Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

Chương 08b

Phiên bản Dịch · 4846 chữ

Daldry cười rồi dẫn bước Alice.

- Cô là một phụ nữ kỳ lạ, Alice ạ.

- Còn anh, Daldry, anh là một quý ông kỳ lạ. Anh biết không, hôm qua trong lúc đi dạo một mình chờ anh tỉnh rượu, tôi đã bắt gặp một ngã tư nhỏ hẳn sẽ khiến anh phát điên. Trong lúc băng qua đó, tôi đã lập tức hình dung ra cảnh anh đang về nơi ấy. Có một chiếc xe kéo tuyệt đẹp, những chuyến xe điện giao tránh nhau, hơn chục chiếc chiếc taxi, một chiếc ô tô cổ của Mỹ, loại có từ trước chiến tranh, khách bộ hành có mặt khắp nơi, và thậm chí còn có cả một chiếc xe ba gác được người đàn ông đẩy đi, anh sẽ thích mê à xem.

- Cô đã nhớ đến tôi trong lúc băng qua một ngã tư à? Thật thú vị khi nghĩ đến những thứ mà một nút giao thông gợi lên cho cô.

Điệu valse dừng lại, khách khứa vỗ tay chúc mừng nhạc công và vũ công, Daldry tiến về phía quầy bar.

- Đừng nhìn tôi như thế, cốc lúc nãy không tính, tôi mới chỉ kịp nhấp môi thôi. Được rồi, đồng ý, hứa là hứa. Cô thật khó chơi.

- Tôi có ý này, Alice nói.

- Tôi đang e sợ điều tồi tệ nhất đấy.

- Thế nếu chúng ta ra ngoài thì sao?

- Chuyện ấy thì tôi không phản đối, nhưng đi đâu?

- Đi dạo, đi dạo trong thành phố.

- Trong trang phục này sao?

- Chính xác.

- Cô còn điên hơn tôi tưởng, nhưng dù sao nếu chuyện đó khiến cô vui thì sao lại không chứ?

Daldry lấy áo khoác cho cả hai ở chỗ gửi đồ, Alice đợi anh trên bậc thềm.

- Anh có muốn tôi dẫn anh tới chỗ ngã tư thú vị kia không? Alice đề xuất.

- Tôi dám chắc là vào buổi tối chỗ đó không hấp dẫn lắm đâu; chúng ta nên đợi lúc trời sáng mới vào tận hưởng thú vui đó. Giờ tốt hơn hết là đi bộ đến chỗ đường ray dốc xuôi xuống phía eo biển Bosphore, bên bờ Karaköy.

- Tôi không biết là anh lại thông thuộc thành phố này đến vậy.

- Tôi cũng thế, nhưng suốt hai ngày vừa qua, những lúc ở trong phòng, tôi đã xem cuốn cẩm nang du lịch mình tìm thấy trên bàn đầu giường không biết bao nhiêu lần, rồi rốt cuộc cũng thuộc nằm lòng.

Họ xuôi theo những con ngõ nhỏ ở khu Beyoğlu cho đến tận bến đường sắt cáp treo nối giữa phố với Karaköy. Khi tới chỗ quảng trường nhỏ Tünel, Alice thở dài rồi ngồi xuống một ụ đá.

- Chúng ta hãy quên chuyến đi dạo dọc eo Bosphore đi, tạt vào quán cà phê nào gặp trước tiên đã, tôi xóa bỏ hình phạt, anh có thể uống gì thì uống. Tôi vừa trông thấy một quán, hơi xa một chút so với tôi nhưng có lẽ đó là quán gần nhất.

- Cô nói gì thế? Nó cách đây chừng năm chục mét. Hơn nữa tôi thấy đi tàu cáp treo cũng hay đấy chứ, đây là một trong những hệ thống cổ nhất thế giới. Khoan, đợi một phút, có phải tôi vừa nghe thấy cô nói là xóa bỏ hình phạt không? Ở đâu bỗng nảy ra lòng độ lượng này thế? Đôi giày khiến cô phải chịu cực hình, đúng không?

