Cùng với tiếng thở dài của đội trưởng Hồ Dương, không khí càng lúc càng lạnh hơn. “Cường Ba thiếu gia, nhìn kìa!” Nhạc Dương chỉ tay vào một mỏm núi xa xa. Mỏm núi đen thui giống như một bức tường dựng trên lưng chừng núi, bên dưới có mấy hang động thiên nhiên; chỗ tay Nhạc Dương chỉ vào chính là những hang động thiên nhiên ấy.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, trông thấy rồi. Tôi nhớ lần trước đến đây, thầy giáo có nói, đấy chắc là nơi cổ nhân thời Đồ đã cũ từng cư trú, nhưng kiểu hang động lộ thiên thế này dễ bị phá hoại lắm, nên bên trong chắc chẳng còn gì nữa cả. Huyện Đạt Mã có rất nhiều di chỉ Đồ đá cũ, đây cũng là một khi quần cư của cổ nhân.”

Đội trưởng Hồ Dương cũng nói: “Không chỉ ở đây có, mà bên bờ sông Kim Sa kéo dài từ cực Tây đến cực Đông khu A Lý, nguyên một vòng cung tạo bởi mạch núi Himalaya đều có những hang động nham thạch thế này. Theo những suy đoán ban đầu, vào thời kỳ văn minh nhân loại mới manh nha khởi phát, dãy Himalaya đã trải qua một thời kỳ con người sống trong hang động rất dài.”

“Ồ” Nhạc Dương hơi có chút thất vọng nói, “tôi còn tưởng đấy là do người Qua Ba bỏ lại chứ.”

Trác Mộc Cường Ba thầm chấn động trong lòng, xem ra không chỉ mình gã có suy nghĩ như thế. Nhưng ý kiến của Nhạc Dương lại khiến gã nghĩ đến một ý, người Qua Ba và cổ nhân thời kỳ Đồ đá cũ trên cao nguyên Thanh Tạng liệu có phải là cũng một mạch truyền thừa, lưu truyền nền văn minh nguyên thủy từ một vạn năm trước đến tận thời hiện đại ngày nay? Trong đầu gã, chợt hiện ra cảnh tượng những người nguyên thủy mình quấn da thú, tay cầm gậy gỗ, đang vác vật săn trở về, sau lưng là một đàn… vân vân, sao lại xuất hiện hình ảnh như vậy được nhỉ? Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba trở lại với những hang động nham thạch thiên nhiên đen thui kia, hình ảnh vừa này giống như đoạn phim chiếu lại, gã nhìn thấy rất rõ ràng, sau lưng những người sống trong hang động ấy là… một đàn sói!

Mã Bảo biết rất ít về người nguyên thủy, vẫn dẫn đường đi trước, miệng nói: “Vượt qua cửa thung lũng trước mặt, đi thêm nửa tiếng nữa là có thể trông thấy nhà của Cương Nhật Phổ Bạc rồi.”

Gió ở cửa thung lũng rất lớn, thổi rát cả mặt, núi hai bên như hai người khổng lồ sừng sững đan chéo chân vào nhau, và lúc này bọn họ phải đi xuyên qua hai khúc chân gác chồng lên nhau ấy. Đột nhiên, gió dường như mạnh hơn, trong tiếng gió rít vù vù phảng phất toát ra khí lạnh rùng mình, cảm giác nhìn không thấy, sờ không được đó khiến cả bốn người cùng dừng bước. Cỏ khô run rẩy trong cơn gió cuồng loạn, tựa như cũng muốn lẩn trốn lực lượng thần bí vô hình kia.

Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt lại, dựa vào trực giác nói: “Có thứ gì đó đang tiến về phía chúng ta, tốc độ rất nhanh!” Gã vừa nói dứt lời đã nghe Nhạc Dương kêu toáng lên, “Cường Ba thiếu gia! Cẩn thận!”

Trác Mộc Cường Ba mở to mắt nhìn thấy trong gió lóe lên một tia chớp màu xanh…


1. Chuyển kinh chuyển sơn: Một trong những nghi thức kiền thành nhất của Tạng truyền Phật giáo, Ấn Độ giáo và Bản giáo. Tín đồ vừa bái lạy vừa đi vòng quanh ngọn núi thần Cương Nhân Ba Tề (Giang Riponche). Tạng truyền Phật giáo và Ấn Độ giáo chuyển sơn theo chiều kim đồng hồ; còn Bản giáo thì đi theo chiều ngược lại.

2. YDS (Yosemite Decimal System): hệ thống dùng để mô tả các cấp độ khó của hoạt động leo trèo. Cấp độ 5.12 là cấp độ khó nhất và chưa ai thực sự leo lên được.

3. Gurla Mandhata: đỉnh núi cao nhất dãy Nalakankar Himal, một nhánh của dãy Himalaya.

Cương Lạp Mai Đóa

Không người nào nhìn thấy nó từ đâu đến, đến như thế nào, phảng phất như đột nhiên xuất hiện từ trong hư không, tất cả đều chỉ trông thấy đó là một luồng sáng xanh chỉ có ở những tia chớp bổ thẳng về phía Trác Mộc Cường Ba. Cái miệng há ra của Nhạc Dương vừa mới ngậm lại, đội trưởng Hồ Dương một chân đặt trước một chân đặt sau đang chuẩn bị vào tư thế phòng ngự, Mã Bảo thì không kịp có bất cứ phản ứng nào; trước luồng sáng xanh lam kỳ dị ấy, tất cả đều trở nên chậm chạp đến độ trì độn. Khi mọi người từ trong trạng thái chậm chạp trì độn ấy hồi phục lại bình thường, thì luồng sáng xanh nhàn nhạt ấy đã bổ lên người Trác Mộc Cường Ba rồi.

Đúng vào khoảnh khắc luồng sáng xanh đó chạm vào người gã, đột nhiên xảy ra biến đổi, nó bỗng trở nên mềm mại nhẹ nhàng, đồng thời cũng không hất Trác Mộc Cường Ba ngã ngửa ra đất, mà vừa với chạm vào người gã, đã lập tức xoay ngược lại. Khi luồng sáng xanh lam ấy xoay chuyển, Nhạc Dương mới nhìn rõ, đó là một con thú khổng lồ, cũng cùng lúc đó cảm giác sợ bất an và sợ hãi trong lòng anh dâng trào lên vượt quá nỗi hoảng sợ trước bất cứ hiểm nguy nào mà anh từng trải qua. Bởi vì anh chợt phát hiện ra, nếu người đứng đó là mình, bất kể là bản thân phản ứng thế nào, cũng không thể tránh khỏi cú vồ vừa rồi của con thú màu lam ấy.

Con thú lớn chạy ra xa mười mấy mét với tốc độ kinh người, rồi lập tức chạy ngược trở lại, lao bổ vào Trác Mộc Cường Ba lần nữa, vừa mới chạm phải người gã, nó lại lập tức xoay mình, cứ như vậy đến ba bốn lần, cuối cùng mới chịu dừng chân lại, đặt hai chân trước gác lên vai Trác Mộc Cường Ba, lè cái lưỡi dài của mình ra, cổ họng phát ra những tiếng thở hổn hển nặng nề.

Bọn Nhạc Dương giờ mới nhìn rõ, đó là một con Tuyết ngao rất lớn, lúc đứng lên gần như cao ngang bằng Trác Mộc Cường Ba, bộ lông dài thuần một màu trắng lấp lánh ánh bạc, nhưng vừa nãy tại sao họ lại nhìn thấy nó màu lam? Lẽ nào là ảo giác? Nhạc Dương ngẫm đi nghĩ lại, đó cơ hồ không phải là màu lam, mà là một thứ màu sắc anh chưa từng thấy bao giờ mới đúng.

Chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba vòng tay ôm chặt con Tuyết ngao, vuốt ve mới lông cổ bờm xờm xõa tung ra của nó, lớn tiếng cười nói: “Cương Lạp, Cương Lạp, bé ngoan, bé ngoan! Còn nhớ tao hả!” Con Tuyết ngao không ngừng dùng mũi phát ra những tiếng rít ngắn mà chói tai, dường như đang đáp lại Trác Mộc Cường Ba.

