Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

Chương 45 - 46

Phiên bản Dịch · 5127 chữ

Chương 45

Nghĩa Địa Khổng Lồ

Cuộc gặp gỡ ấy, cách nói ấy, việc thuật lại lịch sử chiếc tàu yêu nước ấy được bắt đầu một cách lạnh lùng, nhưng càng về cuối càng có vẻ xúc động, vả lại bản thân cái tên "Báo thù" được Nê-mô nhấn mạnh

-tất cả những điều đó đã khắc sâu trong lòng tôi. Tôi đăm đăm nhìn thuyền trưởng. Nê-mô giơ tay ra phía biển và nhìn những tàn tích của chiếc tàu vinh quang ấy bằng đôi mắt rực lửa. Có lẽ tôi sẽ không biết được ông ta là ai, từ đâu đến, đang đi đâu, nhưng càng ngày tôi càng thấy rõ con người thực sự của Nê-mô đang xuất hiện và che khuất con người bác học của ông ta. Không, không phải sự chán đời hèn kém, mà là lòng căm thù rất sâu sắc và cao cả mà thời gian không thể làm nguôi, đã đẩy thuyền trưởng Nê-mô và các bạn ông xuống tàu Nau-ti-lúx. Nhưng lòng căm thù đó có tìm thời cơ để thể hiện một cách hiệu quả không? Điều này đã được chứng minh ngay sau đó. Tàu Nau-ti-lúx bắt đầu nổi dần lên mặt biển. Hình dáng tàu "Báo thù" ngày càng mờ nhạt trước mắt tôi. Cuối cùng, một cái lắc nhẹ cho biết là tàu đã tiếp xúc với không khí trong lành. Lúc đó tôi nghe thấy một tiếng súng lớn nổ. Tôi đưa mắt nhìn Nê-mô, Nê-mô vẫn đứng không nhúc nhích.

-Thuyền trưởng!

-Tôi gọi. Nê-mô không trả lời. Tôi bỏ lên boong. Nét, Công-xây đã tới đó trước rồi.

-Tiếng súng đó từ đâu bắn tới?

-Tôi hỏi. Nhìn chiếc tàu hơi nước, tôi thấy nó đang tăng tốc độ tiến gần chúng tôi. Hai tàu còn cách nhau sáu hải lý.

-Tiếng đại bác đó, -Nét trả lời.

-Tàu ấy là tàu nào, ông Nét?

-Xét về thiết bị và cột buồm thấp, tôi cam đoan đây là tàu chiến. Cứ để nó đến gần và nếu cần thì đánh đắm luôn chiếc tàu Nau-ti-lúx đáng quyền rủa này đi.

-ông bạn Nét ơi, -Công-xây mỉa mai, -nó làm gì nổi tàu Nau-ti-lúx, hả ông? Liệu nó có thể tiến công dưới mặt biển không, có bắn được từ dưới đáy biển không?

-ông có xác định được đó là tàu nước nào không, ông Nét?

-Tôi hỏi. Nét nhíu mày, nheo mắt tập trung nhìn thật kỹ chiếc tàu:

-Thưa giáo sư không thể xác định được, vì tàu không treo cờ. Tôi chỉ có thể khẳng định được đó là tàu chiến vì trên cột buồm chính có một lá cờ đuôi nheo dài. Chúng tôi theo dõi chiếc tàu đã được mười lăm phút. Nó đang tiến thẳng về chúng tôi. Tôi tin rằng ở một khoảng cách như vậy nó không thể thấy rõ tàu Nau-ti-lúx, càng không thể hiểu tàu Nau-ti-lúx là loại tàu gì. Một lát sau, Nét bảo cho tôi biết đó là một tàu chiến có mũi nhọn và boong bọc thép. Hai ống khói của nó nhả khói đen thẫm. Khoảng cách giữa hai tàu không cho phép xác định được màu của lá cờ đuôi nheo. Chiếc tàu đó đang băng mình về phía trước. Nếu thuyền trưởng Nê-mô cho nó lại gần thì chúng tôi sẽ có khả năng trốn thoát. Nét bảo tôi:

-Thưa giáo sư, nếu tàu kia đến cách chúng ta một hải lý, tôi sẽ nhảy xuống biển. Xin ngài cũng nhảy xuống theo tôi. Tôi không trả lời đề nghị của Nét mà tiếp tục quan sát con tàu đang lớn dần trước mắt tôi. Dù nó là tàu Anh, tàu Mỹ, tàu Pháp, tàu Nga, chắc chắn nó sẽ vớt chúng ta lên nếu ta bơi được tới mạn tàu. Nét nói:

-Thưa giáo sư, xin ngài nhớ rằng tôi cũng biết bơi đôi chút. Nếu ngài đồng ý đi theo Nét này, thì ngài có thể giao phó cho anh ta nhiệm vụ dìu ngài cùng bơi theo. Tôi vừa định trả lời Nét, thì thấy một làn khói trắng phụt ra từ phía mũi con tàu kia. Mấy giây sau, viên đạn đại bác rơi xuống làm nước biển tung tóe lên đuôi tàu Nau-ti-lúx. Liền sau đó tiếng súng nổ vọng đến tai tôi.