- Đi bộ trên đường phố lát gạch với giày cao gót quả là chẳng khác gì bị tra tấn.

- Vậy cô hãy bám vào vai tôi. Lát nữa chứng ta sẽ về bằng taxi.

Bên trong quán cà phê nhỏ mọi thứ trái ngược hoàn toàn với bầu không khí ở phòng tiếp khách lớn tại lãnh sự quán. Ở đây, họ chơi bài, họ cười rồi hát, nâng cốc vì tình bằng hữu, vì sức khỏe người thân, vì những ngày qua, vì lời hứa hẹn một tương lai với công việc làm ăn mang lại nhiều lợi nhuận hơn, họ chạm cốc vì mùa đông trên eo Bosphore vẫn khiến trái tim thành phố đập nhịp từ hàng thế kỷ nay, đặc biệt đông năm nay thật dịu ngọt, họ càu nhàu vì đám tàu thủy lưu lại bến quá lâu, vì giá cả sinh hoạt không ngừng tăng lên, vì đám chó hoang tràn ngập khắp vùng ngoại ô, họ chê trách hội đồng thành phố vì lại một dinh thự nữa bị thiêu rụi và những di sản cứ tan thành mây khói trong tay những kẻ khởi xướng vô liêm sỉ; rồi họ lại cụng ly vì tình anh em, vì khu chợ lớn mà đám du khách thường xuyên lui tới.

Mấy người đàn ông ngồi ở bàn bỏ lơi ván bài trong giây lát khi nhìn thấy hai du khách nước ngoài bước vào trong trang phục dạ hội. Daldry phớt lờ bọn họ, anh chọn ngay một bàn ở chỗ dễ thấy rồi gọi hai ly rượu raki.

- Tất cả mọi người đều đang nhìn chúng ta, Alice thì thầm.

- Tất cả mọi người đều đang nhìn cô, cô bạn thân mến ạ, hãy xem như không hề có chuyện gì và uống đi.

- Anh có nghĩ là bố mẹ tôi từng dạo chơi ở những con hẻm này không?

- Ai mà biết được? Rất có thể, có lẽ mai chúng ta sẽ rõ thôi.

- Tôi thích tưởng tượng ra cảnh hai người đều ở đây, cùng nhau thăm thú thành phố, tôi thích nghĩ rằng mình đang đi theo bước chân họ. Có lẽ họ cũng kinh ngạc thán phục khi ngắm nhìn toàn cảnh thành phố từ trên những đồi cao ở khu Beyoğlu, có lẽ họ cũng đã tay trong tay rảo bước trên một đường lát đá dọc mấy con hẻm chạy quanh những ruộng nho cũ ở khu Pera, dọc theo eo biển Bosphore… Tôi biết, như thế thật ngốc, nhưng tôi nhớ bố mẹ.

- Như thế chẳng có gì là ngốc cả. Tôi sẽ tiết lộ với cô một chuyện; không còn có thể có thể trách cứ cha mình về những lộn xộn trong cuộc sống riêng cũng khiến tôi nhớ ông khủng khiếp. Tôi chưa bao giờ dám hỏi cô điều này, nhưng họ…?