Nhìn thấy cảnh tượng này, cả Nhạc Dương lẫn đội trưởng Hồ Dương đều ngớ người ra, hệt như lúc Trương Lập lần đầu tiên trông thấy Trác Mộc Cường Ba nói chuyện với lũ sói vậy. Cả người Trác Mộc Cường Ba lúc này tỏa ra một sự thân thiết lạ kỳ, đó là sự thân thiết của bạn bè thân hữu. Ánh mắt ấy, nụ cười ấy, tưởng chừng như họ là anh em ruột thịt đã bị chia lìa mấy chục năm ròng, lại như một đôi vợ chồng già đã dắt tay nhau cùng đi hết cả đời người, hoặc có thể nói là một cặp sinh tử chi giao cùng sống sót trên chiến trường cũng không ngoa. Khi Trác Mộc Cường Ba và con Tuyết ngao ấy ôm chặt lấy nhau, sự thân thiết tỏa ra thậm chí còn khiến cả gió cũng trở nên ấm áp hẳn lên, đúng thật là dù có hình dung thế nào cũng không quá đáng. Đội trưởng Hồ Dương không chỉ kinh ngạc trước sự thay đổi đó của Trác Mộc Cường Ba mà con Tuyết ngao kia cũng khiến anh lấy làm chấn động. Anh từng gặp qua không ít chó ngao, trong hình dung của anh, lũ to đầu ấy lúc nào cũng mặt mày u ám, đôi mất lúc nào cũng lừ lừ nhìn người ta, trông hết sức dũng mãnh nếu không thì cũng là một bộ mặt cao ngạo mà hoang dã, chứ anh chưa bao giờ thấy chó ngao cũng có lúc dịu dàng tình cảm đến thế. Lúc này con Tuyết ngao đang gác chân lên vai Trác Mộc Cường Ba kia không chỉ phát ra tiếng ư ử trong mũi, mà cái đầu to tướng của nó còn không ngừng cọ đi cọ lại trên vai gã, giống như một thiếu nữ đầy một dạ những hờn tủi đang kể lể nỗi nhớ nhung và tủi thân của mình với tình lang mà nagnf xa cách bao năm, chờ đợi bao năm vậy.

Một người một chó cứ thế ôm chặt nhau rù rì thủ thỉ trong gió lạnh một hồi lâu, ba người bên cạnh thì đờ ra nhìn. Cũng không biết bao nhiêu lâu sau, Trác Mộc Cường Ba mới buông Cương Lạp ra, vuốt ve trán nó. Cương Lạp vươn cổ, khoan khoái nhắm mắt lại. Trác Mộc Cường Ba nói: “Để tao giới thiệu với mày mấy người bạn nhé, Cương Lạp. Họ đều là bạn của tao cả." Kế đó, trước cặp mắt kỳ quái khó hiểu của bọn Nhạc Dương, Trác Mộc Cường Ba hết sức trịnh trọng giới thiệu từng người bọn họ cho Cương Lạp biết.

Đến lúc này, đội trưởng Hồ Dương cuối cùng cũng gặp lại điệu bộ của một con chó ngao Tây Tạng mà anh xưa nay vẫn thường thấy. Khi nghe thấy tên bọn họ, Cương Lạp chỉ khẽ mở mắt liếc một cái hững hờ, bộ dạng ấy, giống như một vị tổng giám đốc đang hưởng thụ dịch vụ massgage, bên cạnh có người giới thiệu những nhân viên mới xem có thể thu dụng hay không vậy, nó chỉ khép hờ mắt, rồi khe khẽ gật đầu. Nhạc Dương bất mãn nói: “Ái chà chà, nhìn điệu bộ nó kìa, ục à ục ịch!” Cương Lạp đột nhiên trừng mắt, hướng về phía Nhạc Dương nhe nanh ra. Nhạc Dương thấy thế giật thót mình. Mã Bảo đứng cạnh anh thì càng tỏ ra kinh hoàng hơn, không kìm hãm nổi mà lùi lại hai bước, nếu không phải có đội trưởng Hồ Dương đưa tay ra đỡ, suýt chút nữa ông ta đã ngã bổ kềnh ra đó rồi.

Đội trưởng Hồ Dương cười cười nói: “Những con chó ngao Tây Tạng tôi từng gặp qua hầu hết đều như vậy cả. Tạng ngao trưởng thành thân thể rất to lớn, dũng mãnh khỏe mạnh, hơn nữa thông thường chúng đều giữ thái độ thù địch và cảnh giác đối với người lạ. Trong mắt của chúng, người bình thường căn bản không phải đối thủ, vì vậy chúng có tư cách để kiêu ngạo. Ngoại trừ chủ nhân của chúng ra, muốn được bọn chúng tôn trọng, trừ phi cậu cũng phải tôn trọng lại chúng, nếu cậu dùng ánh mắt nhìn vật nuôi để nhìn bọn chúng, Tạng ngạo cũng sẽ nhìn cậu với ánh mắt như nhìn một con vật nuôi thôi. Trông điệu bộ và thái độ của nó lúc này, chứng tỏ rằng nó đã chấp nhận cậu rồi, đương nhiên, đây là do nể mặt Cường Ba thiếu gia thôi.”

“Cương Lạp, cương lạp?” Nhạc Dương không tin, thử gọi hai ba tiếng. Cương Lạp ngoảnh mặt đi chỗ khác, đến nhìn cũng không thèm nhìn Nhạc Dương lấy một lần.

Trác Mộc Cường Ba thấy sắc mặt Mã Bảo tái mét, lo lắng hỏi: “Anh không sao chứ?”

Trên gương mặt Mã Bảo hiện ra vẻ khó xử: “Đến đây thì anh tự tìm đường được không?”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn xung quanh, đoạn nói: “Tất nhiên, chỗ này đã gần căn nhà nhỏ của Cương Nhật lắm rồi. Nếu anh có chuyện gì phải làm thì không cần đưa chúng tôi đi nữa, chúng tôi có thể tự tìm đường về.” Nhìn sắc mặt của Mã Bảo, Trác Mộc Cường Ba liền an ủi mấy câu.

Mã Bảo cẩn trọng liếc nhìn Cương Lạp một cái, do dự giây lát, rồi cuối cùng cũng nói: “Vậy, vậy tôi đưa mọi người đến đây thôi, các vị nhớ cẩn thận đấy.”

Trác Mộc Cường Ba và đội trưởng Hồ Dương bắt tay tạm biệt Mã Bảo, tỏ ý cảm ơn.

Sau khi Mã Bảo đi, Cương Lạp đột nhiên mở bừng mắt, chui ra khỏi vòng tay Trác Mộc Cường Ba, chạy vài bước rồi ngoảnh đầu nhìn lại, kế đó lại chạy thêm hai bước nữa, rồi lại ngoảnh đầu, tiếp đó thì liền tung bốn chân lên, chạy vút đi như một cơn gió.

Trác Mộc Cường Ba nhìn bóng lưng Cương Lạp dần biến thành một áng mây xanh lam trong gió núi, mỉm cười nói: “Đi thôi, nó đã không chờ đợi được mà đem tin chúng ta đến đây nói với Cương Nhật Phổ Bạc rồi.”

Nhạc Dương nhìn theo bóng Mã Bảo, lấy làm kỳ quái hỏi: “Anh ta sao vậy nhỉ?”

Đội trưởng Hồ Dương lắc đầu: “Không biết nữa.”

Nhạc Dương và đội trưởng Hồ Dương còn tưởng căn nhà của Cương Nhật Phổ Bạc ở ngay phía trước, ai ngờ núi lớn đường xa, họ phải đi thêm mười mấy dặm(1) đường nữa mới đi hết được khe núi. Đến đây khung cảnh phía trước bỗng dưng trải rộng, mây xanh ngút chân trời, đồng cỏ ngải xanh rợp trông như thảm cỏ trên sân vận động, căn nhà đá xây từ đá cuội và đất Ca Đạt nằm ở bên kia đồng cỏ xanh, sau nhà có mấy chục gốc cây bị đốn vây thành một vòng lớn. Có điều Nhạc Dương phát hiện ra trong hàng rào ấy không có gì hết, cả bãi cỏ cũng không thấy bò dê đâu.

Đến trước nhà, chỉ thấy trên cánh cửa gỗ có vẽ mặt trăng mặt trời và ký hiệu Ung trọng, bậu cửa rất thấp. Bên trong vang vọng ra tiếng chó sủa, không phải tiếng “oắc oắc” mà là tiếng “um um um…”, rồi sau đó trong nhà có người nói: “Cường Ba, cậu lại đến rồi!” Giọng nói mạnh mẽ trầm hùng, khí trung đầy đủ.

Mấy người bọn Nhạc Dương giật mình ngạc nhiên, không ngờ người trong nhà lại biết đấy là Trác Mộc Cường Ba, lẽ nào con Tuyết ngao tên là Cương Lạp kia đã có thể trò chuyện với con người rồi, bằng không người ở trong nhà làm sao biết được người đến là Trác Mộc Cường Ba cơ chứ? Trác Mộc Cường Ba cũng hỏi: “A quả, làm sao anh biết là tôi thế?”