-Sao? Họ bắn chúng ta à?

-Tôi sửng sốt.

-Khá lắm!

Nét vừa nói xong thì phát đạn thứ hai nổ... Tôi nhớ lại, ngay khi tàu Lin-côn giáp chiến, khi Nét phóng lao vào con "cá thiết hình", thì thuyền trưởng Pha- ra-gút đã hiểu rằng con "cá" này chẳng qua là một chiếc tàu ngầm, nhưng nguy hiểm hơn rất nhiều. Chắc là vì vậy mà giờ đây trên khắp các mặt biển, người ta đang tìm diệt con cá có sức phá hoại khủng khiếp này. Trên thực tế, nếu thuyền trưởng Nê-mô dùng tàu Nau-ti-lúx để trả thù, thì nó quả là một công cụ đáng sợ! ở ấn Độ Dương đêm nọ, Nê-mô nhốt chúng tôi trong phòng kín, phải chăng đó là lúc ông ta tấn công một chiếc tàu nào đó? Và người thủy thủ được chôn cất ở nghĩa trang san hô, phải chăng là nạn nhân của trận tấn công đó? Đúng, chắc là như vậy thôi! Một phần nhỏ của cuộc đời bí ẩn của thuyền trưởng Nê-mô đã sáng tỏ. Mặc dù lai lịch ông ta chưa được xác định, nhưng chính phủ các nước đã hợp sức lại để tìm diệt một con người luôn đe dọa họ bằng lòng căm thù không đội trời chung! Tất cả quá khứ hãi hùng đó lại hiện ra trước mắt tôi. Đáng lẽ những người trên chiếc tàu chiến đang tiến đến kia là bạn chúng tôi, nhưng họ lại thành kẻ thù của chúng tôi. Trong lúc đó, đạn súng lớn ngày càng rơi nhiều xuống quanh tàu Nau-ti-lúx, nhưng chẳng viên nào rơi trúng tàu. Chiếc tàu chiến chỉ còn cách chúng tôi ba hải lý. Tuy bị bắn dữ dội, thuyền trưởng Nê-mô vẫn không xuất hiện trên boong. Chỉ cần một viên đạn đại bác đâm thẳng xuống thân tàu nguy khốn ngay. Nét bảo tôi:

-Ta phải làm mọi việc để thoát ra khỏi tình trạng tồi tệ này. Ta ra hiệu cho chiếc tàu chiến đi! Có lẽ họ sẽ hiểu chúng ta là những người lương thiện! Nét rút khăn tay ra vẫy. Nhưng vừa giở khăn ra thì anh ta đã bị một bàn tay sắt đánh ngã quỵ xuống sàn tàu.

-Đồ khốn kiếp!

-Thuyền trưởng quát lớn.

-Mi muốn ta cột mi vào mũi tàu trước khi diệt chiếc tàu kia à! Nghe Nê-mô nói thật đáng sợ, nhưng nhìn ông ta còn sợ hơn. Mặt Nê-mô trắng bệch ra vì tim bị co thắt lại và chắc ngừng đập trong giây lát. Con ngươi mở hết sức to. ông ta gầm lên chứ không phải là nói. Nê-mô cúi xuống người Nét, lắc lắc vai anh ta, rồi bỏ Nét nằm đó, quay về phía chiếc tàu chiến đang bắn như mưa xuống tàu Nau-ti-lúx. Nê-mô hét lên giọng sang sảng:

-A ha! Chiếc tàu của cái quyền lực đáng nguyền rủa kia! Mi sẽ biết ta là ai! Còn ta, ta chẳng cần thấy sắc cờ của mi mới biết mi là ai! Mi hãy nhìn đây! Ta sẽ cho xem sắc cờ của ta! Thuyền trưởng Nê-mô liền phất cao lá cờ đen, giống hệt lá cờ ông ta đã cắm ở Nam cực. Lúc đó, một viên đạn súng lớn rơi sạt thân tàu Nau-ti-lúx nhưng không gây hại gì. Nó lia qua chỗ thuyền trưởng đứng rồi rơi tõm xuống biển. Nê-mô chỉ nhún vai. Sau đó, ông ta bảo tôi:

-Ngài và các bạn của ngài xuống tàu ngay!