- Họ chết như thế nào phải không? Đó là một tối thứ Sáu tháng Chín năm 1941, chính xác là ngày mùng 5. Như mọi thứ Sáu khác, tôi xuống dùng bữa tối với bố mẹ. Thời ấy tôi sống trong căn hộ một phòng ở tầng trên căn hộ của bố mẹ tôi. Tôi đang tranh cãi với bố trong phòng khách, mẹ tôi thì nằm nghỉ trong phòng ngủ, bà bị cúm. Những hồi còi báo động bắt đầu rít lên. Bố lệnh cho tôi xuống hầm trú ẩn, ông đi giúp mẹ mặc đồ và hứa chúng tôi sẽ sớm gặp nhau. Tôi những muốn ở lại giúp ông nhưng bố nài nỉ tôi đi, tôi có nhiệm vụ phải tìm một chỗ nằm thoải mái ẹ trong hầm đề phòng lệnh báo động kéo dài. Tôi vâng lời. Quả bom đầu tiên phát nổ khi tôi đang băng qua phố, gần đến mức sức ép hất tôi ngã sấp xuống đất. Lúc tôi hoàn hồn quay người lại, tòa nhà nơi chúng tôi ở đã bốc cháy. Sau bữa tối, tôi đã muốn vào hôn mẹ trong phòng ngủ nhưng lại không làm thế vì sợ khiến bà thức giấc. Tôi không bao giờ được gặp lại bà nữa. Tôi không bao giờ được chào tạm biệt họ nữa. Thậm chí tôi còn chẳng thể chôn cất họ. Khi lính cứu hỏa dập tắt đám cháy, tôi lùng sục trên đống đổ nát. Chẳng còn lại gì, không chút dấu vết của cuộc sống chúng tôi từng có, không còn gì về tuổi thơ tôi. Tôi tới ở với người cô sống tại đảo Wight và lưu lại đó đến khi chiến tranh kết thúc. Phải mất một thời gian tôi mới đủ sức trở lại Luân Đôn. Gần hai năm. Tôi sống ẩn dật trên hòn đảo của mình, tôi biết rõ từng vũng áng, từng bãi biển, từng ngọn đồi ở đó. Và rồi cuối cùng cô tôi đã khiến tôi thức tỉnh. Cô buộc tôi tới thăm bạn bè. Tôi chỉ còn họ trên thế gian này. Chúng ta giành chiến thắng trong cuộc chiến, một tòa nhà mới được dựng lên, dấu vết của thảm kịch bị xóa sạch, cũng giống như cuộc đời của bố mẹ tôi và bao người khác. Những cư dân mới trong tòa nhà không hay biết, cuộc sống lại tiếp tục vòng quay của mình.

- Tôi thực lòng rất lấy làm tiếc, Daldry khẽ nói.

- Thế còn anh, anh làm gì trong chiến tranh.

- Tôi làm việc trong một đơn vị quân nhu. Tôi không đủ điều kiện sức khỏe để ra trận, một trận lao nặng đã để lại di chứng trong phổi tôi. Tôi giận điên người, thậm chí tôi còn nghi ngờ bố đã dùng ảnh hưởng tác động đến bác sĩ quân y để họ loại tôi. Tôi toàn tâm toàn sức xoay xở để được nhập ngũ rồi cuối cùng vào được một đơn vị tình báo, hồi giữa năm 1944.

- Vậy là dù sao anh cũng đã tham gia, Alice nói.

- Chỉ bên bàn giấy thôi, chẳng có gì vẻ vang cả. Mà chúng ta nên đổi chủ đề thôi, tôi không muốn lãng phí buổi tối nay; là lỗi của tôi, lẽ ra tôi không nên thọc mạch thế.

- Chính tôi đã bắt đầu đặt những câu hỏi thọc mạch đấy chứ. Đồng ý, chúng ta nói chuyện gì vui hơn đi. Cô ấy tên gì?

- Ai kia?

- Cô gái đã bỏ anh và khiến anh đau khổ ấy.

- Qun niệm của cô về những thứ vui vẻ thật là kỳ cục!

- Sao lại phải bí mật thế? Cô ấy trẻ hơn anh nhiều à? Thôi nào, kể cho tôi nghe đi, cô ấy tóc vàng, hung hay nâu?

- Xanh lét, cô ấy xanh lét từ đầu đến chân với cặp mắt lồi, bộ giò cực đại đầy lông lá. Chính vì thế mà tôi không tài nào quên được cô ấy. Rôi, giờ nếu cô còn đặt thêm bất cứ câu hỏi nào vể cô ấy, tôi sẽ tự thưởng ình một ly raki nữa.

- Gọi hai ly đi, tôi sẽ nâng cốc cùng anh!