Một gương mặt tươi cười xuất hiện nơi cửa, gương mặt người này trắng mà ẩn sắc hồng, vài lọn tóc rối bù chĩa ra bên dưới chiếc mũ lông cáo, những nếp nhăn trên mặt rất sâu, nhưng hai mắt có thần, mái tóc đen mướt, nhìn không ra là bao nhiêu tuổi. Người này bên ngoài khoác một chiếc áo vải Phổ Lỗ màu xanh phỉ thúy viền da báo bó sát người, ống tay trái buộc ở hông, ống phải vắt trên vai, rồi dùng dây tết bó chặt chiếc áo cộc bằng da dê non bên trong lại, trên thắt lưng giắt một thanh đao dài. Đây chính là Cương Nhật Phổ Bạc, bộ trang phục ấy và thanh đao dài cổ phác khiến người đàn ông mặt đỏ cao hơn mét sáu này trông càng giống người võ lâm hơn.

Cương Nhật Phổ Bạc nói: “Có thể khiến Cương Lạp vui vẻ thế, ngoài cậu ra thì còn ai vào đây được nữa.” Chỉ thấy Cương Lạp thò đầu ra bên cạnh ống quần Cương Nhật Phổ Bạc, cặp mắt lớn mở to nhìn cả đám người như dò xét, một thoáng sau nó lại rút đầu về, rồi chen ra ở phía bên kia, trông chẳng khác nào một cô bé thông minh lanh lợi mà lại hay xấu hổ cả.

Mặc dù lần trước không mượn được Cương Lạp, nhưng ở chung với nhau nửa năm, Trác Mộc Cường Ba và Cương Nhật Phổ Bạc đã thành đôi bạn thân thiết, cả căn nhà bằng đá này cũng có một nửa là do gã dựng nên.

Cương Nhật Phổ Bạc đứng tránh ra nhường đường, nói: “Nào, mau vào nhà ngồi đi.”

Căn nhà bằng đá này rất kỳ quái, không có cửa sổ, trong nhà tối om, giữa ban ngày ban mặt cũng phải đốt đèn dầu bơ; cửa rất thấp, đến cả Nhạc Dương cũng buộc phải khom người mới chui vào được, Trác Mộc Cường Ba gần như là phải ngồi xổm mới vào trong được. Trong nhà lại đột nhiên rộng mở thênh thang, chính giữa là một cái lò sưởi, bên trên đặt chậu nước nóng, trong chậu đặt một cái vò, cũng không rõ bên trong đựng gì nữa.

Dưới ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn dầu, đồ đạc nông cụ vứt lung tung thành từng đống bừa bộn trong nhà, trên đầu treo những tảng thịt sấy đẫm mỡ, bốn bức vách đều đen bóng cả lên, màu đen do bị khói dầu hun. Ngoài ra chủ nhân còn dùng dây thừng xâu rất nhiều miếng trông như miếng trà bánh treo lên tường, một chiếc ván dài vừa làm giường lại vừa làm ghế ngồi, chăn nệm bừa bãi rách rưới như bị chó cắn xé, bên cạnh giường có một tấm thảm hình tròn khá sạch sẽ gọn gàng, nhưng đó là chỗ ngủ của Cương Lạp. Cương Lạp vừa vào phòng liền nằm bò lên trên đó, chỉ mở cặp mắt to tròn ra nhìn chằm chằm vào Trác Mộc Cường Ba mà không chớp lấy một cái.

Nhìn đống quần áo chất đầy một nhà, Nhạc Dương không biết phải ngồi xuống chỗ nào nữa, quay sang nhìn Cường Ba thiếu gia, chỉ thấy gã dồn quần áo sang bên cạnh thành một đống rồi tùy tiện ngồi luôn lên giường. Thấy thế, anh cũng nhặt quần áo lên, chọn một cái ghế đẩu ngổi xuống. Cương Nhật vơ một đống đồ linh tinh ném hết cả lên giường, rút ghế đẩu ra, rồi mở nắp cái vò đang đặt trong chậu nước, mùi rượu thơm lừng lập tức xộc vào mũi, thì ra anh đang hâm rượu.

Đội trưởng Hồ Dương nói với Nhạc Dương, ở đây là vùng cao lạnh giá, khách đến thăm thường phải đi qua gió rét, vì vậy đạo đãi khách là lấy rượu thay trà, uống vừa ấm lòng vừa ấm bụng.

Cương Nhật lấy ra bốn cái chén trà to, rót đầy bốn chén rượu đưa cho bọn Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương, vừa đưa rượu vừa lầm bầm nói gì đó, giống như đang niệm chú, lại cũng giống như đang khe khẽ hát.

Nhạc Dương nhớ mang mấng rằng thứ rượu đãi khách này phải uống ba ngụm trước, nhưng không được uống hết, ngoảnh đầu nhìn sang thấy Cường Ba thiếu gia cũng không một hơi uống hết, nhưng ngụm rượu của gã trong rõ là lớn, vậy là anh chàng cũng bắt chước làm một ngụm to. Vừa nuốt ngụm rượu xuống, Nhạc Dương tức khắc cảm thấy như có cục than hồng ở cổ họng, bụng như có lửa đốt phừng phừng, khổ nỗi lại không phun ra được, gương mặt lập tức bị dồn ứ đỏ bừng lên. Chẳng ngờ đây lại không phải rượu gạo thông thường, mà mạnh như là Thiêu Đao Tử hay Nhị Oa Đầu vậy.

Vừa thấy bộ dạng không ngừng hà hơi xua tay lia lịa đến là tức cười của Nhạc Dương, mấy người trong nhà đều cười phá lên, cả Cương Lạp cũng nheo nheo mắt, cằm dưới gật gù, tựa như một chú mèo đang nhoẻn miệng cười vậy. đội trưởng Hồ Dương nói: “Đây không phải rượu Thanh Khoa đâu. Chỗ này là vùng cao lạnh giá, người ta thích uống rượu mạnh, nghe nói nồng độ lên đến bảy mươi phần trăm, gần như là cồn còn gì. Cậu tưởng cậu uống giỏi như Cường Ba chắc!”

Nét mặt Cương Nhật Phổ Bạc lộ ra vẻ đắc ý: “Đây chính là rượu A Thứ Cát được nhắc đến trong lịch sử đó, ngoài kia người ta vẫn nói phương pháp ủ rượu được truyền từ Ả rập vào Tây Tạng, kỳ thực tổ tiên chúng tôi đã biết kỹ nghệ chế tạo men rượu từ trước thời Đường rồi. Trong tiến Tây Tạng cổ, A thứ có nghĩa là nhựa cây, thứ rượu này vốn là dùng nhựa cây và mật ong pha trộn lại mà ủ thành, nhưng ở đây không có mật ong, tôi dùng thứ khác để thay thế, thành ra mạnh hơn các loại rượu khác một chút.”

Nhạc Dương không dám uống thêm nữa, thân thể anh giờ đã như bị bao bọc trong lửa nóng rồi. Cương Nhật Phổ Bạc cũng không để t âm chuyện đó, quay sang nói chuyện thuở xưa với Trác Mộc Cường Ba, rồi chuyển vào chủ đề chính: “Nói đi, mục đích lần này cậu đến đây là gì.”

Trác Mộc Cường Ba đáp: “Tử kỳ lân.”

Cương Nhật Phổ Bạc trợn tròn mắt, cười lộ cả răng đưa mắt nhìn Cương Lạp, rồi lại quay sang nhìn Trác Mộc Cường Ba: “Cậu vẫn tin là… có Hải lam thú, thì nhất định có Tử kỳ lân à?”

Trác Mộc Cường Ba nói với giọng khẳng định: “Lần này nhất định là tôi sẽ tìm được.”

Cương Nhật Phổ Bạc nói: “Tôi có thể giúp gì được cho cậu? Chắc không phải cậu muốn đem Cương Lạp của tôi… nó đã qua tuổi đó rồi mà?”

Trác Mộc Cường Ba ngẩn người, rồi phá lên cười ngay sau đó. Gã biết, Cương Lạp chắc là đã hơn mười lăm tuổi, tính theo tuổi thọ của chó ngao, nó đã thuộc loại lão trung niên, hiển nhiên là Cương Nhật cho rằng gã muốn để Cương Lạp giao phối với Tử kỳ lân, nhưng Cương Lạp đã quá tuổi sinh đẻ rồi. Trác Mộc Cường Ba nói: “Chuyện này kể ra thì phức tạp lăm, tôi chỉ có thể nói với anh một cách đơn giản thế này, chúng tôi muốn lên núi.”