-Thưa thuyền trưởng, ngài sắp đánh chiếc tàu kia sao?

-Tôi sẽ đánh chìm nó!

-Ngài không được làm thế!

-Tôi sẽ làm, -Nê-mô lạnh lùng trả lời.

-Tôi khuyên ngài, đừng lên án tôi. Số phận đã cho ngài được thấy những điều lẽ ra ngài không thể thấy được. Chúng đã tấn công tôi. Đòn giáng trả sẽ khủng khiếp. Ngài xuống đi!

-Thế tàu đó của nước nào?

-Ngài không biết ư? Càng tốt! ít nhất quốc tịch của nó cũng sẽ là một điều bí mật đối với ngài. Thôi, ngài xuống đi! Tôi, Nét và Công-xây chỉ còn biết tuân theo lệnh đó. Mười lăm thủy thủ vây quanh thuyền trưởng và nhìn chiếc tàu đang đến gần một cách hết sức căm thù. Tôi đang bước xuống thang thì một quả đạn nữa rơi sượt thân tàu Nau-ti-lúx. Có tiếng thuyền trưởng Nê-mô hét to:

-Chiếc tàu điên dại kia, mi cứ bắn đi! Bắn cho hết đạn đi! Mi sẽ không thoát khỏi mũi tàu Nau-ti-lúx này đâu! Nhưng mi sẽ không được chết ở chỗ này! Ta không muốn xác mi nằm lẫn với xác tàu "Báo thù" anh hùng!

Tôi quay xuống phòng riêng, còn Nê-mô và viên thuyền phó thì ở lại trên boong. Chân vịt bắt đầu quay. Tàu Nau-ti-lúx nhanh chóng chạy ra ngoài tầm bắn của chiếc tàu chiến. Cuộc dượt đuổi tiếp tục, nhưng Nê-mô giữ cho hai con tàu cách nhau một khoảng cách nhất định. Khoảng gần bốn giờ chiều, tôi nóng ruột quá nên quay lại cầu thang trung tâm. Nắp tàu để ngỏ. Tôi đánh bạo trèo lên. Thuyền trưởng vừa đi đi lại lại trên boong vừa nhìn chiếc tàu chiến cách đó độ năm, sáu hải lý. Nê-mô cho tàu lượn quanh chiếc tàu chiến như một con thú dữ, nhử nó dượt theo về hướng đông. Nhưng Nê-mô không tấn công. Có lẽ ông ta còn lưỡng lự chưa quyết định. Tôi muốn khuyên can Nê-mô một lần nữa. Nhưng tôi vừa cất tiếng thì ông ta bắt tôi phải im.

-Chính tôi là pháp luật, là tòa án!-Nê-mô nói.

-Tôi là người bị áp bức, còn kia là kẻ áp bức tôi! Chúng đã tước đoạt của tôi tất cả những gì tôi yêu quí trìu mến và tôn thờ: Tổ quốc, vợ con, cha mẹ! Tất cả những gì tôi căm thù đang ở kia! Ngài im đi! Tôi nhìn chiếc tàu chiến lần cuối cùng. Nó đang tăng tốc độ. Sau đó, tôi xuống phòng khách. Tôi bảo Nét và Công-xây:

-Ta trốn đi thôi!

-Ta trốn!-Nét nói.

-Tàu nước nào vậy?

-Tôi không rõ. Nhưng tàu nước nào thì cũng bị đánh đắm trước đêm nay! Dù sao, thà hy sinh cùng với nó còn hơn là làm những kẻ đồng lõa trong việc trả thù này mà ta chưa biết có chính đáng không.

-Tôi cũng nghĩ vậy, -Nét trả lời.

-Ta hãy đợi đêm nay.