Quán cà phê đóng cửa, thời gian trôi nhanh hơn họ tưởng và chẳng còn thấy bóng dáng một chiếc taxi hay dolmuş nào qua lại trên những con phố nhỏ gần quảng trường Tünel.

- Để tôi nghĩ xem nào, hẳn phải có giải pháp, Daldry nói lúc đèn trong cửa tủ kính của quán cà phê vụt tắt sau lưng họ.

- Tôi có thể đi bằng tay để về khách sạn nhưng như thế có nguy cơ làm hỏng váy, Alice vừa đề xuất vừa cố lộn nghiêng mình.

Daldry đỡ kịp khi cô ngã nhào.

- Nhưng cô say mất rồi, tôi đảm bảo đấy.

- Đừng có phóng đại lên thế, hơi chếnh choáng thì đúng hơn, chứ say là nói quá rồi.

- Cô nghe thấy mình nói không? Thậm chí còn chẳng phải giọng cô nữa, nghe cứ như giọng bà bán hoa quả rong bốn mùa ấy.

- Vậy à, buôn bán các mùa quả là một nghề rất hay, hai dưa chuột, một cà chua và một mùa xuân, nhanh nào! Tôi sẽ cân cho ông, thưa quý ông của tôi và tôi sẽ bán cho ông với giá chỉ nhỉnh hơn giá buôn mười phần trăm để bù vào chi phí vận chuyển. Đây là vì ông trông cũng tử tế, mà tôi lại đang muốn dọn hàng sớm, Alice cố tình giả giọng giống đến mức nghe cứ như dân chợ búa đang nói.

- Càng lúc càng tệ. Cô ấy say khướt rồi!

- Cô ấy hoàn toàn không say và với những gì anh đã dính mũi vào từ khi chúng ta ở đây thì anh không ở đúng chỗ để lên lớp tôi đâu! Mà anh đang ở đâu thế?

- Ở ngay bên cạnh cô thôi… Phía bên này!

Alice quay sang trái.

- À, lại đây rồi. Chúng ta sẽ đi dạo dọc bờ sông chứ? cô vừa nói vừa tựa vào một cây đèn đường.

- Tôi không chắc lắm. Bosphore là một eo biển chứ không phải con sông.

- Càng tốt, tôi đang đau chân. Mấy giờ rồi?

- Hẳn quá nửa đêm rồi và đêm nay là một ngoại lệ, không phải có xe bốn bánh mà chính công chúa mới biến thành quả bí ngô.

- Tôi hoàn toàn không muốn về khách sạn chút nào, tôi muốn quay lại nhảy ở lãnh sự quán… Anh nói gì về quả bí ngô thế?

- Không có gì! Được rồi, bệnh nào thuốc nấy.

- Anh làm gì vậy? Alice hét lên trong khi Daldry xốc cô vác lên vai.

- Tôi đưa cô về khách sạn. Anh sẽ hộ tống tôi đến cổng trong một cái bao thư à?

- Nếu cô muốn, Daldry đáp rồi ngước mắt lên trời.

- Nhưng tôi không muốn anh để tôi lại chỗ người gác cửa, được chứ?

- Dĩ nhiên, giờ thì im lặng cho tới khi đến nơi nhé.

- Có một sợi tóc vàng trên lưng áo smoking của anh, tôi đang tự hỏi tại sao nó lại ở trên đó được. Thêm nữa tôi nghĩ là mũ mình vừa rơi rồi, Alice lầm bầm rồi thiếp đi.

Daldry quay lại trông thấy chiếc mũ dạ lăn xuống cuối con hẻm rồi kết thúc hành trình của mình trong rãnh nước lề đường.

- Tôi e là chúng ta sẽ phải mua cái khác thôi, anh lầm bầm.

Anh ngược lên con phố dốc, hơi thở của Alice cứ chọc cù vào tai anh, nhưng anh không thề làm được gì.