Nụ cười của Cương Nhật Phổ Bạc lập tức biến mất: “Không thể nào, Tử kỳ lân không thể sống trên núi tuyết được.”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Tôi biết thế, nơi chúng tôi cần phải đến, có lẽ không phải trên đỉnh núi tuyết, chúng tôi đoán đó có lẽ là một địa phương gần giống như khu vực cư trú của người Đạt Mã, nơi đó có môi trường thích hợp cho Tử kỳ lân sinh tồn. Nhưng chúng tôi không tìm được đường lên núi, nghe nói anh là người duy nhất biết con đường đó.”

Cương Nhật Phổ Bạc sa sầm nét mặt nói: “Tôi không dẫn cậu lên núi đâu.”

Trác Mộc Cường Ba cuống lên: “Tại sao vậy, a quả?”

Cương Nhật Phổ Bạc nói: “Cậu cũng biết rồi đấy, Lạp Chân chính vì dẫn người khác lên núi tuyết, thế nên thần núi mới thu hồn phách cô ấy lại, đó là sự trừng phạt đối với tôi. Từ dạo đó trở đi tôi đã thề rằng, bất kể là ai vì bất kể nguyên nhân gì, tôi cũng không dẫn người nào lên núi tuyết nữa.” Trác Mộc Cường Ba nhíu mày, thầm tính toán xem nên làm thế nào để cởi bỏ gút thắt trong lòng này của Cương Nhật Phổ Bạc. Lúc này, đội trưởng Hồ Dương chợt cất tiếng: “Thực ra, chúng tôi không chỉ đi tìm Tử kỳ lân không thôi, chúng tôi còn đại diện cho nhà nước đi tìm kiếm một ngôi chùa đã biến mất trong lịch sử, nó rất có thể là phục tàng lớn nhất ở Tây Tạng…” đội trưởng Hồ Dương vốn định lợi dụng Bạc Ba La thần miếu thần bí để đánh động Cương Nhật Phổ Bạc. Không ngờ anh vừa nói thế, Cương Nhật đã cười gằn lạnh lẽo nói: “Bạc Ba La! Vậy càng không thể được, Bạc Ba La chỉ nên tồn tại ở n ơi đang tồn tại, không thể để người khác quấy nhiễu. Cường Ba, lần này thì bất kể là cậu có lý do gì, tôi cũng tuyệt đối không dẫn các cậu lên núi đâu!”

Nhạc Dương thầm nhủ: “Hỏng bét rồi, đội trưởng Hồ Dương sơ suất quá, Cương Nhật Phổ Bạc là người duy nhất biết đường lên núi, nói không chừng những người đến tìm anh ta trước đây đã ít nhiều tiết lộ chuyện liên quan đến Bạc Ba La thần miếu, thế này đúng là khéo quá thành ra vụng, có thể cả Cường Ba thiếu gia cũng bị người ta coi là thằng lừa bịp rồi!” Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, anh liền giở ngay chiêu sát thủ: “Chú Cương Nhật à, Cường Ba thiếu gia là Thánh sứ đấy, trước đây chúng tôi cũng không biết, Thánh sứ đấy!” Anh trịnh trọng nhấn mạnh thêm một lần nữa.

Không ngờ, Cương Nhật Phổ Bạc đáp hết sức dứt khoát: “Tôi mặc xác cậu ta là cái gì sứ, cho dù cậu ta là khâm sai đại thần, tôi đã nói là không thì tức là không.”

Nhạc Dương ngẩn người, không ngờ cái danh Thánh sứ đấy lại không có công dụng gì ở đây hết.

Cương Lạp dường như cảm nhận được điều gì đó, cứ ngoảnh đi ngoảnh lại hết nhìn chủ nhân của nó rồi lại nhìn Trác Mộc Cường Ba, hai người đều trầm ngâm, không cười, khiến nó cũng không biết phải làm sao. Đột nhiên nó nhổm dậy, cọ cọ vào chân Cương Nhật, lấy đầu húc húc lên, rồi rên ư ử như thể tủi thân lắm. Cương Nhật Phổ Bạc vuốt ve đầu con chó, thở dài nói với Trác Mộc Cường Ba: “Tôi tin là cậu đi tìm Tử kỳ lân.” Anh ta lại quay sang nhìn đội trưởng Hồ Dương và Nhạc Dương: “Bọn họ đi tìm Bạc Ba La…” Cương Nhật ngưng lại một thoáng, đoạn nói tiếp: “Có điều tôi vẫn phải nhắc nhở cậu, Bạc Ba La trong truyền thuyết bị Đạo quân Ánh sáng đem giấu đi là có nguyên nhân đấy. Tuy rằng Thần miếu và Hương Ba La thánh địa tượng trưng cho thế lực có thể thỏa mãn tất cả dục vọng của nhân loại, nhưng cậu cũng chớ có quên, phía sau tài sản vô tận ẩn chứa lời nguyền hủy diệt tất cả đó, cậu có được bao nhiêu thì sẽ mất đi bấy nhiêu. Trên đời này không có tiền tài từ trên trời rơi xuống, cũng không thể chỉ cứ ảo tưởng ra là thỏa mãn được.”

Hai mắt Trác Mộc Cường Ba sáng bừng lên, vội hỏi dồn: “Anh cũng biết Bạc Ba La và Đạo quân Ánh sáng. Anh biết được những gì?”

Cương Nhật Phổ Bạc cười khẩy một tiếng: “Những gì tôi biết, chỉ sợ còn nhiều hơn những gì cậu nghĩ nhiều đó.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Có thể cho tôi biết một số chuyện về Bạc Ba La mà anh biết không?”

Cương Nhật Phổ Bạc trầm tư, Trác Mộc Cường Ba len lén đưa mắt liếc nhìn Cương Lạp, Cương Lạp lại cọ cọ vào đùi Cương Nhật nịnh nọt, miệng rên “ư ư ư”, rồi ngẩng đầu lên, cặp mắt nhìn đến tội, phảng phất như đang cầu xin: “Nói cho anh ấy đi, nói cho anh ấy đi.” Nhạc Dương và đội trưởng Hồ Dương nhìn mà trợn tròn mắt lên, trong lòng lấy làm kinh hãi, duy chỉ có Trác Mộc Cường Ba biết rõ thế nào gọi là chó ngao thông linh, thế nào gọi là có thể đọc được ý người, đây chính là linh ngao Hải lam thú!

Cương Nhật Phổ Bạc khẽ gõ nhẹ lên đầu Cương Lạp, đoạn nói: “Con nhóc này, đừng tưởng ở đó đầu mày cuối mắt với cậu ta mà tao không thấy nhé, chẳng lẽ tạo lại không biết tâm tư mày hay sao?”

Cương Lạp lại kêu lên hai tiếng “ứ, ứ”, nằm rạp xuống đất, hai chân trước ôm đầu tỏ vẻ oan ức lắm, cặp mắt đen đảo tròn một vòng. Cương Nhật Phổ Bạc giơ tay làm bộ gõ cho nó phát nữa, Cương Lạp vội nhân lúc anh ta không chuẩn bị, đã tót lên giường nấp bên cạnh Trác Mộc Cường Ba, rồi lè le lưỡi, làm mặt quỷ với chủ nhân.

Cương Nhật Phổ Bạc không biết làm sao, đành cười mắng: “Đồ phản bội.” Cương Lạp lại kêu “ư ử”, gối luôn đầu lên đùi Trác Mộc Cường Ba, vươn cổ ra, nheo nheo mắt như thể muốn nói, “ông làm gì tôi được nào,” rồi cứ nằm yên thế để Trác Mộc Cường Ba vuốt lông cho mình.

Cương Nhật Phổ Bạc dường như phải hạ quyết tâm rất lớn, cuối cùng mới cất tiếng: “Thôi được rồi, có một số thứ, vốn là tôi định mang theo xuống mộ, giờ thì… Cường Ba, tôi hỏi cậu, tám năm trước cậu đến đây đúng là vì Cương Lạp chứ?” Cương Lạp vừa nghe nhắc đến mình, vội mở mắt ra, dựng tai lên lắng nghe.

Trác Mộc Cường Ba nửa giận nửa cuống nói: “Anh hỏi thế là ý gì? Tám năm trước, đến cả Bạc Ba La là cái gì tôi còn chẳng biết nữa là!” Cương Nhật Phổ Bạc gật gật đầu: “Mọi người có biết Đạo quân Ánh sáng là gì không?”


1. Dặm (lý) Trung Quốc: bằng 0,5 km.

Tín ngưỡng của người Qua Ba.