Đêm đã tới. Trên tàu Nau-ti-lúx im lặng như tờ. Địa bàn cho biết tàu không đổi hướng đi. Tôi thấy tiếng chân vịt quay nhanh và nhịp nhàng trong nước biển. Tàu chạy trên mặt nước, thân tàu hơi lắc. Ba chúng tôi quyết định sẽ bỏ trốn khi chiếc tàu chiến đến thật gần và có thể nghe thấy tiếng hoặc trông thấy chúng tôi nhờ trăng sắp tròn chiếu sáng vằng vặc. Khi đã lên được tàu chiến, nếu không kịp báo trước cuộc tấn công đang đe dọa nó, thì chúng tôi sẽ cố gắng làm tất cả những gì mà hoàn cảnh cho phép. Đã mấy lần tôi tưởng tàu Nau-ti-lúx chuẩn bị chiến đấu. Nhưng không, nó chỉ nhử cho đối thủ tới gần rồi lại bỏ chạy. Một phần đêm đã trôi qua mà chưa xảy ra chuyện gì. Chúng tôi chờ đợi thời cơ chạy trốn. Nét Len muốn lao ngay xuống biển. Tôi buộc anh ta phải nán thêm một chút. Theo tôi, tàu Nau-ti-lúx sẽ tấn công chiếc tàu kia trên mặt biển. Nếu vậy, việc chạy trốn của chúng tôi sẽ dễ dàng hơn. Đến ba giờ sáng, tôi bồn chồn trèo lên boong. Thuyền trưởng Nê-mô vẫn ở đó. ông ta đứng cạnh lá cờ đang bay trong làn gió nhẹ, mắt không rời khỏi chiếc tàu chiến. Mặt trăng đang đi qua kinh tuyến. Sao Mộc xuất hiện ở phía đông. Trong cảnh thiên nhiên tịch mịch đó, bầu trời và biển cả ganh đua nhau về sự phẳng lặng. Mặt biển cho những vì sao đêm soi bóng xuống tấm gương tuyệt vời. Chiếc tàu chiến còn cách chúng tôi hai hải lý. Nó vẫn dõi theo ánh sáng lấp lánh của tàu Nau-ti-lúx mà lướt tới. Tôi đã nhìn thấy ánh đèn tín hiệu xanh đỏ và chiếc đèn treo trên cột buồm. Tôi đứng trên boong trước sáu giờ sáng, nhưng thuyền trưởng Nê-mô làm ra vẻ không chú ý gì đến tôi. Chiếc tàu kia còn cách chúng tôi một hải lý rưỡi. Nó nổ súng ngay khi vừa hửng sáng. Đã tới lúc tàu Nau-ti-lúx tấn công. Tôi và các bạn tôi sẽ vĩnh biệt con người mà bản thân tôi không muốn lên án. Tôi định xuống dưới tàu để báo cho Nét và Công-xây biết, thì viên thuyền phó và mấy thủy thủ nữa lên boong. Họ tự động làm những việc cần thiết, có thể gọi là "chuẩn bị chiến đấu". Những việc đó rất đơn giản. Lan can bằng sắt bao quanh boong được hạ xuống. Đèn pha và phòng hoa tiêu cũng được đưa vào trong thân tàu. Giờ đây mặt ngoài chiếc xì gà bằng thép dài này chẳng còn một chỗ nào lồi ra có thể gây trở ngại khủng khiếp cho trận đánh. Ngày mùng 2 tháng 6 khủng khiếp đã tới. Năm giờ sáng, tàu Nau-ti-lúx giảm tốc độ. Tôi hiểu rằng nó đang để đối thủ lại gần. Tiếng súng bắn nghe rõ hơn nhiều . Đạn pháo rít lên quanh tàu Nau-ti-lúx rồi rơi xuống biển. Tôi nói:

-Các bạn, chúng ta sẽ hiệp sức cùng nhau, và cầu mong thượng đế che chở!

Nét Len rất quyết tâm. Công-xây vẫn bình thản, còn tôi thì hết sức bồn chồn. Chúng tôi sang thư viện. Nhưng khi mở cửa thông sang cầu thang trung tâm, tôi nghe thấy tiếng nắp tàu đóng sập xuống. Nét lao đến bậc thang, nhưng tôi ngăn anh ta lại. Tiếng rít rất quen thuộc báo hiệu nước bắt đầu chảy vào các bể chứa. Mấy phút sau, tàu Nau-ti-lúx lặn xuống dưới mặt biển mấy mét. Tôi hiểu cách đánh của nó rồi. Nó đã từ bỏ ý định tấn công vào chỗ bọc thép của đối thủ mà chuẩn bị đánh vào phần dưới mực nước là chỗ vỏ tàu không được bọc thép. Chúng tôi lại bị nhốt và trở thành những người chứng kiến bất đắc dĩ của tấm thảm kịch sắp nổ ra. Vả lại, chúng tôi cũng chẳng có thì giờ để suy nghĩ nhiều về chuyện đó. Cả ba người tập trung ở phòng tôi và chỉ nhìn nhau, không nói một lời. Đầu óc tôi mụ hẳn đi. Tôi chẳng làm được việc gì nữa. Tôi khắc khoải đợi chờ giây phút sắp có tiếng nổ khủng khiếp. Trong khi đó, tốc độ tàu Nau- ti-lúx tăng lên rõ rệt. Nó đang lấy đà. Toàn thân nó rung lên. Tôi bỗng kêu to: tàu Nau-ti-lúx đã đánh! Tôi cảm thấy mũi tàu bằng thép nhọn xuyên qua thân chiếc tàu chiến, nhẹ nhàng như chiếc kim khâu xuyên qua tấm vải buồm. Tôi không tự kiềm chế được nữa. Tôi phát điên lên, lao ra khỏi phòng rồi sang phòng khách. Thuyền trưởng Nê-mô đứng đó, im lìm, trầm lặng, và nhìn qua ô cửa kính bên phải tàu. Chiếc tàu chiến đồ sộ chìm xuống đại dương. Tàu Nau-ti-lúx cũng lặn xuống theo để quan sát kỹ từng phút cảnh hấp hối đó. Cách tôi mười mét, đuôi chiếc tàu chiến bị vỡ, nước đang ào ào chảy vào.