Anh đi dạo với bố, kể với ông về những dự định của mình. Anh sắp bắt tay thực hiện một bức tranh lớn vẽ cảnh đồng hoa bia rộng mênh mông bao quanh khu ruộng đất. Bố anh thấy đây quả là một ý tưởng tuyệt đẹp. Cần thúc nhanh việc giao chiếc máy kéo để vẽ nó vào bức tranh. Ông vừa mới mua một cái mới toah của hang Fergusson, được chuyển bằng đường thủy từ Mỹ sang. Daldry bối rối, anh đã hình dung ra cảnh những nhánh hoa bia bị gió thổi rạp xuống, một khoảng vàng mênh mông bất tận chiếm phân nửa tác phẩm, đối lập với những sắc xanh nhạt dần biểu thị hình ảnh bầu trời. Nhưng bố anh lại có vẻ hết sức sung sướng khi cái máy kéo mới của ông được vinh danh… Anh sẽ phải nghĩ về chuyện này, có lẽ nên thể hiện nó bằng một nét phẩy màu đỏ ở phía dưới bức tranh, bên trên một chấm đen biểu thị cho trang trại.

Cánh đồng hoa bia cùng một chiếc máy kéo dưới bầu trời bao la, đó thực sự là một ý hay. Bố mỉm cười với anh rồi vẫy tay chào, khuôn mặt ông hiện ra giữa những đám mây. Một hồi chuông vang lên, một hồi chuông xa lạ cứ kéo dài, kéo dài mãi…

Tiếng chuông điện thoại đưa Daldry từ giấc mơ giữa vùng quê nước Anh về với ánh ngày nhợt nhạt trong căn phòng khách sạn ở Istanbul.

- Tạ ơn Chúa! anh thở dài rồi nhõm dậy.

Anh quay sang phía bàn đầu giường nhấc ống nghe.

- Daldry nghe đây.

- Anh đang ngủ à?

- Giờ thì không… trừ khi ác mộng lại tiếp tục.

- Tôi đánh thức anh à? Tôi rất lấy làm tiếc, Alice xin lỗi.

- Cô không phải thế đâu, tôi sắp vẽ một bức tranh hẳn sẽ biến tôi thành một trong những họa sĩ phong cảnh đại tài nửa cuối thế kỷ XX, tốt hơn hết là tôi nên thức dậy càng sớm càng tốt. Ở Istanbul giờ là mấy giờ rồi?

- Gần trưa. Tôi cũng vừa mới dậy, tối qua chúng ta về muộn lắm à?

- Cô có thực sự thiết tha với những gì tôi sắp nhắc lại về đoạn cuối buổi dạ hội hôm qua không?

- Tôi chẳng còn nhớ gì cả. Anh nghĩ sao nếu chúng ta đi ăn ở bến cảng trước khi tới lãnh sự quán?

- Bầu không khí thoáng đãng sẽ làm ta dễ chịu. Ngoài trời thế nào? Tôi vẫn còn chưa kéo rèm lên.

- Thành phố tắm mình trong ánh mắt trời, Alice đáp, anh chuẩn bị nhanh lên rồi chúng ta gặp nhau dưới sảnh.

- Tôi sẽ đợi cô ở quầy bar, tôi cần uống một tách cà phê.

- Ai bảo là anh sẽ xuống được đó trước?

- Tôi hy vọng là cô đang đùa đấy chứ?


Vừa bước xuống cầu thang, Daldry đã trông thấy Can đang ngồi ở sảnh, khoanh tay trước ngực, mắt nhìn anh chằm chằm.

- Anh ở đây lâu chưa?

- Từ tám giờ sáng nay, ngài tự tính xem, thưa Quý Ngài.

- Xin lỗi nhưng tôi không biết là chúng ta có hẹn.

- Tôi xuất hiện vào buổi sáng cũng là bình thường thôi. Quý Ngài chẳng đã thuê tôi còn gì?

- Nói xem anh tính tiếp tục gọi tôi như thế bao lâu nữa? Nghe thật nực cười và khó chịu.