Trác Mộc Cường Ba gật đầu, Cương Nhật cười khổ nói: “Đội quân mạnh nhất của vương triều Thổ Phồn, không ngờ lại không để lại ghi chép gì trong bất cứ văn thư lịch sử nào, khục khục, thật là khiến người ta không thể tin nổi phải không!” Nói tới đây, anh ta lại hỏi, “Các cậu biết được những gì về Đạo quân Ánh sáng rồi?”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn đội trưởng Hồ Dương, rồi kể đại khái một lượt những gì gã biết về Đạo quân Ánh sáng. Cương Nhật Phổ Bạc không ngừng gật đầu, sau đó nói: “Xem ra các cậu đã tốn rất nhiều công sức đấy, không ngờ khai quật được rất nhiều tư liệu như thế. Vậy còn bộ tộc Qua Ba thì sao, các cậu tìm hiểu đến đâu rồi?”

Trác Mộc Cường Ba sắp xếp lại các ý nghĩ trong đầu, rồi bắt đầu kể từ mười tám tiểu bang cư trú trong các động đã của Tượng Hùng, kể cho Cương Nhật Phổ Bạc những gì gã biết về Qua Ba tộc. Cương Nhật lặng lẽ lắng nghe, có lúc lại mỉm cười tỏ vẻ tán thưởng, đợi Trác Mộc Cường Ba nói hết, anh ta mới nói: “Có thể thu thập được nhiều thông tin hữu dụng như thế trong các câu chuyện thần thoại và những mảnh vụn của lịch sử, nhất định là các cậu đã phải trả giá rất lớn. Nhưng tôi có một nghi vấn, các cậu biết tương đối nhiều về lai lịch của bộ tộc Qua Ba, lịch sử quá độ thành Đạo quân Ánh sáng và cả phương thức sinh hoạt của họ, nhưng còn tín ngưỡng của họ, dường như không đề cập gì đến thì phải?” Trác Mộc Cường Ba ngập ngừng do dự, mặc dù gã nghe cha mình suy đoán về tín ngưỡng của Đạo quân Ánh sáng, nhưng gã không dám khẳng định, vì vậy nên cũng không nói ra.

“Tín ngưỡng?” Nhạc Dương ngờ vực hỏi, “Quân nhân chẳng phải là chỉ cần phục tùng mệnh lệnh thôi hay sao?”

Cương Nhật Phổ Bạc nói: “Chớ quên rằng, quân nhân trước tiên cũng là con người. Thời cổ đại, trên cao nguyên này có thể nói là người người đều có tín ngưỡng. Chẳng những vậy, tín ngưỡng của họ còn vô cùng kiên định, được khắc sâu vào linh hồn và xương cốt, bất cứ người nào cũng không thể thay đổi được, cả quân nhân cũng không ngoại lệ. Trong quân đội Thổ Phồn, có một chức trách chuyên biệt gọi là quân tân, chính là tế sư Bản giáo trong quân đội. Bói toán dự đoán hung cát, chiêu tập các vong hồn sau chiến trận, ngâm tụng để bình ổn lòng quân, đây chính là công việc của quân tân.”

Nhạc Dương gật gù nói: “Nói như vậy thì tín ngưỡng của Đạo quân Ánh sáng hồi đó là Bản giáo phải không?”

Cương Nhật Phổ Bạc nói: “Chính xác, lúc đó trong quân đội đa phần đều tin thờ Bản giáo, nhưng Đạo quân Ánh sáng thì… Có thể nói là phải, mà cũng có thể nói là không phải.”

“Có thể nói là phải, mà cũng có thể nói là không phải?” Nhạc Dương giật bắn mình rung động, kinh ngạc thốt lên, “Chẳng lẽ Đạo quân Ánh sáng ấy vừa tin thờ Bản giáo, lại cũng tin thờ cả Phật giáo nữa! Bọn họ theo một tín ngưỡng dung hợp nằm giữa hai tôn giáo này?”

Đây là lần đầu tiên Cương Nhật Phổ Bạc chú ý quan sát kỹ lưỡng anh chàng trông có vẻ vô ưu vô lo này. Cương Lạp cũng liếc mắt lên nhìn Nhạc Dương một cái, có điều thái độ ấy tỏ rõ sự dè bỉu coi thường. Cương Nhật lại nói tiếp: “Phản ứng nhanh lắm, xem ra các cậu cũng tìm hiểu được một số chuyện về mặt này rồi, có điều nói vậy cũng không hoàn toàn đúng. Bộ tộc Qua Ba đó, họ có tín ngưỡng của riêng mình, đó là một thứ tín ngưỡng mà chúng ta gọi là Vu giáo nguyên thủy.”

“Vu giáo nguyên thủy?” Nét mặt đội trưởng Hồ Dương và Trác Mộc Cường Ba trở nên chăm chú, đây là lần đầu tiên họ nghe thấy cách gọi như vậy.

Cương Nhật Phổ Bạc gật đầu: “Đúng thế, tín ngưỡng nảy sinh vào thuở nền văn minh của con người mới manh nha phát triển, núi non sông suối, sấm chớp mưa gió, thậm chí cả cây cỏ hoa lá, chim bay thú chạy cũng đều tôn làm thần linh hết, thứ gì cũng sùng bái, thứ gì cũng tôn kính. Cũng có thể coi thứ tôn giáo này như là hình thức sơ đẳng của Bản giáo, mãi cho tới sau này khi tổ sư Bản giáo Tân Nhiêu xuất thế, ông ta mới thống nhất và sắp xếp địa vị của các thần linh, hệ thống hóa, quy phạm hóa tôn giáo nguyên thủy ban đầu, Bản giáo về sau mới hình thành. Đương nhiên, cũng có người nói, Bản giáo là từ Ba Tư truyền vào Đại Thực(1), rồi sau đó mới từ Đại Thực truyền vào cao nguyên Thanh Tạng, nhưng giả thiết này lại thiếu chứng cứ xác thực, chỉ có thể nói là hai tín ngưỡng tương tự nhau mà thôi. Có điều theo quan điểm của tôi, người nguyên thủy đa phần đều sùng bái sông núi tự nhiên đương nhiên là phải tương tự nhau rồi.”

Nhạc Dương nói: “Nói vậy thì lịch sử của tộc Qua Ba ấy chẳng phải là vô cùng xa xưa hay sao?”

“Điều đó thì tất nhiên,” Cương Nhật Phổ Bạc nói. “Mười tám tiểu bang cư trú trong động nham thạch ở Tượng Hùng, đó đã là chuyện sau khi bộ tộc Qua Ba bị sa sút rồi. Từ thời trước khi Tượng Hùng lập nước, bộ tộc Qua Ba ấy đã từng tồn tại, đồng thời còn có một độ huy hoàng. Đương nhiên, trong các văn kiện lịch sử chúng ta không thể tìm được những tư liệu xa xưa như thế, vậy nhưng, trong các câu chuyện thần thoại thì vẫn còn sót lại vô số hình bóng của bộ tộc đó. Bộ tộc Qua Ba bọn họ có thần linh đặc biệt của riêng mình, bên cạnh đó có cả lãnh tụ tôn giáo nữa, có điều muốn nói cho rõ ràng, trước tiên phải bắt đầu từ lai lịch của họ đã. Trước khi bọn họ trở thành mười tám tiểu bang sống trong hang động nham thạch của vương triều Tượng Hùng, ngược dòng lịch sử về đến thời viễn cổ xa xưa, có thể truy đến khởi nguồn của tộc Tạng…”

Anh ta đưa mắt liếc sang Trác Mộc Cường Ba, nói tiếp: “Kể từ khi Ma nữ và khỉ sinh hạ đời sau… thời kỳ Tứ tộc, Cường Ba, cậu biết không?” Trác Mộc Cường Ba như đang ngẫm nghĩ gì đó, gật gật đầu, Cương Nhật Phổ Bạc cảm khái tiếp lời: “Tôi nghĩ, có lẽ đó cũng là thời kỳ huy hoàng nhất của bộ tộc Qua Ba…”

Nhạc Dương không hiểu hai người họ đang nói chuyện gì, liền lên tiếng hỏi: “Thời kỳ Tứ tộc là gì vậy?”