Trên boong tàu, từng đám người nhốn nháo như những bóng ma. Nước ngày càng dâng cao. Những người bất hạnh trèo lên bấu víu vào cột buồm, giãy giụa trong nước. Thật giống một tổ kiến bỗng dưng bị đổ đầy nước. Tôi đờ đẫn ra vì đau khổ, tóc tôi dựng ngược lên, mắt tôi muốn nổ ra, hơi thở bị tắc lại! Chiếc tàu to lớn từ từ chìm xuống. Tàu Nau-ti-lúx vẫn lặn theo. Bỗng có một tiếng nổ lớn. Không khí bị nén lại đã phá tung boong tàu, tựa như có ai vừa đốt kho thuốc súng. Nước xô mạnh đến nỗi hất cả tàu Nau-ti-lúx đi. Từ đây, chiếc tàu chiến bất hạnh bắt đầu chìm nhanh xuống đáy cùng với toàn bộ thủy thủ. Tôi quay lại nhìn thuyền trưởng Nê-mô. Người quan tòa đáng sợ ấy không rời khỏi chiếc tàu đang đắm. Khi mọi việc đã xong, Nê-mô đi về phòng riêng. Tôi đưa mắt nhìn theo. Trên bức tường đối diện với cửa ra vào, phía trên chân dung các anh hùng, tôi thấy chân dung một phụ nữ còn trẻ và hai đứa con. Thuyền trưởng Nê- mô đưa tay về phía họ và ngắm nhìn mấy giây. Rồi Nê-mô quỳ xuống và khóc nức nở.

Chương 46

Những Lời Cuối Cùng Của Thuyền Trưởng Nê-mô

Cảnh tượng ghê sợ chấm dứt, cửa sổ đã đóng lại, nhưng đèn phòng khách chưa bật sáng. Bên trong tàu Nau-ti-lúx im phăng phắc và tối om. Tàu chạy hết sức nhanh ra khỏi chỗ đau thương vừa rồi ở độ sâu một trăm mét. Nó đi đâu? Xuống phía nam hay lên phía bắc? Tôi trở về phòng riêng. Nét và Công-xây đang ngồi ở đó và chẳng nói năng gì...

Đến 11 giờ, đèn điện bật sáng. Tôi sang phòng khách. Chẳng có ai ở đó. Tôi nhìn các máy móc. Tàu Nau-ti-lúx đang chạy về phía bắc với tốc độ hăm nhăm hải lý một giờ, khi thì trên mặt biển, khi thì ở dưới độ sâu mươi mét. Theo những dấu ghi trên bản đồ, tôi thấy tàu đã chạy ngang qua biển Măng-sơ và lao rất nhanh về phía bắc. Đến chiều, tàu đã đi được hai trăm hải lý trên Đại Tây Dương. Trời đã hoàng hôn, nhưng trăng chưa lên nên biển bị bóng tối bao phủ. Cảnh tượng khủng khiếp vừa qua lúc nào cũng ám ảnh tôi. Từ hôm nay, ai có thể biết tàu Nau-ti-lúx sẽ đưa chúng tôi đến đâu trong khu vực Bắc Đại Tây Dương này?... Tôi chẳng biết bao thời gian đã trôi qua. Thời gian đã ngừng lại trên các đồng hồ của tàu. Hình như ngày và đêm không nối tiếp nhau một cách bình thường nữa. Tôi đoán -có thể sai -rằng tàu Nau-ti-lúx đã chạy được mười lăm hay hai mươi ngày. Và chẳng biết nó còn chạy tiếp bao lâu nữa, nếu không xảy ra một tai nạn lớn kết thúc cuộc hành trình này. Thuyền trưởng Nê-mô chẳng thấy tăm hơi đâu. Viên thuyền phó cũng vậy. Không một thủy thủ nào xuất hiện, dù chỉ một giây. Tàu Nau-ti-lúx gần hết thời gian ở dưới mặt biển. Khi nó nổi lên để lấy không khí, cửa sổ mở ra đóng vào một cách tự động. Trên bản đồ không có một dấu ghi nào. Tôi chẳng biết tàu hiện đang ở đâu. Nét Len vì kiệt sức và nản lòng nên cũng tránh mặt, Công-xây không cậy được ở Nét một lời, nên sợ trong cơn quẫn trí hay nhớ quê hương quá, Nét sẽ tự sát, Công-xây bám chặt Nét không rời một phút. Ai cũng hiểu rằng trong những điều kiện như vậy, chúng tôi thực không chịu đựng nổi. Một buổi sáng, khó nói là ngày bao nhiêu, tôi chợp mắt đi trong một giấc ngủ nặng nề, đau đớn. Khi tỉnh dậy, tôi thấy Nét cúi xuống người tôi thì thào:

-Ta trốn đi thôi! Tôi bật dậy hỏi:

-Bao giờ?

-Ngay đêm nay. Hình như tàu Nau-ti-lúx chẳng còn ai trông nom nữa. Có thể nói, mọi hoạt động trên tàu đều đã ngừng. Ngài sẽ chuẩn bị sẵn sàng chứ?

-Vâng. Nhưng chúng ta đang ở đâu?

-Đang ở gần đất liền. Sáng nay, tôi đã nhìn thấy đất liền qua sương mù, cách tàu hai mươi hải lý về phía đông.

-Đó là đất nào?

-Tôi không rõ, nhưng dù đất nào thì ta cũng sẽ tìm được chỗ trú chân.

-Đúng vậy, đêm nay chúng ta sẽ trốn, dù có bị chết đuối ngoài biển.

-Biển động gió to. Nhưng vượt hai mươi hải lý trên chiếc xuồng con của tàu Nau-ti-lúx, tôi chẳng hãi gì. Tôi có thể bí mật cất giấu một ít lương thực và mấy chai nước vào xuồng.

-Tôi sẽ theo ông, ông Nét ạ.

-Nếu bị lộ thì tôi sẽ chống cự lại đến cùng.

-Chúng ta sẽ sống chết có nhau, ông Nét ạ. Nét đi ra. Tôi lên boong, nhưng vất vả lắm mới đứng được vì sóng lắc rất mạnh. Bầu trời không hứa hẹn điều gì tốt lành, nhưng một khi đã nhìn thấy đất liền, thì phải trốn ngay, không được chậm một ngày, một giờ nào. Tôi quay về phòng khách, trong lòng vừa sợ vừa muốn gặp thuyền trưởng Nê-mô. Tôi sẽ nói gì với ông ta? Liệu tôi có che giấu được nỗi kinh hoàng mà ông ta đã gây cho tôi không? Không! Thế thì tốt hơn là không nên chạm trán bây giờ! Tốt hơn là nên quên ông ta đi!... Cái ngày cuối cùng trên tàu Nau-ti-lúx này sao dài thế! Tôi còn lại một mình. Nét và Công-xây tránh gặp tôi để khỏi bị lộ. Đến sáu giờ, tôi ngồi vào bàn ăn dù chẳng thấy đói chút nào. Nhưng tôi tự ép mình ăn vì không muốn bị đuối sức đi. Đến sáu giờ rưỡi, Nét vào phòng tôi và nói:

-Từ nay đến lúc xuất phát, chúng ta sẽ không gặp nhau nữa. Đến mười giờ đêm vẫn chưa có trăng đâu. Chúng ta sẽ lợi dụng trời tối. Giáo sư hãy đến chỗ để xuồng. Công-xây và tôi sẽ chờ ở đó. Nét rút lui ngay, chẳng chờ tôi trả lời nữa. Tôi muốn kiểm tra lại hướng đi của tàu Nau-ti-lúx, nên sang phòng khách. Tàu phóng như tên bắn về phía đông-bắc ở độ sâu năm mươi mét. Lần cuối cùng tôi nhìn kỳ quan của thiên nhiên, những tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời chen chúc nhau trong phòng bảo tàng này, nhìn những bộ sưu tập có một không hai, đến ngày nào đó sẽ bị mất đi cùng với người đã tìm kiếm ra nó. Tôi muốn in sâu mãi mãi những vật quý đó vào ký ức. Tôi đứng nhìn suốt một tiếng đồng hồ. Sau đó, tôi trở về phòng riêng rồi mặc bộ đồ đi biển không thấm nước. Tôi thu thập những sổ ghi và giấu kín trong người. Tim tôi đập thình thịch. Vẻ lúng túng và xúc động của tôi tất nhiên không thể lọt qua mắt thuyền trưởng Nê-mô. Nê-mô đang làm gì lúc này? Tôi đến gần cánh cửa thông qua sang phòng ông ta. Có tiếng chân người bên đó. Đó là Nê-mô. ông ta không ngủ. Mỗi cử động nhỏ của Nê-mô khiến tôi tưởng tượng rằng ông ta sắp xuất hiện trước mặt tôi và hỏi:

“Vì sao ngài lại muốn chạy trốn?" Tôi sợ hãi từng tiếng động nhỏ. óc tưởng tượng càng tăng thêm nỗi khiếp sợ của tôi. Tình trạng căng thẳng ấy lên tới mức độ khiến tôi mấy lần tự hỏi: hay là ta sang phòng Nê-mô và nhìn thẳng vào mặt ông ta mà thách thức? Thật là một ý nghĩ điên rồ! Cũng may là tôi tự kìm lại được và trở về phòng, nằm xuống giường cho thể xác đỡ mệt mỏi. Thần kinh tôi dịu xuống, nhưng óc thì vẫn làm việc.

Những kỷ niệm trên tàu Nau-ti-lúx lướt qua rất nhanh. Tôi nhớ lại tất cả những sự kiện đã xảy ra từ khi tôi bị văng ra khỏi tàu Lin-côn: những cuộc đi săn ngầm dưới biển, eo Tô-rex, bờ biển Pa-poa, nghĩa trang san hô, kênh đào Xuy-ê, vũng biển Vi-gô, lục địa át-lan-tích, Nam cực, trận chiến đấu với bạch tuộc, cơn bão ở dòng biển Gơn-xtơ-rim, tàu "Báo thù" và chiếc tàu chiến bị đắm cùng toàn bộ thủy thủ. Tất cả những sự kiện đó diễn lại trước mắt tôi như phông cảnh di động ở rạp hát. Và trên cái phông cảnh độc đáo ấy nổi bật lên hình dáng của thuyền trưởng Nê-mô. ông ta không còn là người thường, mà là kẻ ngự trị sóng nước, là thần biển! Đã chín rưỡi. Tôi lim dim mắt và lấy tay ôm đầu cho khỏi vỡ tung ra. Tôi chẳng muốn nghĩ gì nữa. Còn phải chờ đợi nửa tiếng, nửa tiếng đồng hồ đầy ác mộng khiến tôi phát điên lên được! Lúc đó, tôi nghe thấy tiếng đại phong cầm huyền ảo, tiếng đàn buồn thảm như một tiếng hát thê lương. Tôi lắng nghe và bị tiếng đàn tuyệt diệu lôi cuốn đi như nó đã từng lôi cuốn thuyền trưởng Nê-mô vào một thế giới khác. Nhưng tôi bỗng hoảng sợ khi thấy Nê-mô sang phòng khách, mà muốn chạy trốn thì tôi phải qua đó. Tôi sẽ gặp ông ta lần cuối. Nê-mô sẽ thấy tôi và có thể sẽ nói chuyện với tôi. Nê-mô có thể giết tôi bằng một cử chỉ, cột chặt tôi vào tàu Nau-ti-lúx bằng một lời nói! Sắp mười giờ. Đã đến lúc phải ra khỏi phòng để gặp Nét và Công-xây. Dù thuyền trưởng Nê-mô có đứng ngay trước mặt, cũng không thể do dự được. Tôi mở cửa rất cẩn thận, nhưng vẫn cảm thấy nó kêu to quá.

Có lẽ tiếng cót két đó chỉ là do tôi tưởng tượng ra. Tôi bắt đầu bò theo các hành lang tối mò trong tàu, luôn luôn phải dừng lại để tim đỡ đập mạnh. Tôi mò đến cánh cửa ở góc phòng khách rồi khẽ hé mở. Trong phòng khách tối om. Tiếng đại phong cầm thoảng nhẹ. Nê-mô đang ngồi đó. ông ta không thấy tôi. Tôi bò trên tấm thảm mềm, cố không vấp phải cái gì vì một tiếng động nhỏ cũng có thể làm lộ. Mất năm phút tôi mới tới được chỗ cửa chính thông sang thư viện. Tôi sắp mở cửa thì bỗng tiếng thở dài của Nê-mô làm tôi nằm chết dí tại chỗ. Tôi biết là ông ta đang đứng dậy. Tôi nhìn thấy cả người ông ta, tuy không rõ lắm, nhờ một tia sáng từ bên phòng khách lọt sang. Nê-mô đi về phía tôi, trầm lặng, tay khoanh trước ngực. Ngực ông ta phập phồng, nức nở. Tôi nghe thấy tiếng nói của Nê-mô, những lời cuối cùng mà tôi nghe được:

-ại, thế là đủ rồi! Đủ rồi! Cái gì vậy? Tiếng nói của lương tâm hay tiếng kêu của tâm hồn con người đó? Trong sự kinh hoàng tột độ, tôi vọt sang thư viện trèo lên cầu thang trung tâm rồi chạy đến chỗ để xuồng. Tôi chui vào xuồng qua một lỗ hổng. Trong xuồng đã có Nét và Công-xây rồi.

-Ta đi thôi, đi thôi! -Tôi giục.

-Đi ngay đây! -Nét trả lời.

Chúng tôi đậy lỗ hổng ở vỏ tàu lại rồi vặn chặt ê-cu. Sau đó chúng tôi đậy kín lỗ hổng ở xuồng rồi Nét tháo ê-cu gắn xuồng với tàu Nau-ti-lúx. Trong tàu bỗng có tiếng người gọi nhau í ới. Có chuyện gì vậy? Họ phát hiện ra chúng tôi rồi chăng? Nét đưa cho tôi một con dao găm. Tôi khẽ nói:

-Đúng, chúng ta biết chết một cách xứng đáng! Nét tạm ngừng công việc. Lúc đó tôi nghe thấy một tiếng kêu, được nhắc lại độ hai mươi lần, một tiếng kêu khủng khiếp, nhờ đó mà tôi hiểu rõ ngay vì sao thủy thủ tàu Nau-ti-lúx lại nhốn nháo.

-Man-xtơ-rim! Man-xtơ-rim!

Trong hoàn cảnh khốn khổ của chúng tôi, còn tiếng kêu nào nghe khủng khiếp hơn thế không? Thế là tàu đã lọt vào vùng biển nguy hiểm nhất của Na-uy. Từ lâu, người ta đã biết rằng khi triều dâng lên giữa nhóm đảo Lô-phô-đen và nhóm đảo Phê-rô thì nước biển ở đây bị ép lại và biến thành một dòng thác khổng lồ. Giữa dòng thác đó hình thành một vũng nước xoáy mà chưa một tàu thuyền nào thoát ra khỏi. Từ bốn phía chân trời xô tới những đợt sóng khủng khiếp. Chính những đợt sóng ấy tạo thành vực thẳm Man-xtơ-rim mà người ta gọi rất đúng "cái rốn của Đại Tây Dương". Vùng nước xoáy mạnh đến nỗi hút vào tất cả mọi vật trong khoảng mười lăm ki-lô-mét. Nó nuốt cả tàu bè, cả cá voi và gấu trắng của vùng Bắc cực. Tàu Nau-ti-lúx đã rơi vào vực thẳm đó một cách vô tình và cũng có thể là do ý muốn của thuyền trưởng Nê-mô. Nó quay tròn theo hình xoáy ốc mà bán kính ngày càng ngắn lại. Chiếc xuồng con của chúng tôi tất nhiên cũng quay với tốc độ ghê gớm như vậy. Chúng tôi kinh hoàng, máu trong người như ngừng chảy, phản ứng thần kinh biến mất, mồ hôi toát ra lạnh ngắt như người đang hấp hối! Xung quanh chiếc xuồng mỏng manh của chúng tôi là tiếng gầm thét vang vọng nhiều dặm xa, là tiếng sóng gào đập vào những mỏm đá nhọn mà những vật rắn chắc nhất va vào cũng tan thành mảnh vụn...

Tàu Nau-ti-lúx vật lộn như một con người. Những bắp thịt thép của nó kêu răng rắc. Thỉnh thoảng nó lại nổi bềnh lên, chúng tôi cũng lên theo. Nét nói:

-Phải bám chắc lấy tàu và vặn ê-cu lại! Còn bám được vào tàu thì ta còn khả năng thoát nạn!... Nét chưa dứt lời thì ê-cu bị bật tung ra. Chiếc xuồng bị hất xuống vùng nước xoáy! Đầu tôi bị đập mạnh vào khung xuồng bằng sắt. Tôi ngất đi.

Bạn đang đọc Hai Vạn Dặm Dưới Biển của Jules Verne
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 17

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.