- Chỉ khi nào tôi tức anh thôi. Tôi đã sắp xếp hẹn với một người thợ làm nước hoa khác, nhưng đã quá trưa…

- Tôi muốn uống một tách cà phê, chúng ta bàn sau nhé, Daldry nói rồi bỏ Can lại.

- Ngài có thèm muốn nào đặc biệt dành cho thời gian còn lại trong ngày không, thưa Quý Ngài! Can hét lên sau lưng anh.

- Muốn anh để tôi được yên!

Daldry ngồi vào quầy, không tài nào rời mắt khỏi Can vẫn đang đi đi lại lại ngoài sảnh. Anh rời ghế đầu quay lại chỗ anh ta.

- Tôi không muốn tỏ ra khó chịu đâu. Để chuộc lỗi, tôi sẽ cho anh nghỉ ngày hôm nay. Dù sao thì tôi cũng đã hứa đưa cô Alice đi ăn rồi sau đó chúng tôi có hẹn ở lãnh sự quán. Mai anh quay lại đây gặp chúng tôi, vào giờ hợp lý hơn, tầm cuối buổi sáng nhé, chúng ta sẽ đi gặp người thợ làm nước hoa của anh.

Rồi sau khi tạm biệt Can, Daldry quay lại quầy bar.

Sau khoảng mười lăm phút, Alice tới gặp anh ở đó.

- Tôi biết, anh nói trước khi cô kịp mở lời, tôi đã tới trước, nhưng cũng chẳng có gì vẻ vang cả, chỉ là cô đã không gặp may.

- Tôi mải tìm cái mũ, vì thế nên mới xuống muộn.

- Thế cô có thấy không? Daldry ranh mãnh hỏi.

- Dĩ nhiên rồi! Nó nằm ngay ngắn trên ngăn tủ quần áo của tôi.

- Vậy à, thảo nào trông cô vui vẻ thế! Thế còn bữa trưa bên bờ biển thì sao, cô vẫn đi chứ?

- Kế hoạch thay đổi. Tôi vừa định bảo anh, Can đã nhẫn nại đợi ở sảnh, anh ấy thu xếp dẫn chúng ta đi thăm khu chợ lớn bazar, thật hết sức đáng yêu. Tôi mừng đến phát điên, tôi vẫn mơ về nơi đó. Khẩn trương lên, cô nói, tôi đợi anh bên ngoài nhé.

- Tôi cũng vậy, Daldry nghiến rang nói trong lúc Alice đã đi xa. Nếu may mắn, tôi có thể tìm một góc vắng vẻ mà bóp cổ tay hướng dẫn viên này.

Xuống xe điện, họ tiến về phía mặt Bắc cửa đền thờ Beyazit. Đến cuối quảng trường, họ vào một con phố hẹp, hai bên là những quầy sách cũ cùng quầy hàng của thợ khắc. Họ đã lang thang khắp các lối đi trong khu chợ lớn được một tiếng đồng hồ mà Daldry vẫn không nói một lời, Alice hớn hở chỉ chú tâm vào những giai thoại Can kể.

- Đây là khu chợ có mái che lớn nhất và lâu đời nhất thế giới, anh chàng hướng dẫn viên tự hào thông báo. “Bazar” có nguồn gốc từ tiếng Ả rập. Thời xưa, người ta gọi nơi này là Bedesten, vì trong tiếng Ả rập bedes có nghĩa là “len”, mà trước kia đây chính là nơi bán len.

- Còn tôi thì là con cừu đang theo đuôi chàng mục đồng, Daldry lẩm bẩm.

- Ngài nói gì vậy, thưa Quý Ngài? Can quay lại hỏi.

- Không có gì, tôi vẫn kính cẩn nghe anh đây, anh bạn thân mến ạ, Daldry đáp.