Trác Mộc Cường Ba đáp: “Mọi người đều biết Tây Tạng chúng tôi có một câu chuyện rất nổi tiếng về khởi nguyên của nhân loại, truyện kể rằng trong núi có một Ma nữ và một con khỉ khắt khao tu thành chính quả đã kết hợp với nhau, sinh hạ được sáu con khỉ con, sáu con khỉ này chính là tổ tiên xa xưa nhất của loài người. Về sau con cháu của chúng cứ sinh sôi nảy nở mỗi lúc một nhiều, cuối cùng đã thành bốn bộ lạc lớn, cũng chính là bốn dòng huyết thống lớn của người Tạng. Thời kỳ ấy, còn gọi là thời kỳ Tứ tộc, tựu trung là cách chúng ta bao nhiêu đời thì không rõ, e là còn xa xưa hơn cả thời kỳ Tam hoàng Ngũ đế mà ai ai cũng biết đó. Tôi trước nay vẫn nghĩ đó chỉ là một câu chuyện thần thoại mà thôi, có điều giờ nghĩ lại, tính chân thực của câu chuyện đó, sợ rằng cũng tương tự như truyền thuyết về Tam hoàng Ngũ đế vậy.”

Nhạc Dương hiểu ra, gật gù: “Cũng có nghĩa là, thời kỳ ấy đích thực có tồn tại, chỉ là một số người và sự vụ đã bị thần thoại hóa và phóng đại lên mà thôi.”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Không phải chứ, tôi còn nhớ trong các tư liệu hồi trước đọc thấy ghi là sáu con khỉ con ấy về sau thành sáu dân tộc, hơn nữa đến cả tên của các dân tộc ấy cũng không hề tương đồng. Tôi chỉ nhớ có một tộc Đảng thôi, chẳng hiểu đó có phải là tiên tổ của người Đảng Hạng không nữa.”

Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Tôi biết, điều anh vừa nói đó là nội dung chép trong điển tịch của Phật giáo, còn điều tôi nói là nội dung được nhắc đến trong cuốn kinh sách cổ ở nhà tôi cơ.”

Cương Nhật Phổ Bạc lại nói: “Theo những điều ghi chép trong sách cổ, bốn chủng người ở Tây Tạng lần lượt là Tư tộc, Mục tộc, Đồng tộc và Đông tộc. Từ thời kỳ đó bọn họ đã bắt đầu tin theo Vu giáo nguyên thủy, gọi thống lĩnh tối cao của bộ lạc là Bản Ba. Bản Ba có nghĩa là đại vu sư, là lãnh tụ tinh thần của người cổ đại. Cách xưng hô này vẫn còn giữ lại được đến giai đoạn trước khi các vương quốc mới nổi lên như Tượng Hùng, Thổ Phồn lập nước.”

Nhạc Dương không hiểu hỏi: “Đâu có nghe thấy tên Qua Ba tộc nhỉ, chuyện này thì có quan hệ gì với họ?”

Cương Nhật Phổ Bạc đáp: “Sau khi thời kỳ Tứ tộc kết thúc, dựa theo thần thoại truyền thuyết thì xuất hiện Mã Tang cửu tộc, sau đó chia tách thành hai mươi lăm tiểu bang, về sau lại thành mười hai tiểu bang, bốn mươi tiểu bang, có lẽ đấy là thời kỳ chiến loạn, xuất hiện vô số bộ tộc nhỏ chinh phạt lẫn nhau. Những tiểu bang này đều là các dân tộc và bộ lạc không lệ thuộc, trong nội bộ đã bắt đầu xuất hiện vương và thần, chẳng qua là cùng với sự đổi dời của lịch sử, tên tuổi của các chủng tộc ấy đều đã trôi đi hết cả rồi, không thể nhất nhất truy ngược về căn nguyên cội rễ được. Chúng ta chỉ có thể suy đoán, bộ tộc Qua Ba chính là hậu duệ của một trong bốn bộ tộc thời kỳ đầu, có lẽ là tiểu bang sót lại sau khi bộ tộc nào đó suy bại rồi giải thể, thuộc vào nhóm hai mươi lăm tiểu bang.”

Nhạc Dương thắc mắc: “Tại sao lại nói như vậy?”

Cương Nhật nói: “Bởi vì tín ngưỡng của họ, bộ tộc Qua Ba thờ phụng Tứ đại Vu vương kiệt xuất nhất trong lịch sử bốn bộ tộc, tên hiệu của bốn người này lần lượt là Đảng Bản Ba, Trại Bản Ba, Đông Bản Ba và Mạc Bản Ba. Tín ngưỡng này cùng với thói quen sống chung với sói của bộ tộc Qua Ba, có lẽ là đã có từ khi bộ tộc này ra đời hoặc thậm chí từ trước đó và kéo dài mãi cho đến ngày nay. Tương truyền năm xưa Tạng vương Tùng Tán Can Bố đổi tên bốn tòa Trấn Biên miếu thành Tứ phương miêu, chính là vì lựa theo tín ngưỡng của Đạo quân Ánh sáng đó. Về sau rất nhiều người Qua Ba gia nhập Đạo quân Ánh sáng để đáp ứng yêu cầu của chiến tranh, bọn họ lại chọn ra trong nhiều tôn giáo khác nhau một vị thần linh có sức phá hoại mạnh mẽ nhất để làm chiến thần cho mình, tiến Phạn gọi là Ma Hê Thủ La. Kỳ thực đó chính là Đại Tự Tại Thiên trong Phật giáo. Trong Ấn Độ giáo, Ma Hê Thủ La chính là thần hủy diệt Shiva. Ngài sở hữu sức mạnh có thể hủy diệt tất thảy, có thể thanh tẩy toàn bộ vũ trụ này, cho dù về sau được Phật giáo hấp nạp, ngài cũng sở hữu sức mạnh không thua gì Thích Ca Mâu Ni, một mình độc lập với các chư thiên thần Phật khác. Ngoài ra còn một điểm kỳ quái nữa, trước khi sở hữu chiến ngao, totem hay thần thú mà họ sùng bái không phải sói, mà là một sinh vật gần giống như rắn, tương truyền là hình dáng như rắn mà biết bay lượn. Tín ngưỡng này cũng tồn tại cả trong Bản giáo nữa, chính vì thế, khi con rồng ở Trung Nguyên truyền vào Tây Tạng, mới được người Tạng chấp nhận nhanh chóng.” Nói tới đây, Cương Nhật Phổ Bạc dừng lại giây lát, đoạn tiếp lời, “Những gì tôi biết về tín ngưỡng và lịch sử bộ tộc Qua Ba đại khái chỉ có vậy, xét cho cùng thì sự tồn tại của Đạo quân Ánh sáng và bộ tộc Qua Ba xưa na vẫn là một điều vô cùng thần bí.”

Ba người ngơ ngác nhìn nhau, phải tiêu hóa mất một lúc lâu, Nhạc Dương mới lên tiếng: “Xin, xin lỗi, tôi thấy hơi hồ đồ rồi, tên của Tứ đại Vu vương kia sao lại không hề giống bộ tộc của họ vậy? Còn, còn nữa, tín ngưỡng của bộ tộc Qua Ba không phải là tín ngưỡng dung hợp của Phật giáo và Bản giáo hay sao? Tại sao lại thành một tín ngưỡng hoàn toàn khác hẳn với hai tôn giáo kia nữa vậy?”

Cương Nhật Phổ Bạc nói: “Trước tiên, bốn danh xưng kia hoàn toàn không phải tên của Vu vương, chúng đơn giản chỉ là một danh hiệu tượng trưng thôi, ý tứ của những âm cổ này là gì thì chịu không ai biết được, nhưng theo tôi thì đại khái chắc cũng tương đương với những Trí tuệ Thiên vương, Uy vũ Thiên vương mà ngày nay chúng ta vẫn hay nói đó thôi. Có điều, tương truyền con cháu của bốn vị Vu vương đó về sau đã trực tiếp đổi họ tộc mình thành Đảng, Trại, Đông và Mạc, chuyện này có thật hay không thì cũng không biết được. Còn vấn đề tín ngưỡng của bộ tộc Qua Ba, vậy thì phải bắt đầu từ một chuyện khác, nói ra cũng dài lắm.

Cương Nhật Phổ Bạc nhổm người đứng lên, lại rót thêm một chén rượu nữa, ngửa miệng uống cạn: “Về thứ tín ngưỡng tôn giáo nằm giữa Phật giáo và Bản giáo này thì phải nói từ Tạng vương Tùng Tán Can Bố. Các cậu biết đấy, trước khi Phật giáo truyền vào đất Tây Tạng, cơ hồ tất cả các bộ lạc trên cao nguyên này đều tin thờ theo Bản giáo nguyên thủy. Đương nhiên, khi Bản giáo đã trải qua hơn nghìn năm phát triển, đã được hệ thống hóa một cách rất tỉ mỉ rồi. Nhưng Bản giáo có một đặc điểm đó chính là Đa thần luận, kế thừa đặc tính của Vu giáo nguyên thủy, vạn vật trên thế gian này đều có thần linh, hơn nữa những thần linh ấy đều độc lập tách rời, mỗi vị tự có lĩnh vực của riêng mình, mỗi vị quản hạt phạm trù của riêng mình, nếu giữa hai vị thần xảy ra xung đột, vậy thì sẽ đánh một trận, có thắng có thua, không có vị nào ngự trị vị nào, cũng không tồn tại vị nào có địa vị cao hơn hay thấp hơn vị khác cả. Chẳng những thế, thầy mo của Bản giáo đều hoàn toàn dựa vào lời tiên tri để quyết định đại sự của quốc gia. Ngày nay chúng ta đều đã biết những lời tiên tri bói toán ấy thiếu tính khoa học và hiệu quả thực tế, vì vậy, khi Tạng vương Tùng Tán Can Bố kế vị, ông đã quyết định thay đổi tất cả. Các cậu có biết rằng Tạng vương Tùng Tán Can Bố, vốn cũng là một giáo đồ của Bản giáo hay không?”

“A!” Nhạc Dương khẽ thốt lên một tiếng kinh ngạc. Ai mà không biết Tạng vương Tùng Tán Can Bố là hóa thân của Quan Âm Bồ Tát, có địa vị cực kỳ tôn quý trong Tạng truyền Phật giáo, giờ không ngờ Cương Nhật Phổ Bạc lại bảo ông là giáo đồ Bản giáo, quả thực khiến Nhạc Dương bị một phen kinh ngạc. Có điều, nhìn phản ứng của đội trưởng Hồ Dương và Cường Ba thiếu gia, đây rõ ràng là sự thật rồi.

Cương Nhật Phổ Bạc nói tiếp: “Tôn giáo ra đời, xưa nay vẫn là để an ủi tâm linh con người, nhưng một khi tôn giáo đã móc nối với chính trị, thì tác dụng hàng đầu của nó là trở thành công cụ của tầng lớp thống trị. Bất kể là tôn giáo nào đi chăng nữa, trong mắt kẻ thống trị, chỉ cần nó khiến trăm họ trở nên dễ dàng chấp nhận sự thống trị của y hơn, thì đó chính là tôn giáo tốt, ngược lại, thì nó chính là hòn đá cản đường của kẻ thống trị. Đa thần luận và cơ chế mang chuyện quốc gia đại sự ra hỏi trời hiển nhiên là bất lợi cho hệ thống thống trị, vì vậy nửa đời trước của Tạng vương Tùng Tán Can Bố là một giáo đồ Bản giáo, việc này không có sai, nhưng ông đã nhanh chóng phát hiện ra rằng, những vu sư Bản giáo kia cứ đem quốc gia đại sự giao cho ông trời quyết định đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự thống trị của mình. Điều ông ta cần là trung ương tập quyền, quốc gia đại sự do ông ta quyết định, chứ không cần dựa vào trời xanh kia làm gì cả, bởi thế, cải cách ở trong tư thế buộc phải tiến hành! Mà Phật tổ của Phật giáo khi đản sinh đã thốt ra một câu: Thiên thượng địa hạ, bát hoang lục hợp, cổ vãng kim lai, duy ngã độc tôn, mười sáu chữ chân ngôn này rõ ràng là vô cùng thích hợp với kẻ thống trị. Kỳ thực, từ trước khi Tùng Tán Can Bố phát triển Phật giáo, Phật giáo đã truyền đén Tây Tạng từ lâu rồi, do Bản giáo bài xích một cách mạnh mẽ nên cơ bản không có đất đứng chân. Phải biết là, muốn khiến người ta thay đổi tín ngưỡng hơn nghìn năm để đi tin thờ một tôn giáo khác, ấy là một quá trình vô cùng gian nan, ngoại trừ Tạng vương Tùng Tán Can Bố ra, thật sự chưa có nhà thống trị nào dám giở chiêu này cả. Để thực hiện ý đồ đó, Tạng vương Tùng Tán Can Bố đã làm rất nhiều việc, thông qua hôn nhân để dẫn tiến Phật giáo, ban bố một loạt pháp lệnh và điều lệ mở ra cánh cửa cho các tăng lữ hoạt động, chế định và ra các chính sách ưu đãi cho người tín thờ Phật giáo…

Nhạc Dương chau mày, những chuyện này hình như không liên quan gì đến bộ tộc Qua Ba cả. Chỉ nghe Cương Nhật Phổ Bạc tiếp tục nói: “Có điều lúc đó áp lực mà Tạng vương Tùng Tán Can Bố phải đối mặt, chỉ sộ còn lớn hơn trong tưởng tượng của chúng ta rất nhiều. Muốn để dân chúng chấp nhận một tôn giáo mới, trước tiên phải bắt đầu từ bản thân mình, từ các quan tước đại thần bên cạnh, mà hoàn cảnh lúc ấy, trên từ quan viên quý tộc, dưới đến dân chúng nông nô ai nấy đều là những tín đồ Bản giáo hết sức trung thành, trong triều ngoài nội đâu đâu cũng có tiếng phản đối. Có điều, điều này không làm Tạng vương lo lắng, điều khiến ông thực sự lo lắng là quân đội, vào thời điểm đó, binh sĩ trong quân đội cũng hoàn toàn là tín đồ Bản giáo, nếu binh sĩ nổi dậy, đảo ngũ, phản kháng, ám sát, thì hậu quả đó thực không thể tưởng tượng nổi. Vì thế, từ rất lâu trước đó, Tạng vương đã phải chuẩn bị chu toàn.”

Lúc này, ba chữ “Qua Ba tộc” đã xuất hiện trong đầu bọn Trác Mộc Cường Ba rồi. Quả nhiên, Cương Nhật Phổ Bạc nói: “Giờ thì các cậu đã hiểu tại sao Tạng vương Tùng Tán Can Bố không chọn lựa người tộc khác mà cứ chấp ý huấn luyện người Qua Ba thành Đạo quân Ánh sáng rồi chứ. Chính vì tín ngưỡng của bọn họ khác với tất cả các dân tộc khác trên đất Tạng, chỉ cần không xúc phạm đến hạt tâm tín ngưỡng của họ, cũng chính là địa vị của Tứ đại Vu vương, còn lại bất kể là Niên, Tán, Ma của Bản giáo hay Thích Ca Mâu Ni của Phật giáo hoặc Đại Nhật Như Lai của Mật giáo, bọn họ đều có thể tin thờ mà không hề có bất cứ xung đột gì với tín ngưỡng nguyên thủy của họ hết. Vì vậy mà từ đó trở đi, Đạo quân Ánh sáng luôn đảm nhiệm chức vụ thân vệ hoàng gia, thực lực của họ là mạnh mẽ nhất, đồng thời tính bao dung trong tín ngưỡng của họ cũng là mạnh mẽ nhất.”

Nhạc Dương không hiểu hỏi: “Như thế tại sao, về sau bọn họ lại theo cả Phật giáo lẫn Bản giáo thế?”