- Bedesten cổ nằm chính giữa khu chợ lớn, nhưng giờ ở đó là những cửa hàng vũ khí cổ, đồ đồng cũ và đồ gốm sứ ngoại lệ thường. Ban đầu toàn bộ được dựng lên bằng gỗ. Nhưng rủi thay cả khu đã bị cháy rụi hồi đầu thế kỷ XVIII. Khu chợ gần giống một thành phố có mái che với những mái vòm lớn, ngẩng đầu lên là các vị có thể thấy và đừng có hờn dỗi nếu một số người thấy được điều tôi muốn nói! Ở đây có đủ mọi thứ, đồ trang sức, áo lông thú, thảm len, đồ mỹ nghệ, dĩ nhiên là nhiều hàng nhái, nhưng một số món rất tuyệt đẹp nếu có con mắt giám định biết đào bới ra chúng nữa…

- Đám lộn xộn này, Daldry lại càu nhàu.

- Nhưng rốt cuộc thì anh làm sao thế? Alice phản đối, những điều anh ấy giải thích cho chúng ta thật lý thú, có vẻ như anh đang tâm trạng bực bội quá đáng.

- Không một chút nào, Daldry đáp trả. Tôi chỉ đói, thế thôi.

- Phải mất trọn hai ngày mới khám phá được hết tất cả các con hẻm, Can thản nhiên tiếp tục. Để tạo điều kiện cho chuyện bát phố kéo dài vài giờ của quý vị, các vị nên biết rằng khu chợ được tài tình chia thành các phường, mỗi phường đều được bảo dưỡng cẩn thận như các vị có thể nhận thấy. Trong mỗi phường tập hợp các sản phẩm theo từng ngành hàng. Chúng ta cũng có thể đến ăn tại một địa điểm tuyệt vời vì ở đó ta có thể tìm thấy những món ăn duy nhất có khả năng khiến Quý Ngài của chúng ta say mê.

- Anh ấy có cách gọi anh thật lạ thường. Anh thấy đó, nó rất hợp với anh đấy, “Quý Ngài”, thậm chí còn khá hài hước nữa, đúng không? Alice thì thầm vào tai Daldry.

- Không, hoàn toàn không, nhưng vì có vẻ như lối xưng hô ấy làm cả hai người vui nên tôi sẽ không phá hỏng thú vui của các vị bằng cách cứ để các vị tưởng rằng trò mỉa mai của anh ta động chạm được đến tôi.

- Giữa hai người xảy ra chuyện gì à? Hai người cứ như chó với mèo ấy.

- Hoàn toàn không! Daldry đáp với vẻ mặt của đứa trẻ bị phạt đứng góc lớp.

- Anh quả là xấu tính! Can thì tận tụy hết mực. Nếu anh đói đến mức ấy thì chúng ta đi ăn. Tôi đành bỏ cuộc đi dạo này và nếu như làm thế giúp anh tìm lại được nụ cười.

Daldry nhún vai rồi rảo bước, bỏ xa Can và Alice.

Alice dừng lại trước một cửa hiệu bán nhạc cụ, một cây kèn đồng cũ thu hút ánh nhìn của cô. Cô xin phép người bán hàng được nhìn gần hơn.

- Armstrong(1) từng chơi chính là cây kèn ấy, người bán hàng phấn khởi nói. Độc nhất vô nhị đấy, tôi không biết chơi nhưng một người bạn của tôi đã thử và anh ta ngay lập tức muốn mua, đó là một vụ mua bán đặc biệt, ông ta thêm.

Can xem xét nhạc cụ rồi nghiêng về phía Alice.

- Đồ giả đấy. Nếu cô tìm mua một cây kèn đẹp, tôi biết chỗ bán thứ cô cần. Để cái này xuống đi rồi đi theo tôi.

Daldry chỉ còn biết ngước mắt lên nhìn trời khi thấy Alice đi theo Can, chú tâm vào những lời khuyên anh chàng hướng dẫn viên đưa ra.

Can dẫn cô tới một cửa hàng nhạc cụ khác nằm trong con hẻm bên cạnh. Anh yêu cầu người bán giới thiệu với cô bạn anh những mẫu đẹp nhất, miễn là không phải vì thế mà là những mẫu đắc nhất, nhưng Alice đã phát hiện ra một cây đằng sau tủ kính.