Cương Nhật Phổ Bạc đáp: “Nói chuyện này thì không thể không nhắc đến cuộc chiến giữa Phật giáo và Bản giáo. Chắc các cậu cũng biết, Phật giáo và Bản giáo đã tranh đấu mấy trăm năm trên cao nguyên, có thể nói là từ khi Tạng vương Tùng Tán Can Bố chính thức đưa Phật giáo vào Tây Tạng, đến khi vương triều Thổ Phồn diệt vong sụp đổ, cuộc tranh đấu giữa hai tôn giáo lớn này vẫn chưa từng gián đoạn bao giờ. Tại sao lại như vậy? Bởi vì Bản giáo nguyên thủy không chỉ khác biệt Phật giáo về tín ngưỡng, mà quan trọng hơn nữa là, lợi ích của vô số quý tộc đại thần liên quan mật thiết đến Bản giáo, thông qua hình thức bói toán và các nghi thức của Bản giáo nguyên thủy, bọn họ có thể giành được quyền phát ngôn đối với một số chuyện lớn của quốc gia, nhưng từ sau khi Phật giáo tiến vào cung đình, những vị đại thần ấy đã mất đi địa vị chủ đạo trong các quyết sách quan trọng và cả việc phân chia lợi ích nữa. Tạng vương Tùng Tán Can Bố là bậc kỳ tài khoáng thế, khi ông ta còn tại vị tất nhiên là không ai dám phản đối, nhưng sau khi ông ta qua đời không được bao lâu, đám đại thần được lợi ích từ Bản giáo kia bắt đầu ủng hộ Bản giáo trở lại. Nhìn bề ngoài, thời kỳ vương triều Thổ Phồn là thời kỳ Phật giáo và Bản giáo tranh đấu giành ảnh hưởng, còn trên thực tế, đây là cuộc tranh đoạt quyền lực giữa hoàng gia và các đại thần nắm giữ quyền bính trong tay mà thôi! Mấy trăm năm trở về sau, dưới ảnh hưởng của các đại thần, một số quân vương tín thờ Bản giáo, một số vị khác lại kiên trì Phật giáo, cứ như vậy lặp đi lặp lại không ngừng, trong lịch sử đã xảy ra không biết bao nhiêu lần thượng tôn Phật giáo, đè nén Bản giáo và ngược lại, thậm chí còn có vô số lần xảy ra xung đột đẫm máu. Chỉ có điều đời Tạng vương cuối cùng, Lãng Đạt Mã là triệt để nhất, hậu quả cũng nghiêm trọng nhất, trực tiếp khiến vương triều sụp đổ, vì vậy nên mới được người ta biết đến nhiều nhất. Mà trong thời kỳ ấy, Đạo quân Ánh sáng do bộ tộc Qua Ba cấu thành là quân cận vệ của Tạng vương, tức là đội quân trực thuộc gần với Tạng vương nhất, tín ngưỡng của họ cũng không thể không thay đổi tùy theo tín ngưỡng của các vị Tạng vương mà họ phục vụ. Bởi thế mà về sau này, tín ngưỡng của họ trở thành một mô thức cực kỳ quái dị, có thể chứa đựng hòa trộn hai thứ tôn giáo vốn hoàn toàn xa lạ là Bản giáo và Phật giáo vào làm một. Cũng chỉ có như vậy, kẻ nắm quyền cao nhất mới có thể yên tâm để bọn họ phụ trách công tác bảo vệ an toàn cho mình. Và Đạo quân Ánh sáng ấy cũng chưa một lần nào khiến các vị Tạng vương phải thất vọng cả.”

Nhạc Dương nói: “Không phải đâu, trong lịch sử Thổ Phồn vẫn xảy ra rất nhiều sự kiện ám sát mà.”

Cương Nhật Phổ Bạc nói: “Đạo quân Ánh sáng chỉ phụ trách cảnh giới vòng ngoài, đề phòng thích khách ám sát khi Tạng vương xuất tuần bên ngoài, còn đối với các âm mưu tranh đấu trong nội bộ cung đình thì bọn họ không làm gì được. Nguyên nhân cái chết của chủ nhân cao nguyên Tùng Tán Can Bố cho đến nay vẫn hết sức li kỳ, bí hiểm, cậu không thể nói là Đạo quân Ánh sáng đã không tận hết chức trách của mình được. Trên thực tế nếu tra kỹ lại lịch sử Thổ Phồn, các cậu sẽ thấy chỉ có Tạng vương Lãng Đạt Mã chết vì bị thích khách ám sát ở nơi công cộng, còn các vị Tạng vương bất ngờ tử vong khác đều chết bất minh vì những tranh đấu trong cung đình cả.”

Nhạc Dương lẩm bẩm nói một mình: “Như vậy thì bộ tộc Qua Ba và Tạng vương dường như không có mâu thuẫn gì lớn lắm, vậy tại sao bọn họ lại đột nhiên bỏ đi, đồng thời còn mang theo cả toàn bộ báu vật cất giấu trong Tứ Phương miếu nhỉ?”

Nét mặt Cương Nhật Phổ Bạc lộ vẻ bi phẫn, thở dài, nói: “Không biết nữa, đây chính là câu đố lớn nhất mà Đạo quân Ánh sáng để lại cho đời sau. Chẳng ai ngờ được, Đạo quân Ánh sáng mạnh nhất vương triều Thổ Phồn lại biến mất như bóng chim tăm cá chỉ trong có một đêm, nhất định là bọn họ đã lên kế hoạch xong xuôi từ rất lâu rồi. Nhưng rốt cuộc là đã xảy ra sự kiện gì khiến họ làm vậy thì không ai biết cả. Tôi chỉ biết có tin đồn rằng, ấy là bởi Tạng vương diệt Phật quá đỗi triệt để, đến cả Đạo quân Ánh sáng cũng không thể nhẫn nhịn được nữa; ngoài ra còn một thuyết khác nói đây là cuộc tranh đấu giữa hai gia tộc lớn, Nương thị và Vi thị, dù sao thì người của cả hai đại gia tộc này đều đã từng nắm giữ chức vụ chỉ huy cao nhất của Đạo quân Ánh sáng. Nhưng những ý kiến này đều thiếu chứng cứ xác thực, không đủ tin, không đủ tin đâu…” Nói tới đây, anh ta lộ vẻ mệt mỏi chán chường, ánh mắt toát lên nỗi cô đơn quạnh quẽ.

Thông tin của Cương Nhật Phổ Bạc cung cấp khiến Nhạc Dương chìm sâu vào suy tư, anh đang gắng sức tìm cách liên hệ Đảo Huyền Không tự và Đạo quân Ánh sáng đã mất tích kia lại với nhau, đồng thời lờ mờ cảm thấy tất cả các sự kiện độc lập tựa như những mảnh ghép hình bị xáo loạn lên, chỉ cần tìm được trình tự xảy ra của chúng sẽ ghép lại được một bức tranh hoàn chỉnh. Nhưng cố gắng mãi, cuối cùng cũng đành phải chịu bỏ cuộc vì không đủ đầu mối, bức tranh ghép vẫn còn thiếu một số mảnh quan trọng, anh chỉ biết lắc đầu bất lực.

Lúc này, Cương Nhật Phổ Bạc lại quay sang nói với Trác Mộc Cường Ba: “Phải rồi, còn một đầu mối nữa có lẽ sẽ giúp ích được cho các cậu ít nhiều. Cường Ba ạ, còn nhớ lần đầu tiên cậu đến đây, đã kể cho tôi nghe câu chuyện chín chó một ngao đó không? Chính là chuyện đào một cái hố, vứt bọn ngao con mới sinh xuống đó ấy.”

Trác Mộc Cường Ba gật đầu. Đây là nội dung giáo sư Phương Tân đã giảng giải trong buổi học đầu tiên ông dạy gã, đồng thời cũng là câu chuyện gã thường được nghe từ thuở nhỏ. Gã cũng thường đem câu chuyện này kể cho các bạn bè của mình, nhưng còn lần đó…

Cương Nhật Phổ Bạc lại tiếp lời: “Lần đó tôi đã cười nhạo cậu, còn nhớ không hả?” Đương nhiên là Trác Mộc Cường Ba không quên, lần ấy khi gã kể câu chuyện này cho Cương Nhật, vẻ mặt anh ta như thể cười mà không phải cười, tựa như đang chế giễu Trác Mộc Cường Ba gã đánh trống qua cửa nhà sấm, về sau gã hỏi Cương Nhật Phổ Bạc tại sao lại cười, anh ta chỉ đáp: “Không có gì, câu chuyện hay lắm, chân thực lắm, tôi từng nghe rồi.” Nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn cứ có cảm giác dường như Cương Nhật còn có điều gì đó chưa nói ra hết.

Lúc này, Cương Nhật Phổ Bạc mới nói: “Bởi vì lúc đó, cậu chỉ biết có việc ấy chứ không biết việc ấy sở dĩ do đâu. Bây giờ, thì chắc cậu biết phương pháp huấn luyện chín chó một ngao ấy là ở đâu ra rồi chứ?”

Trác Mộc Cường Ba giật thót mình, kinh ngạc thốt lên: “Đạo quân Ánh sáng! Chiến ngao! Đó là phương pháp huấn luyện chiến ngao!” Đến lúc này gã mới hiểu ra, tại sao lần đó Cương Nhật Phổ Bạc muốn nói rồi lại thôi, lúc đó gã căn bản chẳng hề biết Đạo quân Ánh sáng là gì, chỉ sợ cho dù anh ta có nói ra, gã cũng chưa chắc đã tin, cứ mình mình ở đó mà ba hoa xích thố, trong mắt Cương Nhật Phổ Bạc sợ rằng chẳng khác nào loại ếch dưới đáy giếng cả.


(1). Đại Thực: Đế quốc Ả rập (632 – 1258), vương triều phong kiến do người Hồi giáo sáng lập nên trên bán đảo Ả rập. Trong các giáo trình lịch sử Trung Quốc từ thời Đường như Kinh hành ký, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tống sử, Liêu sử… đều gọi là Đại Thực quốc (theo âm Tazi hay Taziks trong tiếng Ba Tư).

Bạn đang đọc Mật Mã Tây Tạng của Hà Mã
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 83

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.