- Đấy đúng là kèn Selmer chứ? cô vừa hỏi vừa cầm cây kèn lên.

- Chính hiệu đấy, nếu còn nghi ngờ thì cô cứ đi.

Alice nghe thử âm thanh của cây kèn.

- Một cây kèn bạc bốn piston, nó hẳn phải đắt lắm!

1. Louis Daniel Armstrong (1901-1971), nghệ sĩ nhạc jazz nổi tiếng người Mỹ.

- Khi mặc cả ở khu chợ lớn thì người ta không làm thế đâu, thưa quý cô, người bán hàng vừa nói vừa cười niềm nở. Tôi còn muốn giới thiệu với cô một cây Vicent Bach nữa, Stradivarius của làng kèn, ở Thổ Nhĩ Kỳ chỉ có duy nhất cây này thôi.

Nhưng Alice chỉ để mắt đến cây kèn Selmer. Cô nhớ đến Anton, anh từng đứng hàng giờ liền giữa giá rét để chiêm ngưỡng cũng mẫu kèn này trong tủ kính của một nhà buôn ở Battersea, không khác gì một tay mê ô tô chết ngất trước một chiếc Jaguar hay một con xe mang vẻ đẹp Ý. Anton đã chỉ dạy cho cô mọi điều về kèn, sự khác nhau giữa kèn piston và kèn bấm nút, kèn gõ đánh véc ni và kèn mạ bạc, về tầm quan trọng của chất liệu hợp kim vốn ảnh hưởng đến độ vang của kèn.

- Tôi có thể bán nó cho cô với giá phải chăng, người bán hàng ở khu chợ lớn nói.

Can nói gì đó bằng tiếng Thổ.

- Với một giá rất hời, người đàn ông chữa lại, bạn của Can cũng là bạn tôi. Tôi cũng tặng cô luôn túi đựng.

Alice trả tiền cho người bán hàng rồi, trước một Daldry dè dặt hơn bao giờ hết, bước đi với món đồ vừa mua.

- Tôi không hề biết rằng cô là chuyên gia về kèn, anh nói lúc theo gót cô. Cô có vẻ rất thạo.

- Đấy là bởi vì anh chưa biết hết mọi điều về tôi, Alice đáp vẻ đầy chế nhạo rồi rảo bước.

- Nhưng tôi đã bao giờ nghe cô thổi kèn đâu và có Chúa biết rằng tường ngăn giữa hai căn hộ của chúng ta dày đến mức nào đâu.

- Thế còn anh, chẳng phải anh cũng chẳng bao giờ chơi dương cầm còn gì?

- Tôi đã nói với cô rồi, đó là bà hàng xóm tầng dưới. Mà tóm lại thì sao nào? Đừng có nói với tôi là cô sẽ mang cái kèn của mình ra tận dưới cầu đường sắt mà thổi để làm phiền đến hàng xóm đấy nhé?

- Tôi tưởng anh đang đói cơ mà, Daldry? Tôi hỏi thế bởi vì tôi thấy phía trước có một quán ăn tồi tàn, giống như anh vẫn thích gọi thế, trông hoàn toàn không tồi chút nào.

Can bước vào quán trước tiên và ngay lập tức giành được cho họ một bàn trống, bất chấp hàng dài khách đang đợi đến lượt.

- Anh có cổ phần trong khu chợ hay bố anh chính là người sáng lập ra nó vậy? Daldry hỏi trong lúc ngồi xuống.

- Tôi chỉ đơn giản là hướng dẫn viên, thưa Quý Ngài!

- Tôi biết, và xuất sắc nhất Istanbul…

- Tôi bị lóa mắt vì cuối cùng anh cũng chân thành thừa nhận điều đó. Tôi sẽ đi gọi món cho các vị, thời gian trôi nhanh quá, lát nữa các vị còn cuộc hẹn ở lãnh sự quán nữa, Can đáp rồi tiến về phía quầy hàng.

Bạn đang đọc Chuyến du hành kỳ lạ của ngài Daldry của Marc Levy
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 18

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.